Thật ra, để lý giải khái niệm về Niết-bàn bằng thuật ngữ theo quy
ước [thế gian] thì quá mênh mông và khó khăn. Khái niệm Niết-bàn thường
bị hiểu nhầm và đôi khi còn bị lạm dụng trong ngữ cảnh Tây phương (chẳng
hạn, nhóm nhạc Rock Niết-bàn hay Hộp đêm Niết-bàn). Một vài học giả Tây
phương đã sai lầm khi cố gắng chuyển dịch từ này như là một trạng thái
gây nhạy cảm hay giống như một khoái cảm cực độ.
Khái niệm
Niết-bàn đầu tiên được đức Phật Thích-ca [566-486 trước Tây lịch] chứng
giải. Vào độ tuổi 35, bậc Thánh ấy đã đạt đến sự giác ngộ, toàn tri về
thật tánh của hiện thực, tức là Niết-bàn hay chân lý tuyệt đối. Từ
Niết-bàn này xuất phát từ nghĩa gốc là “thổi tắt”, chỉ cho sự dập tắt
tham, sân, si mà chúng được minh dụ như là những ngọn lửa bừng.
Khi
những phiền não thuộc tâm và cảm thọ ấy được trí tuệ tận hủy, thì khi
ấy tâm thức trở nên tự tại, tỏa sáng, an lạc và lúc chết không còn bị
tái sinh nữa. Niết-bàn chính là đại an lạc.
Đức Phật mô tả sự an
trú Niết-bàn như là một trạng thái “bất diệt” và là sự chứng đắc tâm
linh tối thượng, đấy là phần thưởng cho những ai sống đời phạm hạnh.
Nhất là, Nibbana [trong thuật ngữ pāli, tác giả muốn nói đến truyền
thống Tiểu thừa hiểu Niết-bàn như thế nào] mang ý nghĩa gắn liền với sự
ngộ đạo, gắn liền với trạng thái tâm hành tịch diệt, tức là sự chấm dứt
mọi hoạt động của cảnh giới tâm.
Niết-bàn chỉ có thể được mô tả
bằng sự phủ định là “phi giác” mà thôi. Theo đó, đức Phật đã giải thích
khái niệm sâu sắc này cho một trong những đệ tử của Ngài. Ngài hỏi có
phải khi lửa đã bị dập tắt rồi, người ta có thể cho là nó đã đi từ đây
đến bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc hay không. Dù sao đi nữa thì Niết-bàn
không thể cho là hữu, phi hữu, hoặc vừa hữu vừa phi hữu hay là vừa phi
hữu lại vừa phi phi hữu.
Đại đức Dr. Walpola Rahula mô tả khái niệm về Niết-bàn như sau:
“...
Sự phúc đáp hợp lý nhất là không bao giờ Niết-bàn được trả lời trọn vẹn
và thỏa đáng bằng ngôn từ cả, bởi vì ngôn ngữ của thế gian quá nghèo
nàn đến độ không thể nào biểu đạt được bản chất của chân lý tuyệt đối
hay thực tại tối hậu, tức là Niết-bàn. Ngôn ngữ được con người tạo ra và
đã dùng để diễn đạt các thông tin về sự vật và các khái niệm được năm
căn và ý cảm nhận”.
Một thể nghiệm xuất thế gian thuộc về chân
lý tuyệt đối không thể nào có một phạm trù như vậy. Ngôn từ mà chúng ta
biết là những biểu tượng thể hiện các sự vật và ý niệm; và những biểu
tượng này không phải và không thể chuyển tải ngay cả thật tánh của các
sự vật thông thường. Ngôn từ được xem là dễ đánh lừa và làm sai lạc
trong việc nhận thức chân lý. Thế nên, kinh Lăng già dạy rằng, chúng
sinh vô minh bị đọa ở ngôn từ như voi sa lầy. Tuy nhiên, chúng ta không
thể không có ngôn từ.
Thật là sai lầm khi nghĩ rằng, Niết-bàn là
kết quả tự nhiên của sự tận diệt khát ái [sự diệt dục]. Niết-bàn không
phải là thành quả của bất cứ cái gì cả. Nếu có thể là một kết quả, thế
thì Niết-bàn phải là một kết quả do nhân nào đó sinh ra. Nó sẽ là cái
“được sinh” và “có điều kiện”. Niết-bàn phi nhân, phi quả [chẳng phải
nhân mà cũng chẳng phải quả]. Như Thiền-na [dhyana] và Đẳng chí
[samadhi- xa-ma-tha/ một loại thiền định tối thắng], Niết-bàn không bị
sinh ra giống như là một trạng huống thần bí, tâm linh hay tâm lý nào
đó.
Người ta hay hỏi: có cái gì sau khi nhập Niết-bàn? Câu hỏi
này không thể nào được đặt ra, bởi vì Niết-bàn là chân lý tối hậu. Làm
gì có cái nào ở sau Niết-bàn khi nó là tối hậu. Nếu có cái gì sau khi
nhập Niết-bàn, thì cái đó sẽ là tối hậu và không phải là Niết-bàn.
Bậc
đã chứng được chân lý, Niết bàn, là người hạnh phúc nhất trong thế gian
này. Ngài thoát khỏi mọi “phức tạp rối ren” và những dằn vặt, những
phiền não và nghi hoặc mà chúng là tác nhân gây khổ đau cho người khác.
Phẩm chất tâm của Ngài là toàn hảo [luôn an trú trong thiền định], nghĩa
là Ngài tự tại suốt cả ba thời [quá khứ, hiện tại và vị lai].
Ngài
sống trọn vẹn trong hiện tại. Do vậy, Ngài hiện trú và an lạc các pháp
bằng bản chất tâm bất sinh, vô ngã tưởng của mình1. Ngài an lạc, hoan
hỷ, hân thưởng cuộc sống thanh đạm, vui theo khả tính [tri túc] của
mình, hoàn toàn tĩnh lặng, trong sáng, giải thoát hẳn phiền ưu.
Bởi
vì đã thoát khỏi sự khát ái, sân hận, vô minh, kiêu mạn, tự tôn, và mọi
thứ “nhiễm ô” như vậy, nên Ngài tịch tịnh và thanh thoát, trọn vẹn đại
bi, lòng từ mẫn, thiện tính, vị tha, hiểu biết và khoan dung. Hạnh lợi
tha của Ngài thì thuần tịnh, vô niệm, vì không có niệm tưởng nào về ngã
cả. Ngài không giành lấy hay tích lũy bất cứ điều gì, bởi vì Ngài tách
rời hẳn ảo tưởng về cái tôi và sự “thèm khát” cái đang hiện hữu.
Niết-bàn và tâm chúng sinh
Con
người được tạo thành do 6 yếu tố hay lục đại: tánh cứng, độ lỏng, hơi
nóng, sự chuyển động, không gian và thức [đất, nước, gió, lửa, không
gian và thức hay địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, không đại, thức
đại]. Như vậy mọi nhận thức của nhân loại đều sở y trên những cực vi
[các thành phần nhỏ nhất] và dựa vào các lực của thời gian và không
gian, mà chúng là sự giả hữu của 4 sự vật có thể tách ly được [tứ đại
phân ly]. Điều này gây nên nhiều nạn vấn cho nhân loại bởi vì sự liên hệ
tất yếu giữa các sự vật [các pháp] ấy là không thể lãnh hội.
Tính
chất kép thuộc về thân-tâm được xem như là vấn đề “tâm lý” đã được tác
phẩm “Những trạng thái suy nghiệm” của Descarts2, nhà triết học và toán
học rút gọn thành công thức, ấn hành vào năm 1641. Descarts thấy rằng,
thế giới bao gồm hai thực thể sai biệt căn bản: tâm và vật.
Theo
Descarts thì vật chất chiếm lĩnh không gian 3-D [không gian 3 chiều],
còn tâm thì không. Ông không thể giải thích thỏa đáng là vì sao mà hai
thực thể ấy, tâm và vật, lại có quan hệ với nhau như vậy. Đến Benedictus
Spinoza (1632-1677)3 nhận thấy tâm và thân là hai thuộc tính đồng nhất
thể [thực thể giống nhau]; tiến trình của một thực thể và sự vật giống
nhau này được biểu đạt trong hai cách khác nhau.
Cái gì là sự
tương quan giữa thân và tâm nhân loại? Tâm chúng sanh có thể đạt được
những chức năng thần kinh cao cấp nhất qua quá trình tiến hóa không?
Thuyết tiến hóa đã nói lên điều gì? Sự giải thích của Darwin dựa trên
hàng loạt dữ liệu đặc biệt được khoa học tập thành, nó được ràng buộc
vào nhau bằng một khối giả thuyết: trái đất và sự sống phát triển qua
các tiến trình vật lý, hóa học và sinh vật học trải suốt hàng tỷ năm.
[Theo
Darwin] nhân loại tiến hóa từ loài khỉ bằng quá trình biến đổi vật chất
thuần túy của “sự chọn lọc tự nhiên”, tiến trình tương tợ này xuyên
suốt mọi đời sống tiến hóa.
Do vậy, bộ môn Vũ trụ khoa học là một
bộ môn phát triển và tiến bộ liên tục xuyên suốt các thời kỳ dài đăng
đẳng. Con người đã đạt được những thành công to lớn trong lãnh vực này.
Não bộ của họ đã phát triển đến một điểm cao hơn. Còn tâm thức con người
thì tuyệt vô giới hạn. Nền khoa học đương thời đã không khám phá được
chí đến 5 phần trăm não bộ của con người và khả tính thông tuệ của nó
[nói chi đến lãnh vực tâm thức].
Các nhà Thần kinh học hằng ngày
đều khám phá ra những giản đồ mới, và các chức năng não bộ siêu cấp. Tất
cả đều có quan điểm chung rằng, tâm thức con người là một hệ thống phi
thường tiến bộ gấp hàng triệu lần những máy tính mới nhất. Theo Phật
giáo, tâm và vật là bất khả phân [không có sự phân biệt nào giữa các
khía cạnh vật lý và đời sống tâm lý]. Kinh nghiệm của người này ảnh
hưởng đến người kia.
Niết-bàn có thể quan sát thấy bằng tâm. Nói
cách khác, tâm thức con người có thể được tập luyện trong những hoạt
động nhận thức cao hơn. Khi tâm thức vươn đến một trạng thái như vậy thì
nó có thể “xứng lý tác Phật sự” (luận chứng đúng như lý và xuất sinh
thiện hạnh). Sự thực chứng Niết-bàn là một hình thái chứng đắc tâm thức
siêu việt.
Đây là một quả vị mà trong đó người ta thể nghiệm tánh
nhất thể và thực tướng của các pháp như nó đang là. Tánh nhất thể và
duyên sinh4 này của vạn pháp là thực tại khách quan / thực tại phi chủ
thể] phát nguyên từ quan điểm Phật giáo.
Thức và Niết-bàn
Bởi
vì não bộ không chỉ được hình dung như là một hệ thống chuỗi thần kinh
liên kết, hơn thế, đặc biệt nó còn được hình dung như là một “hệ thống”
sóng vật chất [a matter wave ‘system’] cộng hưởng các khu vực [não bộ]
và kiềm chế ngay cả những khu vực não bộ khác nữa. Cái gì chúng ta gọi
là thức và ký ức, thì có lẽ cái đó được mô tả như là những cộng chấn và
chế ngự toàn bộ hệ thống não bộ.
Cũng có thể, thức và trí năng là
một cộng chấn của hệ thống sóng vật chất não bộ; một hiệu ứng của hệ
thống não kết nối với ngoại giới (thế giới bên ngoài). Cấp độ của thức
cho phép người ta sở hữu được thì hẳn là phụ thuộc vào cấp độ kết tập
của hệ ba động não bộ có tính đồng vị và đồng thời với môi trường5. Hệ
thống não bộ càng tương tác và cộng chấn hơn với môi trường thông qua
cảm quan, thì hệ thống đó càng khiến cho thức căn [chính là thẩm quyền
của căn. Luận sư Thế Thân trong Câu-xá luận nói: “Dưới ách thống trị của
căn” Skrt: Indrye] lớn mạnh hơn.
Đức Phật đã dạy, thức sanh do
cảnh duyên, vô cảnh vô duyên thì không có thức. Thức phụ thuộc vào sắc
tướng, cảm thọ, tri giác và các xung lực (sắc, thọ, tưởng, hành) để nó
hiện khởi và nó không thể tồn tại độc lập. Theo thực chất mà nói, chức
năng của nó là đánh giá, đo lường.
Sự hòa hợp của vô thức và hữu thức (ý thức)
Một
cá thể đặc trưng hóa là một cá thể được vô thức và hữu thức hòa hợp và
cái tôi thì không được chuyên nhất. Điều này đạt được bằng cách khai
thác [cho được] mối liên hệ với vô thức, và mối liên hệ này không cho
phép bị cái tôi hay cái ngã áp đảo. Rõ ràng là cái tôi đã có giá trị.
Những
hàm năng hiện hữu bên dưới cái ngưỡng của thức cần được mang lên trên
cái ngưỡng ấy, những thứ chứa đựng bóng dáng khổ đau bị đè nén và những
hành tướng nguyên vẹn chủ yếu do vô thức kết tập cần phải được nhận ra.
Theo Phật giáo, trong tâm con người, có 9 cấp độ của thức [cửu
chủng thức - 9 loại thức]. Năm thức đầu tiên [tiền ngũ thức] tương đương
với năm giác quan của chúng ta và được gọi là: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức và thân thức, (thức của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi
và của thân6). Bốn thức còn lại thuộc về các loại thức chủng tử tâm hay
tâm ý thức [mind consciousness].
Thức thứ sáu kiểm soát nhận
thức về thế giới ngoại tại và thế giới vật chất. Thức thứ bảy liên hệ
đến cảnh vực tinh thần bên trong của chúng ta và điều phối khả tính của
mình trong việc tư duy và đánh giá. Thức thứ tám là kho chứa của Nghiệp,
được gọi là Tàng thức hay Alaya. Thức thứ chín là nền tảng của nhất
thiết tâm linh, được gọi là Amala, tức là bạch tịnh thức, vô cấu nhiễm,
trong sáng như thủy tinh [Amala] vậy.
Giác ngộ thành tựu từ trạng
thái mà nơi đó tâm ý thức [conscious mind] làm phát khởi được tiềm năng
của mình7 qua tu tập ba pháp vô lậu: giới, định, tuệ. Niết-bàn, quả vị
cứu cánh của Phật giáo là trạng thái vô ưu, vô tham và vô ngã tưởng.
Niết-bàn
là trạng thái hạnh phúc tuyệt đối. Theo học thuyết Nibbana, Niết-bàn
[theo truyền thống Nguyên thủy] chẳng những chỉ cho tâm thức bất khứ bất
lai mà nó còn là một quả vị viên chứng nữa, nhờ thế mà “sự giải thoát
có thể được cho là nhờ tâm xả ly, cũng giống như Niết-bàn trong Phật
giáo.”
Ở nơi khác, đức Phật dạy, Niết-bàn là “yếu tánh vô lậu”.
Ngoài tầm học thuyết Freud
Freud
đã mô tả về khoa tâm bệnh lý hay Phân tâm học ở mức độ cơ bản. Bộ môn
Phân tâm học này dựa trên tiến trình tâm lý ý thức và vô thức. Freud
phát triển học thuyết về thái độ ứng xử và tâm thức, dục tính hay những
hoạt động của nó kể cả các niệm tưởng.
Hoạt động vô thức là khái
niệm cốt tủy của bộ môn này. Khái niệm về Siêu Tôi mà Phân tâm học hướng
đến nó không khác với Niết-bàn, mà điều này thì chẳng dễ gì mô tả. Luận
về cái Siêu Tôi cực đoan (xin đọc tác phẩm Phân tâm học tác giả viết
chung với Clinical Evidence, xuất bản 2004, Colombo, Sri Lanka) nêu ra
một vài ý tưởng căn bản về các chức năng của Siêu Tôi và cái Siêu Tôi
cực đoan trong con người có tâm thức đã phát triển. Con người với tâm
thức phát triển cao như vậy, thì những xung động bản năng sẽ giảm xuống
và chiều hướng tâm thức của họ ưu việt hơn.
Thuyết hiện sinh và khái niệm Niết-bàn
Người
ta đã phát hiện ra một vài điểm giống nhau khi so sánh giữa Phật giáo
và các trường phái theo học thuyết hiện sinh. Những nghiên cứu như vậy
thường sử dụng chủ yếu là các phương pháp siêu hình truyền thống và thực
tế là chúng biểu lộ rõ sự phối hợp lẫn nhau về một vài hình thái của
phương pháp luận [về] hiện tượng học.
Khoa Tâm lý học hiện sinh
đã giải quyết những vấn đề cơ bản về sự tồn tại mà có lẽ nó là nguồn gốc
gây ra mâu thuẫn nội tại trong mỗi con người. Những vấn đề này mang
tính phổ quát và cố hữu trong kiếp người [humain condition]; cái chết,
sự tự do, và tính cô độc bẩm sinh [essential aloneness] và sự vô nghĩa
nữa. Cả Phật giáo và Nietzsche đều đề cập đến sự giả hợp của kiếp người.
Từ khổ [dukkha] nói lên ý nghĩa triết học sâu xa về khổ, không
của Phật giáo. Dukkha là chữ Phạn, thường được chuyển dịch là “thống
khổ”. Tuy nhiên, loại khổ quan trọng nhất chính là hành khổ, sở dĩ có sự
đau khổ là bởi tâm thức vô minh.
Khoa tâm lý học hiện sinh nhấn
mạnh đến ý nghĩa của đời sống và sự giải phóng con người. Khái niệm
Niết-bàn mà đức Phật đã sử dụng còn ưu việt hơn cả khái niệm về tự do.
Niết-bàn chỉ cho sự tự do siêu việt và là sự giải thoát tịch mặc diệu
kỳ, đó là mục đích tối hậu của tất cả những lời đức Phật dạy.
“Đây
là an lạc, đây là tính vi diệu - sự giải trừ mọi hư vọng, sự xả ly mọi
chấp trước, sự chấm dứt khát ái, sự vô dục, tịch tịnh, Niết-bàn.”
Tâm lý học cấu trúc và khái niệm Niết-bàn
Từ Gestalt8 có nghĩa là nhất thể hay là viên mãn nghĩa, nhưng mà ở đây người ta dùng nó cho mục đích của việc
nghiên
cứu Tâm lý học. Nghĩa là, Tâm lý học cấu trúc được thiết lập trên sự
khảo sát mà chúng ta thường thể nghiệm các sự vật, chứ không phải là
những cảm nhận riêng lẽ, đơn thuần của chúng ta.
Trong sự nhận
thức, có nhiều nguyên lý tổ chức được gọi là luật cấu trúc. Con người
không thể nhìn thấy thực thể đa chiều, bởi vì quan năng của con người bị
giới hạn trong không gian 3 chiều, ngay cả thế giới đa chiều hơn cũng
chỉ là một tập hợp con của hệ thống đa chiều mà thôi.
[Khi mà]
một bộ phận tương hợp của các nguyên lý chỉnh thể được phát triển thì
thế giới đa chiều được khám phá bằng hệ thống lý luận chỉnh thể ấy. Điều
đó đem lại các giải thích phổ thông dễ hiểu về những hiệu ứng vật lý
lượng tử và cung cấp những câu trả lời hợp lý cho nhiều vấn đề đã không
thể giải quyết được, chẳng hạn như tất cả những vấn đề đối lập nhau, sự
tương tác giữa thân và tâm, cấu trúc nội tại của tâm thức con người,
khởi thủy của cuộc sống, và bản chất sáng tạo của tiến hóa.
Qua
những cuộc thí nghiệm về vật lý lượng tử cho thấy rằng các nguyên tử,
các khối cấu trúc cơ bản được cho là thuộc về vũ trụ, về mặt bản chất,
chúng đều trống rỗng. Do vậy, khoa vật lý lượng tử đã mang lại sự hiểu
biết hoàn toàn mới về những hạt cực vi và chân không. Theo vật lý hạt9
khối lượng không còn được xem như là một thực thể vật chất nữa, mà được
xem như là một dạng năng lượng.
Trong kinh Pháp cú [Dhammapada], nghĩa Niết-bàn được giải thích như sau:
“Có
cái lượng độ10 mà ở đó không có đất, nước, gió, lửa; không có giới hạn
về kích thước của không gian, cũng không có giới hạn của thức, không có
hư không giới, không có tưởng hay phi tưởng, không có cõi này, không có
cõi kia, cũng không có cả mặt trời và mặt trăng.
Ta nói ở đấy, vô
khứ, vô lai, vô trụ, bất sinh, bất diệt; ở đó không có định kiến, không
có nền móng, không có đối tượng của thức. Đúng như thế, ở đây là sự
chấm dứt khổ đau.”
Các nhà Tâm lý học cấu trúc tin vào trực giác
hay là sự thể nghiệm TỰ THÂN hay THÂN CHỨNG11, hay nói một cách chính
xác là sự đốn ngộ [sudden perception of critical relationship-lãnh hội
đột ngột về mối liên hệ cơ bản]. Sự lãnh hội Niết-bàn đôi khi có được
như là sự đốn ngộ [Aham kāromi parikṣāṃ]. Lúc các khả năng lãnh hội được
thăng tiến thì ngay sau đó người ta có thể nắm bắt và hiểu rõ một vài
vấn đề phức tạp nữa.
Kết luận
Nói chung,
khía cạnh quan trọng của Niết-bàn không phải là một điều gì đó xảy ra
từ một chuỗi nguyên nhân, cũng không phải là một điều gì đó hiện hữu như
là kết quả của một hành vi sáng tạo, hay là sự tích hợp các yếu tố nhân
quả; nó không bao giờ được tạo ra; nó vốn đã là, đang là, và sẽ là. Thế
nhưng, do phẩm hạnh suy kém và tâm thức vô minh của con người, do chúng
sinh lỡ bước trầm luân12, nên Niết-bàn vẫn còn bị che đậy bởi vô minh
vọng tưởng.■
Pháp Thường
(dịch và chú thích)
Chú thích:
1.
Duy chỉ Phật Thế Tôn, do chứng đắc phần đối trị, mới diệt trừ sự vô tri
ấy một cách toàn diện khiến nó không còn tái sinh trong tất cả mọi đối
tượng nhận thức. (A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận/ T.Tuệ Sỹ).
2. René
Descarts (1595-1650), được xem như là người khai sáng cho lịch sử Triết
học của Tây phương. Ông là một nhà khoa học, triết gia, nhà toán học,
nhà đạo đức, nhà luận lý. Mặc dù là một người theo đạo công giáo, nhưng
ông vẫn tin là có những chân lý quan trọng mà các tác giả của Thiên chúa
giáo không thể nào nắm bắt được. Những tác giả ấy đã cho rằng, các chân
lý gắn liền với bản chất tối hậu của những sự vật hiện hữu. Ông cho
rằng cái gì ông thấy và phân biệt một cách trong sáng thì cái đó là sự
thật, còn cái gì thuộc về giác quan và tưởng tượng thì theo ông là không
thật. Và, ông tin là có một đấng tác thành ông... Bởi vì, dưới những
giác quan sai lầm ấy là tính trong sáng và phân biệt chính xác. Thế thì,
tâm và vật là hai thực thể biệt lập. Trong tác phẩm Phương pháp luận,
câu nói nổi tiếng của ông: “cogito, ergo sum - Tôi tư duy, tôi hiện hữu”
(xem The histoiry of Western Philosophy / B.t Russell).
3.
Benedictus Spinoza (1632-1677) là một triết gia ôn hòa. Gia đình ông là
một trong những gia đình theo đạo Do Thái đã bỏ trốn Portugal sang Hà
Lan để tránh những cực hình dã man. B.T Russell nhận xét: “Nhà triết học
ấy đã bỏ cả đời để quan sát suy gẫm. Và một thế kỷ sau cái chết của
ông, một con người làm cho sự đồi bại phải run sợ.”
Theo Spinoza,
không có chuyện đa thực thể như Descarts quan niệm, chỉ có một thực thể
vô tận mà thôi. Spinoza đã đánh đồng thực thể này cùng Thượng đế, nhưng
chứng cớ về Thượng đế thì ông không sai lầm. Thượng đế của Spinoza đơn
thuần là Thực thể uyên nguyên hay thực thể căn bản, hoàn toàn không phải
là Thượng đế theo kiểu Do Thái - Cơ Đốc. Hơn thế, Thực thể uyên nguyên
chỉ là tổng thể tối hậu của mọi thứ mà nó đang là. Chính là thực tại, tự
nhiên. Mặc dầu Spinoza được cho là kẻ theo thuyết vô thần, nhưng với
ông thì không. Ngược lại, ông là một người hữu thần, ông tuyên bố:
Thượng đế là tất cả. (The power of ideas / B.N. Moore and K. Bruder).
4. Interconnectedness-tính liên hệ = relationess, chữ thường dùng của TH. Stcherbatsky trong Buddhist Logic.
5.
The degree that one may have might depends upon the collective degree
of the brain wave-system being in-phase with the environment - sở hành
cảnh giới của thức, tức là sự tiếp xúc giữa căn và cảnh phát sinh nhận
thức.
6. Thực tế thì chỉ có một thức mà thôi. Song, Duy Thức thiết
lập Tám thức, trừ Bạch tịnh thức ra [bởi thức này không thuộc về Dị thục
thức, tức là ở bên ngoài cảnh duyên và năng duyên, nó chính là Phật
tánh vậy, nên cho là cấp độ thứ Chín. (Khóa Duy thức học/ T.Tuệ Sỹ).
7.
The conscious mind is depotentiated of energy. depotentiated =
δεσποτετια [Grk] -làm phát khởi đại năng lực, hay thánh trí bằng sự nỗ
lực làm việc. Greek-Engl Lexicon.
8. Gestalt là chữ thuộc về thời kỳ
Trung cổ nước Đức, phái sinh từ động từ gestalten:bố trí, bày biện, sắp
đặt, bố cục. Grk: διαμορφωνω.
9. Vật lý hạt là ngành vật lý chuyên
nghiên cứu về các hạt sơ cấp chứa trong vật chất và bức xạ, cùng với
những tương tác giữa chúng.
10. Chiều kích. Eng: dimention. Pāli: parimāṇa.. H.D: 量度 (Theo English-Pāli dictionary và Pāli Phật giáo từ điển).
11. Aha experience. Skt: Aham + kāromi + parikṣāṃ: Tôi tự tạo / tôi nắm lấy sự chứng nghiệm (Theo Anh-Hán từ hải).
12. Sansarically benighted beings-sansarically là chữ đã đươc Anh hóa, chính là samsara của Phạn ngữ.
Nguồn Tập San Pháp Luân 37