Sống
trong thế giới đầy biến động, có quá nhiều sự cám dỗ và trói buộc, con
người thường hướng tâm đi tìm sự an nhiên tự tại, an lạc hạnh phúc cho
chính mình. Đó là sự thật hiển nhiên xưa nay, mà con người luôn khát
khao chứng đạt. Thế nên, trong Chứng đạo ca, Ngài Huyền Giác (665-713)
đã khuyến cáo con người vượt thoát, bước ra khỏi thế giới hệ lụy của
cuộc đời, an trú trong thế giới “tự do, giải thoát”. Ngay khi mở đầu tác
phẩm của mình, Ngài viết: “Tuyệt học, vô vi, nhàn đạo nhân. Bất trừ
phiền não, bất cầu chân.” (Dứt học, vô vi, ấy là bậc đạo nhân nhàn nhã,
Không trừ phiền não, không cầu chân).
Thiền
học đời Trần không xa lạ gì với quan niệm đó của Huyền Giác. Bởi lẽ, Tổ
Trúc Lâm - Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo phú, hội 5, cũng có câu:
“Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội.”
Bát
thức là tám thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức,
mạt na thức và a lại da thức. Bát phong chỉ cho tám ngọn gió, đó là lợi,
suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Nói chung bát phong chính là tám pháp
của thế gian, biểu đạt cho tám trạng thái tâm lý thường tình của con
người, hay làm dao động, mê hoặc tâm thức con người. Càng đè nén chúng
xuống thì chúng càng tăng trưởng lên gấp bội. Khi tám ngọn gió thổi đến,
nếu ta không đứng vững thì chúng sẽ làm ta chao đảo và thậm chí có thể
cuốn trôi ta theo dòng đời.
Cần
có thái độ sống an nhiên, giải tỏa, buông xả, không nắm giữ bất cứ điều
gì bằng chính cái “thấy biết” sự thật của mình là điều tất yếu. Nghĩa
là trong cuộc sống bình nhật, khi danh lợi (lợi) kéo đến, bạn chớ vội
vàng tham lam và chiếm hữu; Khi bị hao tổn thậm chí bị mất mát (suy) cái
gì, bạn chớ vội tiếc nuối, khổ đau; Khi bị chỉ trích, sỉ nhục (hủy) chớ
có buồn rầu và nóng giận; Khi được tôn vinh (dự), bạn cũng không nên tự
đắc; Khi được ngợi khen, tâng bốc (xưng) không nên vui mừng, thỏa mãn;
Khi bị chê bai, bị vu khống (cơ), bạn không nên sân hận mà thật bình
tĩnh suy xét; Khi gặp chướng duyên nghịch cảnh thân tâm bị bức bách
(khổ) thì bạn hãy kiên định, vượt thoát; Khi gặp thuận duyên thuận lợi,
thân tâm hân hoan (lạc) thì chớ vội kiêu căng, tự mãn.
Tuy
nhiên, thực tế minh chứng, cuộc sống vốn sinh động, có nhiều gam màu
biến đổi, muôn âm thanh hữu tình vang vọng, những đường nét tinh tế đầy
biểu cảm, hương thơm quyến rũ vô cùng tận…, con người vì thế mà khó từ
chối, lắm khi hệ lụy lúc nào chẳng rõ, càng tránh né càng ức chế mạnh mẽ
hay càng khởi ham muốn cùng tột. Trong Phật tâm ca, Tuệ Trung Thượng Sĩ
cũng từng khuyến cáo: “Xả vọng tâm, thủ chân tánh, tợ nhân tầm ảnh nhi
vong kính...”(Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh, giống như người tìm bóng mà bỏ
mất gương...)
Bỏ
vọng cầu chân làm sao được, vì vọng chính từ trong chân hiện ra; Do đó
vọng chính là cái dấu hiệu qua đó, chúng ta tìm ra được, trở về được với
chân tâm. Cũng như hình ảnh bóng trăng dưới nước là phản ánh cái mặt
trăng vốn có thật trên bầu trời. Đó là dấu hiệu duy nhất cho ta biết có
một mặt trăng thật. Nếu không có bóng trăng dưới nước làm sao tìm thấy
được mặt trăng thật?
Đối
với vọng tâm, vọng tưởng cũng vậy, ta càng đè nén chúng xuống, chúng
càng tăng sức mạnh lên gấp bội, đúng như lời Tổ Trúc Lâm đã dạy. Tất cả
vấn đề chỉ là quán thấy, biết vọng tâm là vọng, không thực thì tự nhiên
ta sẽ không còn bị vọng tâm lôi cuốn, chi phối. Con người chúng ta sẽ
dần dần được tự tại, giải thoát, và chân tâm sẽ lộ rõ.
Rõ
ràng, phương pháp “ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội” mà
Tổ Trúc Lâm nêu ra là phương pháp tu tập thân tâm vượt ra ngoài sự đè
nén, thay vào đó là phương pháp giải phóng, giải tỏa các năng lượng ức
chế hay ham muốn bằng cái thấy như thật, bằng sự quán chiếu rõ đối
tượng. Quán chiếu với mục đích để cho tự thân có cái nhìn sâu lắng về
đối tượng, hiểu rõ về sự kiện, về môi trường tác động mà tự nhiên được
được hóa giải, đi đến chỗ khai phóng tự do, an trú vào giải thoát.
Đó
cũng chính là sức mạnh của trí tuệ quán sát, gọi tắt là tuệ quán. Sự
quan sát của trí tuệ phải được chúng ta thực thi hàng ngày, với thái độ
tỉnh giác, với chánh pháp làm ngọn đèn, đối với mọi sự vật, mọi sự việc
tồn tại và diễn ra trong đời sống hàng ngày. Trên nguyên tắc, đó là
phương pháp giải quyết ức chế, giải quyết mọi sự trói buộc một cách tốt
đẹp nhất, trí tuệ nhất mà cũng là triệt để nhất.
Thật
là đơn giản, nhưng khi bạn đi vào quá trình thực nghiệm thì không đơn
giản chút nào. Bởi vì có những dục vọng, những phiền não mang tính chất
xung động bản năng, ngay khi chúng ta sinh ra đã có (Duy Thức gọi là
phiền não câu sanh), chúng luôn hiện hữu trong tâm thức của chúng ta từ
nhiều đời nhiều kiếp.
Tham
lam mọi thứ, sân hận với mọi người, si mê muôn chuyện, đắm say dục lạc
là những biểu hiện của những ức chế khi mình không thỏa mãn một vấn đề
gì đó trong những môi trường hoàn cảnh, đối tượng nhất định. Cho nên,
phương pháp hữu hiệu nhất mà Phật, Tổ dạy vẫn là tuệ quán, là một phương
pháp điển hình cần thực thi mà Phật giáo chú trọng. Nếu chúng ta biết
và khéo léo quan sát thì những bản năng mãnh liệt như bản năng ham muốn
tiền tài, địa vị danh vọng, sắc đẹp, tình ái,…cũng sẽ dần dần (chứ không
phải là một sớm một chiều) được hóa giải.
Khi
nói quan sát bằng trí tuệ là nói đến sự quan sát trên cả ba mặt văn
tuệ, tư tuệ và tu tuệ; tức là trí tuệ có được nhờ nghe học chánh pháp
(văn tuệ), trí tuệ có được nhờ suy tư sâu sắc về những điều mình đã học
được ở chánh pháp cũng như về những điều quan sát được trong cuộc sống
hàng ngày của mình cũng như người khác (tư tuệ). Cuối cùng là tu tuệ, là
trí tuệ có được nhờ tu tập, đặc biệt là do tu tập thiền định, thiền
quán, và một cách thường xuyên hơn, nhờ thực nghiệm trong cuộc sống
những điều học được ở chánh pháp.
Thế
nên, bạn hãy quan sát mọi sự vật và sự việc tồn tại diễn biến xung
quanh mình với cả ba loại trí tuệ đó. Bạn sẽ cảm thấy con người chúng
ta, cả thân tâm chúng ta ngày càng được cân bằng, hài hòa, thanh thản và
an lạc...
Ở
đây, chúng ta cần nhấn mạnh tầm quan trọng của Phật giáo đối với sự tu
tập, đối với sự an lạc và hạnh phúc hằng mong ước của chúng ta. Học Phật
không phải là để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của học hỏi, của kiến thức, mà
kiến thức của Phật tử chính là chỗ nương tựa đáng tin cậy, là ngọn đèn
đáng tin cậy. Tất cả là để có một nhận thức đúng đắn theo chiều sâu đối
với thân tâm chúng ta, cũng như đối với mọi sự vật và sự việc đang tồn
tại hay diễn biến bên ngoài thân tâm của chúng ta. Khi chúng ta quan sát
bằng trí tuệ thân tâm của chúng ta mọi sự vật và sự việc bên ngoài
chúng ta, thì chánh pháp, Phật pháp là ngọn đèn, là nơi nương tựa đảm
bảo nhất.
Tuy
nhiên, như mọi người đều biết rõ, chánh pháp, tức Phật pháp không phải
là giáo điều, “chánh pháp còn bỏ đi huống hồ là phi pháp”. Vì vậy, chúng
ta cần thường xuyên đối chiếu lời dạy của chánh pháp với thực tế đối
với thân tâm của chúng ta, với hoàn cảnh sinh động xung quanh ta. Trong
thực nghiệm hành trì, nếu thấy không phù hợp, tức là rất có thể lời
trong kinh hay luận chỉ có giá trị huyền biến và phương tiện, có giá trị
trong một thời điểm nhất định, một hoàn cảnh nhất định nào đó thôi. Nói
cách khác, cái quyết định vẫn là sự phán xét của bản thân, sức mạnh trí
tuệ của bản thân, cũng tức là sức mạnh của tuệ quán. Sức mạnh đó lớn
lắm, nếu chúng ta biết sử dụng nó, rèn dũa nó thì chân lý sẽ hiển lộ.
Suy cho cùng, tuệ quán là phương pháp tiêu biểu của Phật giáo để giải
tỏa mọi ức chế, những ham muốn sai lầm vốn có của con người trong đời
sống thực tại.
Nhìn
chung, do chúng ta có thói quen không những tư duy hời hợt, thiếu hệ
thống và đào sâu, mà còn có cái nhìn sự vật xung quanh ta cũng hời hợt,
thiếu chính kiến. Cho nên, chúng ta hay bị sự vật hào nhoáng bên ngoài
lừa phỉnh. Trong đời sống kinh tế thị trường, nghệ thuật quảng cáo hiện
đại đạt tới sự hoàn hảo, đánh vào tâm lý “bắt mắt” và ham muốn của con
người. Chẳng hạn, khi quảng quảng cho một sản phẩm tiêu dùng nào đó,
người ta thường mượn hình ảnh cô gái nổi tiếng “tài sắc vẹn toàn” khiến
người ta chú ý nhiều đến cô gái đẹp giới thiệu món hàng hơn là bản thân
món hàng!
Nghĩ
tới cô gái tức là nghĩ tới món hàng. Nghĩ tới món hàng tức là nghĩ tới
cô gái, hay là một lúc nghĩ tới cả hai. Tính khôn khéo của nghệ thuật
quảng cáo hiện đại là tác động thường xuyên hàng ngày đến cảm quan của
người tiêu thụ, với những hình ảnh và màu sắc nổi bật nhất, hấp dẫn
nhất, lôi cuốn người ta đến cửa hàng, không đến không được. Không phải
ngẫu nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu:“Ma đưa lối, quỷ dẫn
đường, Chỉ tìm những chỗ đoạn trường mà đi.”. Thì ngày nay, do tác động
của cơ chế thị trường, lại có câu:“Quảng cáo đưa lối, quảng cáo dẫn
đường, Kéo chúng ta đến, chỗ đắt tiền mà mua!”
Rõ
ràng, sống trong một xã hội kinh tế phát triển, nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa càng cao, sự tỉnh giác càng phải lớn, không nên để cho màu sắc lung
linh huyền ảo làm lu mờ đôi mắt vốn trong sáng cuả mình; âm thanh vi vu
không thể làm cho đôi tai chúng ta câm điếc đôi phần; những hào nhoáng
bề ngoài không thể làm tâm thức chúng ta thêm tán loạn. Thật ra, vấn đề
tác nhân ngoại cảnh bện ngoài làm lung lạc tâm người không phải là cái
gì mới mẻ, nó đã từng được đức Lão Tử thời xa xưa bên Trung Quốc phải
quan tâm lo lắng, chỉ dạy với những câu như sau trong chương 12 cuốn Đạo
đức kinh: “Ngũ sắc linh nhân mục manh, Ngũ âm linh nhân nhĩ lung, Ngũ
vị linh nhân khẩu sáng... Nan đắc chi hóa linh nhân hành phường.” (Năm
màu sắc khiến mắt người mù, Năm âm thanh khiến tai người điếc, Năm mùi
vị khiến lưỡi người bị tê...Hàng quý hiếm khiến người làm bậy).
Vì
vậy, Thiền Phật giáo khuyến cáo mọi người hãy luôn luôn chánh niệm tỉnh
giác, tỉnh thức, như đức Phật dạy trong kinh tạng Pali: “Chánh niệm
tỉnh giác, hộ trì các căn.” Nghĩa là con người cần giữ chánh niệm, tỉnh
giác, bảo vệ các căn; không để cho ngoại cảnh với màu sắc, âm thanh...
xâm nhập vào khiến cho tâm điên đảo, cuồng loạn. Con người Phật tử tu
hành, rèn luyện mình được như vậy thì đã tiến bộ lắm rồi. Các Thiền sư
Việt Nam đắc đạo ngày trước cũng chỉ khuyên người hậu học nên làm được
như vậy thôi. Trong bài Phật Tâm ca nổi tiếng, Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhà
Phật học đời Trần lớn tiếng khuyên: “Tỉnh tỉnh trước! Trước tỉnh tỉnh!”
(Hãy tỉnh táo! Hãy tỉnh táo!). Còn Tổ Trúc lâm, kết thúc bài Cư trần lạc
đạo phú lại khẳng định rằng, nếu con người đối với ngoại cảnh mà giữ
thái độ vô tâm được thì cũng không cần học Thiền mà làm gì. “Đối cảnh vô
tâm mặc vấn thiền” (Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền).
Xem
ra, đó cũng là kết thúc phương thức tu tập “Ngăn bát thức, nén bát
phong, càng đè càng bội” mà Tổ Trúc Lâm chỉ dạy. Mong sao mỗi cá nhân tự
thân hãy thực tập và trải nghiệm hành trì trong thực tại vốn luôn trôi
chảy trong đời sống hiện đại của thời đại hội nhập phát triển toàn
cầu./.