Sự
tạo nghiệp của ý thức phát xuất từ nhiều nguyên nhân, có thể là do sự
phán đoán sai lầm của ý thức trong trường hợp phi lượng (sự nhận xét sai
về đối tượng) mà tạo ra nghiệp. Cũng có thê là do bản ngã chấp trước,
là nguyên nhân dẫn dắt Ý thức đến chỗ sai lầm mà tạo ra nghiệp, cũng có
thể là do những chủng tử bất thiện trong thức thứ tám phát khởi ra hiện
hành mà tạo ra nghiệp v.v...
Trước
khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất
thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy
rõ bản chất của nghiệp là do nơi tâm của mỗi con người tự tạo ra và phải
gánh chịu hậu quả của hành động đã làm, đó là cách suy nghĩ cơ bản về
nghiệp. Để nói rõ điều này, Đức Phật đã dạy:
"Làm ác do nơi ta
Làm cho ta nhơ bẩn do nơi ta
Không làm ác
do nơi ta
Làm cho ta trong sạch cũng do nơi ta
Cả hai, nhơ bẩn
và trong sạch, chỉ tùy thuộc nơi ta,
Không ai có thể làm cho ta
trong sạch”.
(Dhammapada, câu 165)
Theo câu kinh đã dẫn, Đức Phật muốn nhấn mạnh tất cả đều do tâm của
ta tạo ra, hành động thiện hay ác đều do nơi tâm. Tâm trong Duy thức học
còn có tên khác là THỨC THỨ TÁM.
Nương vào Căn bản thức, bảy thức khác phát khởi ra phân biệt và nhận
xét về đối tượng. Cũng từ Căn bản thức tức là thức thứ tám, các thức
khác nương vào đó để tổng hợp về đối tượng và đưa ra suy tính cũng như
hành động. Từ những hành động đó tạo ra nghiệp lành hay nghiệp ác là tùy
vào mỗi trường hợp khác biệt. Như vậy, luận cho cùng thì thức thứ tám
vẫn là chủ nhân ông trong mọi hành động tạo nghiệp và tàng trữ nghiệp
dưới dạng thức chủng tử.
Xin dẫn chứng hai bài tụng trong Duy thức
tam thập tụng của ngài Thế Thân Bồ tát để chứng minh điều đó:
Nguyên văn bằng tiếng Sanskrit, ngài Huyền Trang dịch ra chữ Hán:
Pãncãnãm
mũlavijnãne yathãpratyayam udbhavah
Vijnãnãnãm saha na vã tarangãnãm
yathã jale
Y chỉ căn bản thức
Ngũ thức tùy duyên hiện
Hoặc
câu hoặc bất câu
Như ba đào y thủy
***
Karmano vãsanã grãhadvayavãsanayã saha
Ksine pũrvavipãke
nyadvipãkam janayanti tat
Do chư nghiệp tập khí
Nhị thủ tập khí cu
Tiền
dị thục ký tận
Phục sanh dư dị thục
***
Như Tạng Việt
dịch:
Do nơi thức căn bản (thức thứ tám)
Năm thức tùy duyên
khởi (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân)
Hoặc cùng hoặc không cùng
Như
sóng sanh từ nước.
***
Do hạt giống các nghiệp (nghiệp lành,
nghiệp dữ và nghiệp bất động do tu thiền định mà đạt được).
Và tập khí hai thủ (hai thủ gồm có tướng phần, phần bị phân biệt, và
kiến phần, phần năng phân biệt của thức; sắc - phần thuộc về vật chất,
và danh - thuộc về Tâm; tâm sở và tâm vương.
Nên dị thục trước dứt (thân dị thục tức là báo thân, thân thọ quả báo
của nghiệp).
Lại sinh dị thục sau.
(Trong bài tụng thứ hai này có từ “tập khí” nếu dịch theo nghĩa đen
thông thường thì tập khí là những thói quen lặp đi lặp lại do học tập,
do thói quen mà thành. Nó đã trở thành tiềm năng, thành hạt giống được
huân tập vào thức thứ tám. Ví dụ người nghiện rượu thì tập khí đó là
hay uống rượu. Còn người tập viết chữ thì tay của họ nhờ tập viết lâu
ngày nên có khả năng viết chữ được đo là tập khí viết chữ. Trường hợp
trong bài tụng trên tập khí có nghĩa là chủng tử (hạt giống) đã gieo
trồng hoặc đã tạo ra từ trước).
Trở lại chính văn của bài tụng thứ nhất, ý của ngài Thế Thân, do
nương vào thức Căn bản mà năm thức trước là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức mới có thể có tác dụng phân biệt khi tiếp
xúc với đối tượng của nó. “Tùy duyên hiện” chẳng qua đó là những lúc
thuận tiện, những lúc mà các thức có đủ điều kiện để có thể hoạt động
được.
Ví dụ, mắt muốn thấy được một bình hoa trong phòng tối thì cần phải
có đèn sáng, cần đứng cách bình hoa một quãng thích hợp mới có thể quan
sát kỹ bình hoa ấy... Mặc dù nương vào thức Căn bản nhưng khả năng hoạt
động của năm thức này có tính cách “liễu biệt cảnh”; nghĩa là mỗi thức
hoạt động một cách cá biệt trong phạm vi khả năng của nó, khi tiếp xúc
với đối tượng mà thôi, không có tính cách xen kẽ hay tổng hợp. Ví dụ,
mắt chỉ có khả năng nhìn thấy sự vật trong tầm nhìn của nó, còn tai thì
chỉ nghe những tiếng động trong khoảng độ dài của bước sóng âm thanh,
chứ mắt không thể nghe tiếng, ngược lại tai không thể nhìn thấy cảnh vật
được.
Những sự giải thích trên đều nằm trong nghĩa của hai chữ “tùy duyên”
trong bài tụng.
“Hoặc cùng” nghĩa là năm thức này có những điều kiện cùng hoạt động
được một lúc. Ví dụ, mắt đang xem truyên hình, tai đang nghe nhạc, trong
khi đó mũi đang ngửi mùi đồ ăn để trên bàn, thân đang dùng tay gắp đồ
ăn bỏ vào miệng nhai và lưỡi đang nếm vị của đồ ăn đó... Đó là trường
hợp năm thức cùng hoạt động một lúc.
“Hoặc không cùng” trường hợp một người nằm trên giường trước khi ngủ,
tắt đèn, nhắm mắt nghe một bản nhạc. Trường hợp đó chỉ có tai hoạt động
mà thôi. Do đó trường hợp này là năm thức không cùng hoạt động.
Câu cuối cùng “như sóng sinh từ nước” (xin mở ngoặc thêm rằng có
nhiều bản dịch câu đầu là “Nương vào thức Căn bản”, câu thứ tư dịch là
“như sóng nương vào nước”, năm thức trước có thể khởi lên phân biệt được
là do lệnh từ thức Căn bản hay có thể nói là sự biểu hiện của thức Căn
bản. Do đó, dịch là DO dễ hiểu hơn chữ NƯƠNG. Câu thứ tư nói, như sóng
nương vào nước... Vì sóng với nước không phải hai vật thể khác nhau nên
khi nói nương nhau dễ sinh ra hiểu lầm đó là hai vật thể cá biệt nương
vào nhau, do đó xin tạm dịch là “như sóng sinh từ nước”). Cũng như năm
thức trước không phải là những trạng thái sinh hoạt độc lập riêng khác
với thức Căn bản mà chúng chính là những biểu hiện của thức Căn bản khi
các cơ quan trong thân thể đối diện trước đối tượng của chúng mà khởi
lên phân biệt về những đối tượng đó.
Khi nói đến nghiệp là phải nói đến những hành động có tác ý. Nhưng
bài tụng này không nhắc đến ý thì có liên quan gì đến việc tạo ra nghiệp
mà đưa vào đây?
Trong nguyên văn bài tụng mặc dầu không nói đến ý, nhưng khi tổng hợp
toàn thể ý nghĩa bài tụng khiến ta hiểu rằng, khi một thức như mắt muốn
hoạt động xem hoa chẳng hạn; mệnh lệnh đó phải phát xuất từ thức Căn
bản truyền xuống thức thứ bảy vì đây là anh lính canh giữ cửa, giữ kho
rồi truyền xuống thức thứ sáu hay Ý thức. Vì thức này ví như một vị tư
lệnh hành quân vậy. Do đó, không co một thức nào hoạt động mà không có
sự chỉ đạo của Ý thức.
Một ví dụ dễ hiểu về sự cộng tác có tính cách chỉ đạo của Ý thức là:
Mỗi ngày, tôi đều đi bộ từ nhà ra ga xe lửa nhưng không để ý hai bên
đường có những loai hoa gì, có bao nhiêu nhà mà ở sân trước có trồng hoa
không? Một hôm, có người bạn nhờ tôi tìm chụp hình loại hoa hải đường,
tôi để ý đi bộ chậm rãi để tìm, thì ra ở sân trước của một ngôi nhà
trên đường ra ga có loại hoa hải đường, thế mà bao lâu nay qua qua lại
lại tôi vẫn nhìn vẫn thấy nhưng không để ý nên không xác nhận được là ở
đây có loại hoa này. Đây là hành động có sự cộng tác của Ý thức mà trong
Duy thức học gọi là tác ý. Nghĩa là móng khởi cái ý, có chủ tâm đi tìm
loại hoa này nên khi thấy nó tôi mới nhận ra ngay. Nếu không có chủ ý
đi tìm loại hoa nầy thì dù có qua lại có thấy cũng không nhận biết hay
không để ý tới.
Đó là Ý thức đã hợp tác chỉ đạo cho nhãn thức. Tương tự như vậy, khi
mở truyền hình, nếu không chủ ý tìm nghe bản nhạc My Heart Will Go On
(Love Theme from “Titanic”, Words and Music by James Horner/Will
Jennings) thì có để truyền hình hàng mấy giờ, bản nhạc có được hát đi
hát lại mấy lần cũng không để ý đến là bản nhạc gì. Qua hai ví dụ trên
ta thấy, Ý thức phải cộng tác chỉ đạo cho năm thức trước và tổng hợp các
hành động của các thức đó, thì mới đưa ra các kết quả nhân xét như ý
muốn được.
Còn trong vấn đề tạo nghiệp thì thức thứ sáu này chủ đạo tất cả. Ngài
Huyền Trang nói “Động thân phát ngữ độc vi tối, Dẫn mãn năng chiêu
nghiệp lực khiên” (Thức thứ sáu này có công năng hơn hẳn các thức khác
về việc làm phát sinh hành động của thân thể và ngôn ngữ. Nó tạo ra
dẫn-nghiệp và mãn-nghiệp có công năng đưa đến quả báo đời sau). Như thế
chính thức thứ sáu này, đương nhiên nó là biểu hiện của thức thứ tam, do
nơi thức thứ tám mà khởi ra hiện hành tác dụng chỉ đạo nhưng nó tinh
khôn và hơn hẳn năm thức trước, nó nắm quyền chỉ huy các thức đó hoạt
động để tạo ra nghiệp.
Khi đề cập đến Ý thức, ngài Huyền Trang nói rằng “độc hữu nhứt cá
tối linh ly”, cũng từ thức thứ tám phát khởi ra nhưng so với sáu thức
trước thì thức này tinh khôn lanh lợi đệ nhứt. Do đó trong Duy thức học
gọi là “công vi thủ, tội vi khôi”, khi nói về công thì thức này có công
đầu, nhưng luận về việc tạo ra các điều ác, thức này cũng có tội hơn
hết.
Luận về sự tác dụng phân biệt sự vật của năm thức trước, như trên đã
nói, khi nhãn căn chạm phải đối tượng là sắc trần làm phát sinh ra tác
dụng phân biệt là nhãn thức tác dụng thấy. Trường hợp của Ý thức nương
vào Căn bản thức khởi ra tác dụng phân biệt nên hành tướng của nó rất tế
nhị khác hẳn năm thức trước có căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, và thân
căn. Ta có thể đụng chạm cảm nhận được vì nó hữu hình còn Ý thức nương
vào ý căn (tức là thức thứ bảy), cả hai đều vô hình nên rất khó cho ta
nhận biết nếu không qua một trung gian lý luận.
Sự biểu hiện của Ý
thức chia làm hai loại :
Độc đầu Ý thức
Ngũ câu Ý thức
1- Độc đầu Ý thức:
Ý thức có khả năng hoạt động riêng biệt không cần sự phối hợp của năm
thức trên. Ý thức có thể tổng hợp những việc đã qua, suy nghiệm những
sự kiện trong hiện tại và lập dự án cho tương lai... Khả năng của Độc
đầu Ý thức rất đa dạng, và phạm vi hoạt động của nó rất sâu rộng và phức
tạp nên phải chia làm ba loại:
a) Ý thức trong mộng:
Ý thức hoạt động trong mộng chính là lúc mà năm thức trước hoàn toàn
không hoạt động, không có tác dụng phân biệt. Khi ngủ say thì năm thức
trước không có tác dụng phân biệt, đình chỉ hoàn toàn, do đó ý thức hoạt
động thường xa rời thực tại. Ý thức tự biên hiện ra những cảnh tượng
riêng, tuy cũng có phân biệt suy lý nhưng hầu hết là sai lầm, điên đảo;
tin những việc phi lý khác với thường tình...
Những cảnh mà ta thấy trong mộng thường thường là độc ảnh cảnh, vì đó
là những hình ảnh sự vật hoàn toàn do ý thức chủ quan biến hiện ra mà
thôi.
Đôi khi cũng là những đới chất cảnh vì nhiều lúc do biến động sinh lý
của cơ thể mà sinh ra những hình ảnh đới chất cảnh ấy. Vì dựa vào căn
bản thực tai mà khởi lên những hình ảnh nên được gọi là đới chất cảnh.
b) Ý thức tán vị:
Trong khi tỉnh thức, Ý thức suy nghĩ tính toán việc này việc kia, nhớ
lại quá khứ, tính toán trù liệu mọi việc trong hiện tại, lập kế hoạch
cho tương lai...
Khi Ý thức suy nghĩ tính toán có kế hoạch làm việc thiện thì tức
khắc, có 11 món thiện tâm sở hiện khởi như: Tin, tinh tấn, tự xấu hổ,
thẹn với người, không tham lam, không sân hận, không si mê, nhẹ nhàng
thư thới, không buông lung phóng túng, làm rồi không chấp trước, không
làm tổn hại.
Chính lúc này ta có thể hoạt động giải nghiệp bằng cách tinh tấn tu
tập tiến đến giải thoát hoàn toàn. Thành Phật, thành Bồ tát là lúc
này...
Nếu khi Ý thức suy nghĩ tính toán lập ra kế hoạch làm ác, tức thì có 6
món căn bản phiền não phát khởi đó là: tham lam, nổi nóng, si mê, khinh
mạn, nghi ngờ do dự, ác kiến.
Thấy biết cố chấp thuộc về nhiễm ô tội ác (trong phần này chia làm
năm loại: Chấp ta; chấp một bên ví dụ cho rằng con người chết rồi là hết
(đoạn kiến), hoặc cho rằng con người sau khi chết sẽ có linh hồn bất tử
không thay đổi (chấp thường); mê tín dị đoan tà vạy; khư khư giữ lấy
chỗ hiểu biết của mình, không tiếp thu cái mới đúng hơn, cho ý kiến
người khác đều là sai trái; chấp giữ theo giới cấm không chơn chánh của
ngoại đạo theo những tục lệ trái với luân thường đạo lý).
Đồng thời 20 món tùy phiền não cũng cùng lúc phát khởi đó là: giận,
hờn, che giấu, buồn phiền, tật đố ganh ghét, bỏn sẻn, dối gạt, bợ đỡ
nịnh hót, tổn hại, kiêu căng, tự mình không biết xấu hổ, không biết thẹn
với người, thân tâm chao động, hôn muội mờ tối trầm trọng, không tin,
biếng nhác trễ nãi, buông lung, quên mất chánh niệm, rối loạn, hiểu biết
không chơn chánh.
Ý thức bị vây quanh bởi 6 món căn bản phiền não và 20 món tùy phiền
não này nên nó tạo ra vô số nghiệp ác cũng trong lúc “ý thức tán vị” này
hoạt động. Đây là những “chập tư tưởng” vô cùng ác hại, nếu ta không
biết dùng chánh niệm để tiêu diệt chúng.
Ý thức tán vị hầu như chiếm trên 90 phần trăm tông số các hoạt động
của Độc đầu Ý thức. Nó hoạt động trong trường hợp một người ngồi trong
phòng thật yên tĩnh không có những âm thanh hay ánh sáng khuấy động,
nhắm mắt suy tưởng những gì mà mình muốn, cố gắng không cho cac giác
quan hoạt động, chỉ để cho ý thức hoạt động một mình. Ví dụ, suy nghĩ
lại những việc làm đã qua, đúc kết kinh nghiệm để thiết lập một kế hoạch
cho một công trình tương lai chẳng hạn. Trường hợp này có thể là một kê
hoạch thiện cứu người, giúp đời; ngược lại như trên đã đề cập, lắm lúc
lại là những kế hoạch độc ác hại người để đạt được những mục tiêu cá
nhân; hoặc những kế hoạch không thiện không ác...
Do khả năng hạn chế của mỗi người nên việc tổng kết những kinh nghiệm
quá khứ, đưa ra nhận xét và lập ra kế hoạch tương lai cũng do đó mà bị
hạn chế. Hơn nữa, trường hợp Ý thức tán vị này hoạt động có tính cách
suy lý hạn hẹp vì thiếu sự hợp tác của năm thức trước, nên không chính
xác vì thiếu dữ kiện thực tế để so sánh kiểm nghiệm... Ví dụ, nhận xét
về một căn nhà chẳng hạn, những sự đúc kết do suy nghĩ nhớ lại sẽ thiếu
nhiều chi tiết về căn nhà so với việc quan sát thực tại hiện trường, vì
lúc ấy có năm giác quan đưa đầy đủ dữ kiện vào để suy xét thì mới chính
xác hơn.
Cảnh của ý thức tán vị thường là độc ảnh cảnh. Những ảnh tượng hiện
ra do suy nghiệm về một vật thể có thực, đó là hữu chất độc ảnh (ví dụ
hình ảnh của một ngôi nhà mà ta đã từng thấy rồi).
Còn hình ảnh của một con quỷ đầu bị lửa đốt cháy đỏ mà ta chưa hề
thấy lại hiện ra, đó là vô chất độc ảnh.
c) Ý thức trong định:
Khi những bậc tu thiền định đã đạt đến độ nhất tâm bất loạn, thì ý
thức không tiếp nhận các nhận thức do năm giác quan đưa vào. Lúc ấy ý
thức trong định phát sinh độc lập với năm thức trước.
Cảnh của ý thức trong định thường là tánh cảnh. Chỉ có những bậc tu
thiền định đạt đạo mới thể nghiệm được những hình ảnh tánh cảnh này. Còn
những người tu thiền mà tâm chưa an định, chưa đạt đến nhất tâm bất
loạn thì lắm lúc vẫn có những độc ảnh cảnh và đới chất cảnh hiện ra như
thường.
Các nhà duy tâm luận chủ quan cũng thường hay nói về Ý thức, nhưng họ
chỉ bàn về Ý thức tán vị và Ý thức trong mộng là chấm dứt. Họ không
biết đến Ý thức trong định như trong môn Duy thức học của Phật giáo đề
cập.
2- Ngũ câu Ý thức:
Khi Ý thức chỉ chung khởi với một thức trước thì năng lực nhận xét
của nó có chiều sâu hơn, tinh tế và nhiều năng lực hơn. Ví dụ khi xem
một loài hoa lạ mà ta chăm chú thì sự xem xét đó có chiều sâu hơn, tinh
tế hơn so với lúc vừa xem hoa vừa nghe nhạc v.v... Điều này cũng dễ
hiểu, vì năng lực bị phân tán thì mũi tấn công sẽ không được mạnh.
Henri Louis Bergson cũng có phân tích về “trực giác”, điều này có thể
nói nó tương tự như “cảm giác” của ngũ câu ý thức này. Thế nhưng, đi
sâu hơn nữa đến vai trò tạo nghiệp của ngũ câu Ý thức và vai trò tàng
trữ nghiệp và phát khởi hiện hành trong hiện tại cũng như động lực dẫn
nghiệp đầu thai qua kiếp sau, thì ông hầu như không lý giải được những
vận động, biểu hiện của thức thứ bảy và thức thứ tám như trong Duy thức
học. Các triết gia Tây phương hầu như rất thích thú phân tích về những
chức năng của Ý thức nhưng không vươn tới được thức thứ bảy và thức thứ
tám. Tôi nghĩ rằng, đừng cho họ không nghiên cứu về Phật giáo nhưng vì
họ bị gò bó bởi những kiến thức khoa học thực nghiệm của xã hội Tây
phương đó thôi! Nhiều người cũng có nói đến tiềm năng, nói đến cái
“IT”, đó chẳng qua trong Duy thức học xem như là “tập khí” hay tiềm
năng hay chủng tử cũng vậy.
Xin trích dẫn một đoạn trong sách "Duy thức học thông luận” của Thạc
Đức có liên quan đến trường hợp Ngũ câu Ý thức này:
“Do cảnh vật thực tại chạm vào giác quan, Ý thức và năm thức trước
đồng thời (Ngũ câu Ý thức) phát sinh, công nhận có cảnh vật thực tại
nghĩa là công nhận có thế giới khách quan, giống với chủ trương của thực
tại luận. Nhưng chỉ trong trường hợp cảm giác, Ngũ câu Ý thức mới có
được sự trực nhận tánh cảnh, chứ đi sâu vào tri giác, thì cảnh đó lại
trở thành đới chất cảnh rồi. Ma đã là đới chất cảnh thì không phải là
tánh cảnh nữa”.
Thế giới đới chất cảnh khác với thế giới tánh cảnh, vì đó là những
biến hiện của thế giới tánh cảnh. Điểm này giống với chủ quan duy tâm
luận. Tuy thế, Duy thức học không phải chủ quan duy tâm luận vì lẽ Duy
thức học có công nhận thế giới khách quan; lại không giống thực tại luận
vì cho rằng thế giới do Ý thức nhận biết chưa phải là thế giới tánh
cảnh chân thực và tánh cảnh chỉ là sở duyên duyên cho sự phát sinh đới
chất cảnh. Ngũ câu Ý thức rất gần với kinh nghiệm của thực nghiệm chủ
nghĩa. Phần căn bản của kinh nghiệm là cảm giác, mà của Ngũ câu Ý thức
cũng là cảm giác vậy.
Nhưng cảm giác là gì?
(1)- Phần nhận thức (chủ thể)
(2)- Phần
bị nhận thức (đối tượng)
Cả hai phần hợp lại gọi là cảm giác, hai phần là một. Ta đừng nên lầm
hai phần ấy với giác quan (chủ thể) và ngũ trần (đối tượng) là những
điều kiện làm phát sinh cảm giác.
Có người sẽ bảo rằng tánh-cảnh giống hệt như “vật tự thân” của Kant,
vì lẽ thế giới của đới chất cảnh không phải là thế giới tánh cảnh cũng
như hiện tượng của sự vật không phải là “vật tự thân”. Duy thức học vẫn
công nhận cái bản chất ấy của sự vật, nhưng có khác với Kant là ở chỗ
Ngũ câu Ý thức có thể, trong trường-hợp cảm-giác, nhận thức đến được
tánh-cảnh, mà Kant thì nhất định quả quyết Ý thức không thể hiểu đến
được “vật tự thân”.
Nếu có “bản chất”, thì đó là gì? Bản chất ấy cố nhiên không phải do Ý
thức chủ quan biến hiện được, chỉ có Ngũ câu Ý thức có thể cảm giác đến
được mà thôi. Nhưng nếu bản chất ấy là Thần, ý tưởng của Thượng đế, thì
bản chất ấy lại giống với nguyên tắc tạo hóa của Berkeley. Và nếu đứng
về thực tại luận, cho đó là vật có thực chất, thì lại giống “thế giới
khách quan” của duy vật luận. Nếu bảo đó là “lý”, thì lại giống với ý
chí của Schopenhauer mất.
Vậy thì tánh cảnh ấy là gì? Sao lại tồn tại ngoài ý thức chủ quan?
Muốn tìm biết, ta phải bước thêm một bước nữa để tìm hiểu thức thứ tám
(thức Alaya). Đến đây ta chỉ mới biết rằng Duy thức học chủ trương thế
giới tánh cảnh là thế giới thực tại và thế giới đới chất cảnh là thế
giới hình bóng, một bên thực, một bên hư thôi”.
Khi nói đến thế giới tánh cảnh tức là nói đến bản chất sinh khởi ra
thế giới đới chất cảnh, đồng thời cũng đề cập đến đối tượng của thức thứ
tám.
Thế giới tánh cảnh là hiện tướng của thức thứ tám, đều do thức này
biến khởi, trong là căn thân, ngoài là thế giới. Căn tức là các giác
quan là căn cứ phát sinh ra thức. Thế giới do ý thức nhận biết được là
thế giới đới chất cảnh. Rất hiếm khi nhưng Ngũ câu Ý thức trong trường
hợp cảm giác cũng có thể cảm nhận được đến thế giới tánh cảnh.
Ngoài thế giới chủ quan do Ý thức nhận biết còn có thế giới khách
quan. Thế nhưng cả thế giới chủ quan và thế giới khách quan đều là biến
tướng của thức thứ tám. Do đó có thể nói rằng thế giới tánh cảnh làm bản
chất cho thế giới đới chất cảnh vẫn nằm trong thức thứ tám. Thế giới
tánh cảnh là một bộ phận của thức thứ tám.
Sự tạo nghiệp của ý thức phát xuất từ nhiều nguyên nhân, có thể là do
sự phán đoán sai lầm của ý thưc trong trường hợp phi lượng (sự nhận xét
sai về đối tượng) mà tạo ra nghiệp. Cũng có thể là do bản ngã chấp
trước, là nguyên nhân dẫn dắt Ý thức đến chỗ sai lầm mà tạo ra nghiệp,
cũng có thể là do những chủng tử bất thiện trong thức thứ tám phát khởi
ra hiện hành mà tạo ra nghiệp v.v...
Trong bài tụng thứ hai, ngài Thế Thân đề cập thẳng đến Nghiệp. Vì do
nghiệp của những tập khí đó là những hạt giống của các nghiệp, gồm có
nghiệp lành, nghiệp dữ, và nghiệp bất động do tu thiền định đạt được làm
sơ duyên.
Thứ đến là hạt giống của hai thủ. Hai thủ gồm có tướng phần (sở phân
biệt) và kiến phần (năng phân biệt) của Thức; Danh (tức là Tâm) và Sắc
(tưc là phần thuộc về vật chất, thuộc về thân); Tâm và Tâm sở. Phần sau
này tức là hạt giống của hai thủ làm thân duyên.
Tóm lại, do tập khí cũng gọi là chủng tử hay hạt giống của các nghiệp
và của hai thủ kể trên làm sơ duyên và thân duyên, nên thân dị thục đời
này vừa chết đi, liền sau đó chủng tử các nghiệp và chủng tử hai thủ
trở thành động lực chính yếu, lôi kéo thức thứ tám đi đầu thai để thọ
quả báo ở đời sau và đời sau nữa. Nếu không quyết chí chuyên tu để tiêu
diệt các nghiệp thì khó thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Lâm Như Tạng (Trích Lâm Như Tạng,
Thức thứ tám)