I.
Các học phái đồng thời với Phật và vấn đề Tâm thể
Chúng ta có thể phân chia các học phái Ấn Độ đồng thời với Đức Phật đối
với vấn đề Tâm thể ra làm hai đường hướng chính yếu:
-
Chủ trương về linh hồn thường trụ bất biến, tất là chủ trương hữu ngã,
hay nói cách khác đó là khuynh hướng Tâm lý học về Duy tâm luận.
-
Chủ trương tác dụng của tâm lý chỉ những biểu thị của vật chất, tức là
khuynh hướng Duy vật luận, Chủ trương này, thời bấy giờ, được Phật giáo
mệnh danh là Thuận thế ngoại đạo.
Về phía Phật giáo, trên đại thể
mà nói, chủ trương của Đức Phật được mệnh danh là thuyết “Trung đạo”.
Thái độ của Đức Phật là vừa không chấp nhận thuyết linh hồn thường trụ
của khuynh hướng Duy tâm luận, vừa bác bỏ chủ trương Duy vật luận, đưa
đến chủ trương điều hòa cả hai. Coi chủ thể sinh hoạt của con người như
một linh hồn cố định bất biến chỉ là một thứ mê tín, vì sinh hoạt tâm
linh con người luôn biến đổi trong từng sát na. Đó là đặc chất Vô ngã
luận của Phật giáo. Nó phản đối chủ trương của triết học Upanishad và
những học phái có cùng chủ trương tương tự. Về phía Duy vật luận nếu coi
vật chất như là một thứ phi tinh thần nhưng từ đó mà sản xuất tinh thần
lại là điều phi lý, bác bỏ cả hai chủ trương, coi như là hai thái cực
ấy, Đức Phật đã nêu lên “con đường giữa”.
Đối với con đường
thuyết giáo của Đức Phật, theo đó các sinh hoạt tâm lý là do những mối
quan hệ giữa các yếu tố, không phải chỉ là đặt trên nền tảng duy nhất
của tâm hay vật. Đứng trên lập trường sinh hoạt hiện thực, người ta có
thể phân biệt những yếu tố riêng biệt tâm và vật, nhưng phân biệt ấy
phải được nhìn theo tính cách quan hệ lẫn nhau. Đức Phật không chú trọng
đến vấn đề giải thích tâm và vật là hai hay là một. Nhưng nếu chúng ta
muốn biết sự quan hệ giữa yếu tố tâm lý và yếu tố vật chất, thì chúng ta
cứ tạm gọi là chúng không phải một mà cũng không phải là hai, hay nói
cách khác, không đồng nhất cũng không dị biệt. Bởi vì, cứ theo những lời
thuyết giáo của Phật, các yếu tố ấy, không một yếu tố nào cố định. Như
vậy nói tâm hay nói vật chỉ là nói theo ước lệ, nói theo một giai đoạn
sinh hoạt nào đó của tâm lý.
II. Vấn đề Tâm thể trong Phật
giáo Nguyên thủy
Ở những điều vừa nói trên, chúng ta
có thể nêu ra ở đây mấy điểm nhận định:
1. Đức Phật bác bỏ những
quan niệm cho rằng “Linh hồn là cố định” của các dòng tư tưởng về trước.
2.
Sinh hoạt của tâm lý là một trạng thái phức hợp.
3. Tác dụng của
sinh lý và tâm lý không phải đồng nhất cũng không phải là dị biệt.
4.
Tâm lý luôn luôn lưu động trong sát na sinh diệt và biến đổi.
Tâm lý học Phật giáo cũng không phải chỉ dừng lại ở đó. Sự tiến bộ của
nó dần dần dẫn đến những vấn đề tâm sở. Điều nên để ý ở đây Tâm lý học
Phật giáo không chỉ hạn cuộc vào những sinh hoạt tâm lý hiện tại mà còn
đề cập đến những quan hệ giữa các tình trạng tâm lý hiện tại đối với
những sinh hoạt tâm lý trong quá khứ và cả đến vị lai nữa. Chuỗi thời
gian này sẽ kéo dài bất tận trong quan điểm về luân hồi lưu chuyển. Đằng
khác, lại còn có sự quan hệ giữa những sinh hoạt đó đối với thế giới
của những sinh hoạt đó, và thế giới cũng không chỉ giới hạn vào thế giới
khả giác hiện tại của nhân gian mà còn là những thế giới bên trên sinh
hoạt tầm thường của thế gian, nghĩa là cả: Dục giới (Kamavacana), Sắc
giới (Rùpavacana) và Vô sắc giới (Arùpavacana).
Phật giáo chủ
trương Vô ngã (Anatta), không có một thực thể linh hồn thực tại bất
biến, nhưng lại chủ trương luân hồi, vậy cái gì luân hồi? Đó là vấn đề
cần phải giải quyết. Ở đây, chúng ta có thể trích dẫn một đoạn văn trong
kinh A Hàm (Agama), coi như là giải thích vấn đề đó: “Có nghiệp báo,
không có tác giả; khi ngũ ấm (skandha) này đã diệt, ngũ ấm khác tương
tục sinh khởi”. Điều này đòi hỏi một trình độ kinh nghiệm tập Thiền khá
cao, mới có thể nhìn thấy được những tương tục tiếp nối của những tổ hợp
tâm lý, tức ngũ uẩn hay ngũ ấm, và ngay cả những người theo Phật giáo
thời bấy giờ vẫn có ý đồ coi Thức (Citta) như một thực thể tương tục sau
khi chết nhưng bất biến. Do đó, Đức Phật mới thuyết giáo về đạo lý
Duyên khởi (Pratityasamutpàda), theo đó, thức cũng chỉ là một thứ do
duyên sinh: có cái này là vì có cái kia, không có một thực thể độc lập.
Thêm nữa, theo một ý nghĩa khác, Phật như đã thừa nhận Tâm là một yếu tố
chính yếu, gọi là “Vô ý thức”, được coi như quan niệm về vô minh
(avidya) và nghiệp (karma). Nghiệp, có thể nói đó là tính cách “vô ý
thức”. Vô minh, gần giống như kiểu ý chí sinh tồn của Schopenhauer.
III. Từ Vô ngã đến Hữu ngã
Đặt cơ sở trên bối cảnh tâm lý học như vậy, đối với sự phát triển và tổ
chức của nó ở thời Phật giáo Nguyên thủy, người ta phải cần đến một
giải thích xác định nào? Đó là đề mục về Tâm lý học của thời đại bộ phái
Phật giáo. Về bộ phái mà có thể biểu trưng cho tinh thần chính thống
Phật giáo, ta có thể nói đến Thượng tọa bộ ở Tích Lan (Theravàda), hoặc
là Thuyết Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstvàda) ở vùng Kasmir.
Những bộ
phái này thủy chung chủ trương Vô ngã. Tuy vậy, trong những chi phái của
các bộ phái lớn này cũng có nảy sinh chủ trương Hữu ngã.
Về phía Đại
chúng bộ, có thái độ Quan niệm luận, vì là đề cao tư tưởng Không, cho
nên hẳn là phản đối chủ trương hữu ngã, nhưng trong sự phát triển lại
cũng phát sinh một vài ý hướng như muốn tiến gần đến Hữu ngã luận.
Như
vậy, bản chất tâm lý, tức là vấn đề sinh mạng, tư tưởng của Tiểu thừa
Phật giáo đã không ngừng phát triển, và đã trở thành vấn đề sôi nổi. Đối
với lịch sử Phật giáo, nó là vấn đề quan trọng nhất.
Theo một bộ
luận Hán dịch, mang tên là Tam di để bộ luận (Samityasastra), tương
truyền là thuộc Chánh lượng bộ (Samitya), có ghi những ý kiến bất đồng
giữa các bộ phái như sau:
1. Chủ trương vô ngã
2. Chủ trương bất
khả thuyết hữu ngã, vô ngã
3. Chủ trương hữu ngã
4. Ngũ uẩn luận
5.
Con người (Pudgala) và ngũ uẩn khác nhau
6. Con người là vô thường
7.
Con người là hữu thường.
Chủ trương thứ ba là lập luận ngã vừa có
vừa không. Thứ tư và thứ năm là lập luận về tâm thể và ngũ uẩn đồng nhất
hay dị biệt. Thứ sáu là lập luận về tâm thường và vô thường. Như vậy,
trong bảy điểm trên, không hẳn là những điểm chống đối nhau. Tóm lại
liên quan đến vấn đề chủ thể của tâm lý, đã có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Nhưng, lập trường chính yếu của Phật giáo là Vô ngã luận, mà nội
dung của nó, như chúng ta đã thấy trên, có thể là đứng về phía vô ngã
hoặc về phía hữu ngã khác nhau; tất có lẽ đã không có ai sai lầm đối với
lập trường vô ngã chính yếu của Phật giáo.
IV. Cơ giới Vô ngã luận
Chủ trương của các luận sư A tì đàm (Abhidharma) là mọi sinh hoạt tâm
lý đều đặt trên quan hệ của hiện tượng tâm lý, gọi là chủ trương cơ giới
vô ngã.
Về phương diện giáo chứng, nghĩa là dẫn dụng những lời
thuyết giáo của Phật để chứng minh cho lập luận và chủ trương của mình,
các luận sư A tì đàm đã hay nhấn mạnh đến chủ trương vô ngã của Phật.
Đức Phật căn cứ vào tâm lý mà giảng thuyết vô ngã, có khi giải phẫu các
hiện tượng tâm lý, có khi giảng thuyết những trạng thái sinh hoạt của
tâm lý. Những yếu tố cấu thành là sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn),
và những sinh hoạt tâm lý của chúng ta không ngoài năm yếu tố ấy. Như
vậy, tuy nói tâm hay nói ngã, cũng như nhiều chi tiết, bộ phận cấu thành
một chiếc xe, nhưng ngoài những yếu tố ấy ra, không còn cái xe nào
khác.
Thêm nữa, tình trạng sinh hoạt mà tâm lý trải qua, là đi
từ cảm giác đến hiện tượng phức tạp của tâm lý. Đoạn văn được trích dẫn
dưới đây là một chứng minh cho điều đó:
“Nhãn, sắc duyên nhãn thức,
cả ba hòa hợp phát sinh xúc, xúc càng phát sinh với thọ, tưởng, tư, bốn
vô sắc ấm...” (Luận Câu xá – Abhidharmakosasàstra, quyển 13).
Như vậy
gọi là phương diện vô ngã, thủy chung coi tâm lý như là hiện tượng. Để
nhận ra chân tướng của tâm, đặc biệt thuyết minh những hiện tượng cấu
thành tâm lý và thuyết minh sự quan hệ của các hiện tượng ấy. Thí dụ:
phân tích tâm lý thành những hiện tượng phức tạp là tâm vương và tâm sở,
rồi quy định các luật tắc nhân duyên sinh khởi của chúng, cho đến
thuyết minh các thứ tác dụng của tâm lý cùng tương ưng đồng thời sinh
khởi như thế nào, và thực tại là kết quả phát sinh từ đó. Các luận sư
Abhidharma, đối với nhiệm vụ của tâm lý học, phân tích rất tỉ mỉ những
tác dụng của tâm lý và đem sự liên lạc quan hệ của chúng để thuyết minh
tính cơ giới của chúng. Tính cách phức tạp của tâm lý học ở các nhà Nhất
thiết hữu bộ (Sarvàstivàda) và phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan
(Theravàda) phát sinh từ đó.
Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô
ngã luận, trong nhiều kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm
cũng dựa vào đó làm căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu
cực, họ cực lực phá xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa
bộ ở Tích Lan, tuy bài xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng
bộ, nhưng về phương diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm.
Tóm lại, Vô ngã luận là căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào
chỗ phá xích chủ trương hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu
thừa đã có tương hợp với những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng
thời, những người chủ trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho
các nhà chủ trương Vô ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do
đó, nhiệm vụ của các luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó.
Tài
liệu phá xích chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và
tiện lợi cho hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều
người cho rằng phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau
Thế Thân (Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm
phá ngã này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo,
thì phẩm này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ
trương của những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt
ra.
Những nạn vấn chủ yếu:
Nếu đúng là vô ngã, thì:
1. Lưu
chuyển trong vòng sinh tử là ai?
2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi?
3.
Chủ thể của nhận thức là thế nào?
4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã
như thế nào?
5. Con người tác nghiệp như thế nào?
6. Ai là kẻ lãnh
thọ quả báo của các nghiệp ấy?
Luận chủ, tuy phân chia thành ba
phương diện để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị ,
nếu nắm được cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải
quyết.
Ngoài ra, chứng minh cho chủ trương Vô ngã luận, trong nhiều
kinh điển cũng đã nói đến, và các luận sư A tì đàm cũng dựa vào đó làm
căn cứ cho chủ trương của mình. Về phương diện tiêu cực, họ cực lực phá
xích chủ trương Hữu ngã luận. Như phái Thượng tọa bộ ở Tích Lan, tuy bài
xích các chủ trương của Độc tử bộ và Kinh lượng bộ, nhưng về phương
diện tích cực, cũng chưa được tỏ rõ cho lắm.
Tóm lại, Vô ngã luận là
căn bản của triết học Phật giáo, chỉ nhắm vào chỗ phá xích chủ trương
hữu ngã. Cố nhiên, sự phá xích của các nhà Tiểu thừa đã có tương hợp với
những lời thuyết giáo của Đức Phật. Nhưng đồng thời, những người chủ
trương Hữu ngã luận cũng đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà chủ trương Vô
ngã luận, và tài liệu ấy cũng không phải là ít. Do đó, nhiệm vụ của các
luận sư A tì đàm là trả lời cho những nạn vấn đó.
Tài liệu phá xích
chủ trương hữu ngã của những nhà Vô ngã luận phong phú và tiện lợi cho
hiểu biết nhất, có lẽ là “Phá ngã phẩm” của Câu Xá (nhiều người cho rằng
phẩm này chỉ là một sự thêm thắt của những người đi sau Thế Thân
(Vasubhandu) điều này có lẽ đúng). Đối tượng chủ yếu của phẩm phá ngã
này là Độc tử bộ. Về phía những người không phải là Phật giáo, thì phẩm
này nhằm vào Vedanta và Vaisesika. Đồng thời, về phía chủ trương của
những nhà Vô ngã luận Phật giáo, nhiều nạn vấn cũng được đặt ra.
Những
nạn vấn chủ yếu:
Nếu đúng là vô ngã, thì:
1. Lưu chuyển trong
vòng sinh tử là ai?
2. Ký ức làm thế nào mà sinh khởi?
3. Chủ thể
của nhận thức là thế nào?
4. Sự liên tục tồn tại của tự ngã như thế
nào?
5. Con người tác nghiệp như thế nào?
6. Ai là kẻ lãnh thọ quả
báo của các nghiệp ấy?
Luận chủ, tuy phân chia thành ba phương diện
để giải thích, nhưng những nghi vấn ấy đại đồng tiểu dị, nếu nắm được
cái nhất quán của vấn đề, thì những vấn đề ấy sẽ được giải quyết.
Trước
hết, đi từ phương diện thấp mà nói, nhận thức của chúng ta không ra
ngoài sự giả định có một tự ngã để nhận thức nhưng cũng có thể thành lập
lý do vô ngã. Bởi vì nhận thức chỉ là tác dụng của nguyên lý nhân
duyên, do sự phối hợp giữa căn và cảnh. Nhận thức như vậy, không cần
thiết phải thiết lập một tự ngã cố định nào đó, bởi lẽ, nhận thức chỉ là
tác dụng của những diễn tiến tâm lý. Và bởi vì nhận thức là sinh diệt
trong từng giây phút, khỏi phải nói, hẳn nhiên đó là tính cách “tương
tợ” và “tương tục” trôi chảy trong từng sát na, gọi nó là tâm mà cũng
gọi nó là thức. Sự tồn tại liên tục của một tự thể, giả định người ta có
thể cảm thấy, cũng không ngoài sự tương tục ấy mà thôi. Ở trong dòng
tương tục đó, niệm trước vừa chìm xuống, niệm sau tiếp tục sinh khởi, vị
tất đã là đồng nhất với nhau.
Nếu đứng về phương diện ký ức mà
thuyết minh, người ta có thể cả quyết phải có một tự ngã hay không?
Những nhà Hữu ngã luận nói: “Nếu như không có tự ngã làm chủ thể cho ký
ức, khi mà ý thức niệm niệm sinh diệt thì làm thế nào ký ức có thể nhớ
lại những gì đã xảy ra?”. Ký ức của chúng ta là tác dụng hồi tưởng, nó
nhớ lại những gì đã xảy ra, và những gì đã xảy ra đó được xuất hiện lại
với ký ức, ảnh tượng của nó như là tương đồng với thực tại quá khứ. Mặc
dù tâm thể luôn luôn sinh diệt biến chuyển, nhưng niệm trước diệt niệm
sau sinh không phải không có một mối liên lạc nào cả. Và vấn đề luân hồi
lưu chuyển ở phương diện thứ ba được đặt ra: sự quan hệ giữa tác
nghiệp, chủ thể tác nghiệp và chủ thể thụ báo như thế nào, tự khắc được
giải quyết. Như luận chủ nói, luân hồi không có tự ngã, nghĩa là không
cần phải có một tự ngã bất biến mới luân hồi; đó chẳng qua chỉ là sự
biến thiên bất tuyệt, trôi chảy không ngừng của dòng sinh mạng mà thôi.
Thí dụ, như quay vòng đốm lửa, do sự tương tục mà người ta thấy có một
vòng lửa. Nhưng vòng lửa ấy nhất định không có một tự ngã nào cả. Như
vậy, do tu tập các uẩn (skandha) mà giả thuyết có hữu tình, rồi do sự ái
thủ đó mà lưu chuyển sinh tử.
V. Sinh cơ Hữu ngã luận
Trong các học phái thuộc Phật giáo Nguyên thủy, phần lớn cố nhiên là
chủ trương vô ngã, nhưng một phần khác đi gần đến kết luận hữu ngã không
phải là ít. Những luận sư Hữu bộ có tranh cãi với những nhà mệnh danh
là “Bổ đặc già la luận sư” (Pudgala: nhân thể). Pudgala, không rõ chỉ
vào những bộ phái nào, nhưng chắc chắn là những người theo Phật giáo. Và
Nam phương Thượng tọa bộ (Theravàda), tác phẩm "Luận sự” của họ, ở
chương thứ nhất, đã nhằm vào chủ trương của những “Bổ đặc già la luận
sư” để đả kích, và những “Bổ đặc già la luận sư” này được chú là Độc tử
bộ (Vajjiputtaka Vatsìputriya) và Chính lượng bộ (Samatya). Và căn cứ
theo Dị bộ tông tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra) thì Đại chúng bộ
(Mahàsanghika) tuy mang khuynh hướng Không luận, nhưng một phần nhỏ hình
như đi đến chủ trương hữu ngã theo kiểu Kỳ Na giáo. Bộ phái này chủ
trương: Tâm bao khắp châu thân, tâm tùy theo cảnh mà có thể co giản. Về
những nhà Độc tử bộ (Vatsiputriya), họ chủ trương có một thứ ngã “Phi
tức uẩn phi ly uẩn”. Kinh lượng bộ (Sautrantika) chia làm hai thứ uẩn:
ngũ uẩn thông thường thì gọi là “Căn biên uẩn” và thêm một thứ uẩn mệnh
danh là “Nhất vị uẩn”, ngầm chứa đựng có một chủ thể của tâm lý là Nhất
vị uẩn.
Ngoài ra, như Xích đồng bộ (hay Đồng diệp bộ) chủ trương “Hữu
phần thức”, Đại chúng bộ nói đến “Căn bản thức”; Hóa địa bộ nói đến
“Cùng sinh tử uẩn”. Như vậy, ở những bộ phái Tiểu thừa này cũng đã chứa
đựng mầm mống của thuyết A lại da thức.
Chúng ta làm một bảng liệt kê
những phái chủ trương Hữu ngã luận, gồm:
1. Độc tử bộ (Vatsiputriya)
2.
Đại chúng bộ (Mahasanghika)
3. Chính lượng bộ (Sammatiya)
4. Hóa
địa bộ (Mahisasiha)
5. Kinh lượng bộ (Sautrantika)
6. Đồng diệp bộ
(một chi phái nhỏ ở Tích Lan)
7. Pháp thượng bộ
8. Hiền trụ bộ
9.
Mật lâm sơn bộ.
Người ta cũng có thể thêm vào chủ trương của Đại
thừa là Du già phái (Yogacara) tức là Duy thức học.
Về khởi điểm
khuynh hướng hữu ngã này, người ta không biết rõ. Cứ như truyền thuyết,
Đề Bà Thiết Ma là nhân vật sinh vào khoảng sau Phật Niết bàn 100 năm, mà
đã có nói đến Bổ đặc già la luận sư. Tuy nhiên, niên đại của Đề Bà
Thiết Ma không chắc chắn. Vậy, trên đại thể, sau khi Phật Niết bàn
khoảng 200 năm, các trào lưu theo chủ trương hữu ngã đã xuất hiện khá
nhiều.
VI. Độc tử bộ và Hữu ngã luận
Độc tử bộ là một chi phái phát xuất từ hệ phái Thượng tọa bộ
(Sthavira), tất nhiên là những giải thích về lập trường vô ngã của hệ
phái này đã gặp nhiều khó khăn, và những người muốn đi tìm lối giải
thích khác đã phát xuất Độc tử bộ. Những vấn đề khó khăn, như đã nói:
Chủ thể luân hồi như thế nào? Chủ thể của ký ức như thế nào? Trung tâm
của nhận thức là gì?
Chúng ta có thể khái lược về căn cứ của chủ
trương Hữu ngã luận những “Bổ đặc già la luận sư” như sau, theo Thức
thân tức luận của Đề Bà Thiết Ma.
1. Căn cứ vào chủ thể của tác
nghiệp và cảm thọ của nó, và
2. Căn cứ vào chủ thể của tri giác,
phán đoán.
Từ những căn cứ đó, hình thành lập trường hữu ngã.
Hoặc giả, theo như luận Đại tì bà sa, Độc tử bộ thuyết minh hữu ngã là
căn cứ trên lập trường về chủ thể của nhận thức; hay, do tìm kiếm chủ
thể của ký ức mà thiết lập Hữu ngã luận. Ở Câu xa, phẩm Phá ngã, cho
rằng Hữu ngã luận được thành lập do sự tìm kiếm chủ thể của ký ức. Thêm
nữa, lý do thành lập Hữu ngã luận của những nhà Sammatya (Chính lượng
bộ) là đối với trách nhiệm về thiện và ác, từ đó thuyết minh chủ thể thọ
báo luân hồi. Những luận Tam di đề của phái Chính lượng bộ (Sammatya)
không nói đến chủ trương hữu ngã của những nhà Độc tử bộ. Và theo như
trình bày của Dị bộ tông tôn luận, Độc tử bộ chuyên môn dựa trên giải
thích luân hồi mà thành lập chủ trương hữu ngã.
Điểm khó khăn
cho Độc tử bộ trong công trình thành lập Hữu ngã luận là như thế này:
nguồn gốc, căn cứ theo những lời thuyết giáo của Đức Phật, thì sinh
mạng, tâm lý của con người do sự tích tụ năm uẩn; ngoài năm uẩn ra,
không có một tự ngã cố định nào cả. Còn đối với Độc tử bộ thì ngoài năm
uẩn, các luận sư còn thành lập thêm một ngã thể nữa, như vậy giống với
chủ trương của những người bài xích Phật giáo, cố nhiên là khó đứng vững
với truyền thống. Điều nan giải đó là mối bận tâm lớn lao của những nhà
Độc tử bộ. Cuối cùng, họ thành lập một thứ ngã mệnh danh là “không phải
uẩn cũng không phải phi uẩn” (phi tức uẩn phi ly uẩn ngã). Như vậy có
một tự thể “bất khả thuyết” là tự thể trung tâm cho các sinh hoạt của
con người. Theo những nhà Độc tử bộ, sự quan hệ giữa uẩn và ngã cũng
giống như sự quan hệ giữa lửa và nhiên liệu. Ngoài nhiên liệu ra không
có lửa và ngoài lửa ra cũng có nhiên liệu. Như vậy, sự quan hệ giữa uẩn
và ngã là “bất nhất, bất dị”, “bất tức, bất ly”. Vượt ngoài hai kiến
chấp đoạn và thường, người ta mới có thể tìm thấy bản chất chân thật của
sinh mạng. Với ý nghĩa đó, những nhà Độc tử bộ thành lập có “Bổ đặc già
la” (Pudgala) nó không phải thực hữu cũng không phải giả hữu. Pudgala,
không phải biệt lập với uẩn, cũng không phải chỉ là giả danh do những
tích tập, mà là nội bộ của thân tâm tồn tại do các yếu tố cảm giác, và
làm trung tâm cho chúng. Tiến thêm, bản thể của các tự ngã “phi tức uẩn
phi ly uẩn” đó như thế nào? Ấy là điều không thể nói được, và những nhà
Độc tử bộ mới nói rằng “Bất khả thuyết”, và họ thành lập “Bất khả thuyết
tạng” để chỉ cho tự ngã ấy.
Lối giải thích của những nhà Độc tử bộ
tuy là rất lý thú, nhưng nếu họ không đồng lập với những hữu bộ, là vì
cả hai không nhìn ngũ uẩn dưới một cái nhìn như nhau. Một đằng, những
nhà Độc tử bộ, lấy vô minh hoặc nghiệp làm trung tâm của ngũ uẩn. Đằng
khác, những nhà Hữu bộ coi ngũ uẩn như là cơ giới. Có thể nói, họ cùng
đứng trước một cái hồn nhiên nhất thể mà lại không nhìn như nhau.
Cái
hồn nhiên nhất thể đó, khi phân tích, tuy là ngũ uẩn nhưng không phải
là tích tụ theo kiểu cơ giới, cho nên không thể nói năm uẩn chính là
ngã, và đồng thời, phân tích các yếu tố của cái hồn nhiên nhất thể đó,
thì cái hồn nhiên nhất thể ấy lại cũng không ở ngoài ngũ uẩn, cho nên
không thể nói nó tồn tại ở ngoài ngũ uẩn. Đó là ý nghĩa căn bản của chủ
thuyết “phi tức uẩn phi ly uẩn ngã”. Song, chủ trương có một tự ngã
không phải uẩn cũng không phải ở ngoài uẩn của những nhà Độc tử bộ không
giống như chủ trương của những học thuyết bên ngoài truyền thống Phật
giáo; tự ngã có lưu động, mặc dù có sự nhất quán của một cái nhất thể
hồn nhiên tiếp nối từ trước và sau. Pudgala của họ được thành lập bên
ngoài hai kiến chấp đoạn thường. Nó gần giống, và có thể là tiên phong,
cho chủ thuyết A lại da sau này của những nhà Duy thức. Mặc dù Độc tử bộ
bị các nhà Phật học đả kích kịch liệt, cho rằng đó là chủ trương của
“những người ngoại đạo bám vào Phật giáo”, nhưng ảnh hưởng của nó không
phải là không có. Như Duy thức học, mặc dù cũng đả kích Độc tử bộ, vẫn
có quan hệ với Độc tử bộ, ở chủ thuyết A lại da thức. Cố nhiên, như
những điều đã trình bày, Độc tử bộ không phải hoàn toàn ở ngoài truyền
thống của Phật giáo, khi mà họ đã cố gắng vượt khỏi hai thái cực thiên
chấp là đoạn kiến và thường kiến.
VII. Kinh lượng bộ
và Hữu ngã luận
Kinh lượng bộ (Sautrantika) là một bộ
phái phát xuất từ Nhất thiết hữu bộ, không đồng ý như những nhà Hữu bộ
là lấy Luận tạng (Abhidharmapitaka) làm căn bản mà trở về với nguồn gốc
lấy Kinh tạng (Sutrapitaka) làm căn bản, thêm một phần ảnh hưởng của Độc
tử bộ. Đại khái về chủ trương của những nhà Kinh bộ này theo Dị bộ tông
tôn luận của Thế Hữu (Vasumitra), như sau:
“Họ bảo rằng các uẩn từ
tiền thế chuyển biến đến hậu thế, do đó cũng có tên là Thuyết chuyển bộ.
Họ chủ trương có Căn biên uẩn và Nhất vị uẩn...; chấp có Thắng nghĩa Bổ
đặc già la”.
Và sách Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm của Khuy Cơ viết:
“Kinh
bộ chủ trương có Thắng nghĩa Bổ đặc già la. Ở trong cấp bậc di sinh
(chúng sinh) cũng có thánh pháp. Có Căn biên uẩn, có Nhất vị uẩn. Nhất
vị uẩn tức là tế ý thức (ý thức vi tế). Ngoài ra, phần lớn chủ trương
đồng với Nhất thiết hữu bộ”.
Những nhà Hữu bộ chủ trương sát na tương
tục, không có một pháp nào lưu chuyển từ tiền thế đến hậu thế, nhưng
cũng có sự tương tục của thực chất. Do đó được mệnh danh là Thuyết
chuyển bộ.
Theo truyền thuyết Nam phương Thượng tọa bộ, bộ phái
Sambauntika tức Thuyết chuyển bộ khác với Kinh lượng bộ. Có lẽ cả hai
chỉ là sự phát triển giai đoạn trước và giai đoạn sau của Kinh bộ.
Uẩn
có “Căn biên uẩn” và “Nhất vị uẩn”: Căn biên uẩn tuy niệm niệm sinh
diệt, nhưng Nhất vị uẩn cũng gọi là Thắng nghĩa Bổ đặc già la lại là chủ
thể cho sự tương tục từ tiền thế đến hậu thế. Uẩn hay ngã này cũng gọi
là tế ý thức. Chủ trương này không khác với chủ trương Hữu ngã luận của
những nhà Độc tử bộ. Vì Kinh bộ cho rằng ngoài ngũ uẩn phổ thông (Căn
biên uẩn) còn có căn bản uẩn (Thắng nghĩa). Căn cứ trên lập trường này,
Kinh bộ thành lập những chủng tử, huân tập, và có thể đã là tiên phong
cho Duy thức học trong các thể tài này.
VIII. Tổng kết
Phật giáo
Nguyên thủy đã chối bỏ quan điểm có một linh hồn như là tự thể bất biến
đồng thời cũng chối bỏ luôn cả chủ trương Duy vật Tâm lý học, và thừa
nhận hoạt động của tâm lý là một quá trình phức tạp. Điều này đáng kể là
một thành tích quan trọng về vấn đề Tâm lý học cổ đại ở Ấn Độ. Tuy
nhiên, đó không phải là Tâm lý học thuần túy, mà còn là “sinh mạng quan”
theo kiểu Phật giáo nữa; nó không phải dừng lại ở Tâm lý học thuộc phạm
vi kinh nghiệm thông thường mà lại được xây trên một quá trình liên tục
vô thủy vô chung của con người. Nhưng, mối liên lạc cho một quá trình
liên tục vô thủy vô chung như vậy là gì? Đức Phật chỉ trả lời rằng:
Nghiệp, và Ngài không quy định rõ. Điều này phát sinh nhiều giải thích
khác nhau của những nhà Phật học về sau. Tựu trung lại, học chia nhau
làm hai khuynh hướng.
1. Chủ trương Cơ giới luận với lập trường vô
ngã. Phái này thường hay lấy thí dụ vòng lửa để cắt nghĩa sự liên tục,
hay như một thí dụ khác: lửa bén cháy từ cây củi này sang cây củi khác,
tương tục vô cùng, và cố nhiên không có củi thì cũng không có lửa tồn
tại, nên lửa không phải tồn tại như là tự thể bất biến.
2. Phái thứ
hai, như những nhà Độc tử bộ chẳng hạn, dựa trên chủ thuyết “sinh cơ”,
cắt nghĩa sự tương tục ở phương diện lưu động. Và đến chỗ này, Phật giáo
có vẻ như tiến gần đến chỗ thừa nhận có linh hồn theo kiểu nhận thức
phổ thông, mà thực chất của nó ở Phật giáo lại không phải là cố định
theo kiểu phổ thông ấy.
Thích Tâm Huyền (Theo GNO)