Giao thoa giữa khoa học và tâm linh ở Mỹ
Sự phát triển của thiền định một phần nào nhờ vào những
nghiên cứu khoa học dẫn chứng những hiệu qủa của thiền định trên sức khỏe, bao
gồm những tác dụng dương tính của thiền trên chức năng của bộ não Từ kết qủa
của những nghiên cứu này, các chuyên viên y tế càng khuyến khích bệnh nhân nên
tìm đến thiền định hầu giúp vượt qua những chướng ngại do các bệnh trạng của
thân và tâm. Những khóa học về chánh niệm xuất phát từ truyền thống Phật giáo
nhưng lại hoàn toàn biến thành phương pháp trị liệu thực tiễn trong dân gian.
Tác giả cố gắng tìm hiểu xem vì sao mà thiền định được phổ
biến như vậy, tại sao lại có những sắc thái đặc thù, và được giao tiếp như thế
nào với các xu hướng khác ở Mỹ.
Từ những nghi vấn nghiên cứu của tác giả dẫn đến khảo sát
vai trò của những can thiệp dựa vào chánh niệm MBIs (Mindfulness Based
Interventions) ở Mỹ. MBIs là những can thiệp lâm sàng được phác họa cho mục
đích thực tập về thiền định.
Những khóa huấn luyện thông dụng nhất là 8 tuần lễ, nhưng
có thể thu xếp thành vài giờ hoặc cả năm học hay nhiều hơn nữa. Đã có sự bột
phát lớn về tầm quan trọng của những ứng dụng lâm sàng MBIs cùng với nhiều
nghiên cứu khoa học về thiền và MBIs.
Tác giả khảo sát sự giao lưu của MBIs qua 3 phương diện
chính là y học, khoa học và tôn giáo. Mặc dù nghiên cứu này đề cập cả 3 phương
diện chồng chéo nhau, đề tài thuyết trình ở đây sẽ chú trọng về sự giao thoa
của chánh niệm và tôn giáo.
Trường hợp chứng nghiệm đầu tiên chú trọng về chánh niệm
và y học khi khảo sát một ứng dụng lâm sàng đặc biệt trên chánh niệm là giảm
thiểu bức xúc dựa vào chánh niệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction).
Trường hợp chứng nghiệm thứ 2 tập trung vào vai trò của
chánh niệm trong khoa học qua sự khảo sát một cơ sở nghiên cứu về chánh niệm:
Học Viện Tâm Và Đời Sống MLI (Mind and Life Institute).
Trường hợp chứng nghiệm thứ 3 là chánh niệm và tôn giáo, đặt trọng tâm vào
thiền tứ niệm xứ (Vipassana) và phép quán của đạo Chúa (Christian comtemplation).
Trước khi đề cập đến các trường hợp chứng nghiệm và những
nghi vấn nghiên cứu cũng cần định nghĩa sơ qua về thiền định và giải thích các
cơ sở có liên quan đến đề tài rộng lớn hơn của chánh niệm.
Bối Cảnh Về Chánh
Niệm Ở Mỹ
Một số chuyên gia ước đoán ở Mỹ có gần 3 triệu tín đồ Phật
giáo. Theo một nghiên cứu năm 2004, có hơn 25 triệu người Mỹ tin rằng những
giáo pháp của Phật có tầm ảnh hưởng quan trọng trên tâm linh của họ. Với cách
nhìn khái quát, vì Phật không phải là một đấng thần linh (God) nên đạo Phật
được xem có tính triết học hơn là tôn giáo. Sự lưu hành của thiền tông, Yoga,
và những hình ảnh phật tử trong các quảng bá cùng những bài diễn văn đã đang
gia tăng khá nhiều. Người ta có lúc sử dụng các danh từ như nghiệp, thiền, giác
ngộ đồng thời chắp nối một cách méo mó phật tử với những kẻ theo hippy phóng
túng trong những thập niên ’60 và ’70. Có rất nhiều sự quan ngại, lầm lẫn và lo
lắng về ảnh hưởng của Phật giáo trên đất Mỹ. Bằng cách nào đạo Phật đã có thể
được dung nhập vào xứ này? Phật giáo phương tây thường khác biệt với những hình
thức của Phật giáo Châu Á bởi vì những người truyền giáo đến từ Á châu chỉ du
nhập rất ít những lý thuyết và thực hành được chọn lọc từ những giáo lý của Nam
Tông -Thượng Tọa Bộ (Theravada) hay Bắc Tông -Đại Thừa (Mahayana). Họ không bắt
buộc phải mang đến hình thức Phật giáo chính gốc, mặc dù có những trường phái
khác nhau đã tìm đến gây ít nhiều ảnh hưởng. Nói chung phật tử được tự do cũng
như bị đưa đẩy vào những kinh nghiệm về cơ cấu và hình thức của một tôn giáo
mới lạ để có thể được chấp nhận một cách kỳ đặc trên đất Mỹ. Tuy nhiên một số
khía cạnh của đạo Phật không dễ dàng được truyền đạt hay chấp nhận bởi người Mỹ
như phương cách xử thế và qui y theo Phật. Đây là một trong những đặc điểm mang
lại nét đặc thù của những hình thức Phật giáo phương tây tuy vẫn còn giữ lại
một số đặc tính chung của nhà Phật.
Người ta thường cho rằng có 3 dạng thức Phật giáo ở phương
tây. Đó là (1) nhóm chuyển đạo, (2) nhóm chủng tộc mới di dân đến và (3) nhóm
Phật tử kỳ cựu Á-Mỹ (Tàu và Nhật).
Trước hết nói về thành phần chuyển đạo. Đây là những Phật
tử đầu tiên gốc Âu Mỹ mà họ đã quyết định từ bỏ tôn giáo trước đây của mình để
qui y theo Phật. Hình thức đạo Phật này gia tăng rất nhanh trong vòng 5 năm
nay. Có 4 loại chuyển hướng là Thiền Tông (Zen Buddhism), Mật Tông Tây Tạng,
Theravada (Nam Tông) và Soka Gakkai (hậu thân của Nhật Liên Tông - Nhật Bản).
Ba thể loại đầu tiên có liên quan với nhau do sự hội nhập
thân cận về văn hóa đối lập trong thập niên 1960 và cùng chia sẻ tương tự
phương pháp hành thiền. Ở đây cần nhấn mạnh về sự phát triển của phong trào
thiền định Theravada. Hai phương pháp hành thiền chính yếu của Theravada là
thiền quán (Vipassana) và thiền chỉ (Samatha). Trong 3 dòng Phật giáo ở Mỹ
(Thiền tông, Mật tông và Theravada), thiền quán (4 niệm xứ) Vipassana của
Theravada có nét độc đáo hơn cả vì được truyền đến phương tây mà không mang sắc
thái Phật giáo cổ truyền và nhấn mạnh phương pháp hành thiền qua những lễ nghi
tôn giáo với phương thức giảng dạy thiết thực.
Phương thức giảng dạy của Theravada ở Mỹ, mặc dù đặt nền
tảng trên triết học Phật giáo, không có ý làm chuyển đạo thiền sinh, mà thật ra
là cố gắng thu nhận càng nhiều càng tốt mọi lớp người. Thay vì bỏ mất nhiều thì
giờ vào lý thuyết người ta chú tâm nhấn mạnh phần kỹ thuật và thực hành thiền
định. Phương pháp truyền đạo nhập thế này của Theravada đã tạo nhiều cơ hội
thuận lợi cho việc truyền đạt lan rộng
Về phần những tín đồ chuyển đạo thì sao? Nét đặc trưng của
Phật giáo phương tây là khuyến khích mọi người tập thiền trong mọi hoàn cảnh.
Thông thường thiền quán Vipassana ít được thực hành ở Châu Á vì quan niệm cần
phải có đầy đủ phong thái tu hành của người xuất gia và phải luyện tập rất
nghiêm ngặt. Hình thức đạo Phật mới (new buddhism) có nét đặc sắc qua vai trò
của những người tin theo, đặc biệt là những tín đồ có chức nghiệp chuyên môn và
học vấn cao, có mối liên hệ đến việc tổ chức và điều hành đường lối. Phật giáo
Theravada được xem như bị tách riêng lẻ nhất trong vai trò hành đạo của người
phương tây. Ngày nay thiền quán Vipassana thích nghi hoàn toàn với những người
tự do, thường là những người Mỹ sống bình thường ngoài đời. Tuy vậy quan điểm
của những hành giả Vipassana thường không tương hợp với Phật giáo Tharavada có
truyền thống gốc Á châu. Những nét thay đổi truyền thống Theravada bởi người Mỹ
là do chịu ảnh hưởng của cá nhân chủ nghĩa, ý tưởng phóng khoáng, tinh thần dân
chủ, trị liệu tâm thần, nữ giới bình quyền, nhàm chán khoa học và lý do tín
ngưỡng.
Thiền quán Vipassana còn được hiểu theo ý nghĩa bao quát trên đất Mỹ là thiền
định (mindfulness meditation). Chánh niệm (mindfulness) là một danh từ được áp
dụng rộng rãi trong lúc hành thiền để nuôi dưỡng sự tỉnh giác vào mọi thời
khắc. Đây là sự tỉnh giác tập trung có chủ ý, một phương thức chú tâm có mục
đích ngay trong lúc hiện tại, mà không có sự phán xét nào. Nguồn gốc của thiền
định nằm trong thực hành thiền quán Vipassana của nhà Phật và từ đó chuyển tải
vào chánh niệm. Tác giả điều nghiên những yếu tố khác nhau bao gồm trong chánh
niệm, thời gian thực hành chánh niệm, phạm vi và mục đích hành thiền.
Trường hợp chứng
nghiệm MBSR (Mindfulness Based Stress Reduction)
Ứng dụng của thiền định đã và đang được xuất hiện trong
nhiều cơ sở tại Mỹ, đáng kể nhất là sự hội nhập vào lãnh vực y học. Vì vậy, tác
gỉa chú tâm vào phần nghiên cứu đầu tiên của mình trong chương trình 8 tuần lễ
MBSR, do Jon Kabat-Zinn thành lập tại trung tâm y khoa đại học Massachusetts từ 1979.
MBSR hiện nay không chỉ áp dụng trong trị liệu y học mà còn được phổ biến và
lưu hành trên hơn 170 vị trí khắp nước Mỹ.
Xuất phát từ phòng mạch giảm thiểu bức xúc, Kabat-Zinn bắt
đầu giới thiệu phương pháp thực hành chánh niệm với bệnh nhân có vấn đề liên
quan đến thân và tâm bệnh. Ông ta cẩn thận dẫn chứng cách thức mà thiền định
đem lại hiệu qủa cho người bệnh. Kabat-Zinn là một trong những nhà nghiên cứu
tiên phong ở Mỹ tìm hiểu thiền định ảnh hưởng ra sao đối với sức khỏe và lợi
ích con người. Những nghiên cứu của ông khẳng định rằng thiền định là một trong
những kỹ thuật ưu thế nhất trong các chọn lựa trị liệu ở Mỹ.
Trong khi chương trình MBSR có nguồn gốc từ truyền thống
Phật giáo Tây Tạng, phương pháp này đã biến thành một phép trị liệu đại chúng
được quảng cáo rầm rộ bởi các nhà cung cấp dịch vụ y tế và được các công ty bảo
hiểm chi trả. Trên qui mô lâm sàng, đã có hơn 16.000 người hoàn tất chương
trình 8 lễ MBSR, được dạy phương thức đáp ứng một cách hiệu quả đối với các
triệu chứng như bức xúc, đau nhức, và bệnh hoạn. Chương trình này là một sự
giới thiệu chính xác về hành thiền và có sức lan tỏa nhanh chóng khắp nước Mỹ
cùng những chỉ dẫn về yoga, thiền tọa, thiền hành và chánh niệm trong cuộc sống
hàng ngày. Các khóa học được tổ chức mỗi tuần một lần trong 8 tuần liên tục và
một ngày thảo luận. Khóa học đòi hỏi học viên phải bỏ ra ít nhất 45 phút mỗi
ngày, 6 ngày trong tuần để làm các bài tập ở nhà qua các băng giảng được ghi âm
sẵn của Kabat-Zinn về chánh niệm hay yoga.
Kabat-Zinn chủ trương rằng những kỹ thuật được giảng dạy
trong các khóa MBSR mang tính đại chúng và không liên quan đến một tôn giáo nào
cả. Ông ta biện luận rằng Phật giáo đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử và đây
chỉ là một thay đổi quan trọng giúp cho việc chữa trị sẵn sàng đến với quần
chúng một cách sâu rộng hơn. Một trong những trọng điểm khiến chương trình MBSR
được thành công như vậy là nhờ Kabat-Zinn đã chuyển hóa giáo pháp, nghi thức và
ngôn ngữ của Phật giáo thành một triết lý thoải mái mang tính chất xã hội và
nhập thế rộng rãi.
Học Viện Tâm Và Đời
Sống MLI (Mind And Life Institute)
Tính phổ biến gần đây của ứng dụng chánh niệm trong y học
được thúc bách bởi nhiều yêu tố, trong đó có những bản tường trình rõ ràng và
tích cực từ những nghiên cứu của chương trình MBSR nêu trên. MLI là một trong
những nhà bảo trợ chính yếu cho những nghiên cứu khoa học sớm nhất về thiền
định. Trang web của chương trình giải thích rằng “Nhằm cống hiến cho những đối
thoại hữu ích và nghiên cứu hợp tác giữa các nhà khoa học phương tây và các tu
sĩ, đặc biệt của Phật giáo”. Học viện là nơi gặp gỡ giữa các khoa học gia, duy
lý gia, lãnh tụ tôn giáo, tâm linh gia, và những ai chưa có định hướng. Họ đã
tìm thấy rằng những kỹ thuật hành thiền rất bổ ích cho các triệu chứng của thân
bệnh và tâm bệnh, và ngay cả có thể tạo ra những thay đổi bên trong các cơ cấu
hoạt động của bộ óc - liên hệ đến những cảm xúc dương tính.
Thiền Quán Vipassana
Tác giả quan sát ảnh hưởng của việc thực hành chánh niệm
trên các cộng đồng theo đạo Phật và đạo Chúa ở Mỹ.
Trước hết so sánh khóa học MBSR với thiền quán Vipassana
truyền thống. Những bài học và thực tập trong các khóa giảng ở MBSR được căn cứ
trước tiên vào truyền thống thiền quán Vipassana, nhưng khóa học chỉ bao gồm
một số phần thực hành Vipassana mà thôi. Khi Kabat-Zinn mở khóa MBSR, ông ta đã
chọn phương pháp thiền quán Vipassana vì nghĩ rằng đó là giải pháp mà quần
chúng phương tây dễ tiếp nhận nhất. Đặc biệt là sự so sánh MBSR với thiền quán
Vipassana để khảo sát chương trình MBSR thích ứng như thế nào về mặt lý luận và
thực hành, từ đó có thể hòa nhập một cách hợp lý với y học phương tây, cũng như
sự thích ứng này có ảnh hưởng kế tiếp như thế nào đối với Phật giáo phương tây.
Hai vị trí nghiên cứu thiền quán Vipassana tại Mỹ là Trung Tâm Tùng Lâm Nữ Tu
của Thiền Viện Spirit Rock tại Woodacre/California và Hội Thiền Định ở
Barre/Mssachusetts. Jack Kornfield, Sharon Salzberg và Joseph Golstein là 3
sáng lập viên của các trung tâm truyền thống Vipassana của Phật giáo nước Mỹ.
Họ có công mang về đất Mỹ những thực hành chánh niệm sau thời gian tu học ở Ấn
Độ, Miến Điện và Thái Lan. Năm 1976 họ thiết lập trung tâm thiền quán Vipassana
đầu tiên ở Barre/Massachusetts. Sau đó Jack Kornfield di chuyển về California năm 1984 và
thành lập trung tâm thiền nữ tu tại Woodacre còn gọi là Spirit Rock. Mặc dù đây
là 2 trung tâm thiền quán Vipassana chủ yếu, các cơ sở Vipasana đã gia tăng hơn
gấp đôi trong khoảng thập niên 1988-1998 và đến nay chiếm đến 15% các trung tâm
thiền Phật giáo ở Mỹ, đạt thành tích cao hơn các trung tâm của Thiền tông (Zen)
và Mật tông có từ trước. Mặc dù hầu hết những giảng viên của chương trình MBSR
đã được huấn luyện theo truyền thống Vipassana, khuynh hướng này có thể thay
đổi trong những năm tới đây trong lúc chương trình MBSR tiếp tục phát triển
thanh thế của mình. Vì nhu cầu đòi hỏi gia tăng giảng viên nên sẽ có nhiều
giảng viên các lớp MBSR đuợc đào tạo cấp tốc theo phương cách thế tục về thực
tập chánh niệm.
Quán Tưởng Trong Đạo
Chúa
Tác gỉa cũng quan sát sự giao lưu giữa thực hành chánh
niệm và truyền thống đạo Chúa. Cơ sở “Tỉnh Tu” là một tổ chức quốc tế của Thiên
Chúa với mục đích truyền đạt sự thực hành cầu nguyện tập trung. Theo trang web
của họ: Cần bắt đầu bằng những phản ứng qua đó người ta không có đầy đủ nội lực
để chống đỡ lại những tác động của xã hội đặt để lên họ, đặc biệt là theo
truyền thống Thiên Chuá. Đây là tính linh cảm trong trong triết học đông phương
và thần bí của đạo Chúa. Việc thực hành cầu nguyện tập trung không giống như
thiền định và căn bản chỉ là một khoảng thời gian tỉnh lặng, cầu nguyện không
tính toán trong đó hành giả trải lòng mình đến thượng đế.
Bình Luận
Đến đây hãy thử xét qua nghi vấn về tư tưởng Phật giáo
được chuyển biến ra sao theo thể chế nước Mỹ. Bằng cách nào mà triết học Phật
giáo có thể tiếp xúc và làm thay đổi con người và thể chế này? Để thực hiện
việc này, tác giả chú ý đến những khác biệt về thế lực và phương sách của những
diễn viên khác nhau; đồng thời xem xét những khác biệt này ảnh hưởng như thế
nào đến đặc tính và hình thái của sự phát triển thiền định. Vậy cần tìm hiểu
những liên quan làm thúc đẩy, cản trở hay nhũng nhiễu trong sự trỗi dậy của
khuynh hướng này.
Y Học
Có thể nói sự phát triển gần đây nhất của Phật giáo phương
tây một phần nào đó do những nghiên cứu khoa học chứng minh hiệu qủa của thiền
định trên sức khỏe. Từ một phần kết quả của nghiên cứu này và một phần khác của
hiện tượng độc lập, chúng ta thấy được những ứng dụng lâm sàng mới lạ của thiền
định vào y học. Chương trình MBSR được đề xướng như là một cơ hội cho bệnh nhân
khi mà cơ cấu y tế không biết phải làm gì và phương pháp trị liệu qui ước cũng
chịu bó tay. Các bác sĩ gữi bệnh nhân đến đây với những bệnh chứng như trầm
cảm, lo nghĩ, suy tim, cao huyết áp, bệnh da, ung thư và đau nhức kinh niên. Nó
tiêu biểu cho một phương pháp thay thế và mở rộng của ngành sinh-y học truyền
thống. Như Davis Hess (2001) giải thích trong sách “Chọn Lựa Kỹ Thuật, Khoa Học
và Y Học” của ông ta: “Trong cùng thời gian mà ngành sinh-y học (bio-medicine)
chiếm ưu thế và can dự vào nền y tế toàn cầu, những kiến thức và y học địa
phương cũng góp phần tương tự như những hình thức bổ sung và thay thế”. Quan
điểm của Davis Hess về tính đa nguyên của y học được đưa ra ở đây để nêu lên
điều phải làm thế nào mà trường hợp này có thể so sánh với những thực hành y
học bổ sung-thay thế khác. Trong những năm gần đây, chuyên ngành sinh-y học đã
chuyển hướng từ định chế hạn hẹp đển bao dung và chấp nhận phương pháp chữa trị
bổ sung-thay thế CAM (Complementary and
Alternative Therapies). CAM đã thật sự hôi
nhập vào ngành sinh-y học chính gốc. Vì càng ngày càng có nhiều người đòi hỏi
phương pháp trị liệu này, nên tên gọi cũng được thay đổi từ y học bổ sung-thay
thế thành y học hợp nhất. Những tên của các chương trình y học bổ sung-thay thế
cũng đang được hoán chuyển, gây nên những thay đổi chính yếu trong cơ sở hạ
tầng của các tổ chức y tế. Một sự kiện rất có ý nghĩa là sự trỗi dậy của chánh
niệm trong y học đã trùng hợp với sự chuyển hướng của y học hợp nhất. Việc sử
dụng nghiên cứu khoa học như một cơ chế chọn lọc phẩm chất trong những chương
trình y học hợp nhất có nghĩa là những cộng đồng nghiên cứu đã kiểm soát được
phần lớn sự hội nhập của phương pháp trị liệu bổ sung-thay thế.
Tuy nhiên những nhà nghiên cứu không phải là những tác
nhân duy nhất có liên hệ đến những thay đổi này. CAM
đòi hỏi nhà khoa học phải hợp tác với bác sĩ, y tá, nhà điều hành y tế, và nhất
là những ai có vốn kiến thức và chuyên môn trong lĩnh vực này. Nhân viên CAM có lẽ còn phân vân khi phải hội nhập vào hệ thống y
học chính thống. Có thể họ muốn trao truyền phép trị liệu có lợi ích tiềm tàng,
nhưng không muốn phải trả giá cho sự thay đổi hay làm méo mó nghề nghiệp của
mình. Thêm vào đó, họ không mấy thích thú việc các bác sĩ và khoa học gia đoạt
mất uy tín, sự công nhận của quần chúng, và tiền thù lao nghề nghiệp của họ
đang có và đã đeo đuổi trong bao nhiêu năm qua.
Một nhận xét rất rõ là phái nữ tham gia các khoá “giảm
thiểu bức xúc dựa vào chánh niệm” MBSR nhiều hơn nam giới, có lẽ vì chương
trình này thiên về xã hôi tính nên dễ được phái nữ chấp nhận hơn. Lại nữa chứng
bức xúc của phụ nữ Mỹ đạt được kết quả tốt hơn với loại kỹ thuật này.Trừ bệnh
ung thư, những bệnh trạng khác được nghiên cứu qua chương trình MBSR thường gặp
ở phụ nữ là trầm cảm, máu chạy rân trong người (hot flashes), tê khớp và đau
nhức cơ thịt.
Khoa Học
Như vậy Phật giáo làm thay đổi khoa học hay ngược lại? Sự
đàm thoại giữa các khoa học gia và tu sĩ Phật giáo đã biến đổi những đề tài
nghiên cứu khoa học, đào sâu vào lĩnh vực nghiên cứu về xúc cảm và tri giác con
người. Họ cũng thay đổi phương pháp nghiên cứu khoa học, ví dụ xem người đầu
tiên tường trình về kinh nghiệm bản thân như là một dụng cụ chứng nghiệm cho
nghiên cứu tri giác. Thiền tự nó được định nghĩa như là một hành vi chứng
nghiệm – hành vi quan sát tâm – và do đó được xem là một khoa học. Sau hết các
nhà khoa học đã làm thay đổi vai trò của chủ thể nghiên cứu, dành cho các tu sĩ
có tự do ý chí và uy tín khi tham gia nghiên cứu. Dĩ nhiên, sự chuyển tiếp này
chưa hoàn chỉnh và còn là một đề tài hấp dẫn để bàn bạc đối với những nghiên
cứu khoa học về thiền. Đây là một trường hợp rõ ràng trong việc bành trướng
biên giới, bởi vì các khoa học gia mở rộng địa bàn hoạt động vào lĩnh vực đạo
đức mà trước đó chỉ do tôn giáo nắm giữ. Nghiên cứu thiền không những chỉ làm
thay đổi chủ đề khoa học mà cũng chuyển hướng vai trò của những nhà nghiên cứu
khoa học. Tất cả những khoa học gia mà tác giả có dịp phỏng vấn đã tham gia
hành thiền, cùng lúc thực hiện công tác nghiên cứu thiền. Điều này gây nên một
vấn đề biên giới tiềm tàng. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta có thể xem chính
các khoa học gia như những mục tiêu biên giới; danh từ này được hiểu là biên
gìới chung giữa 2 thế giới và đồng thời nuôi sống cả hai. Khoa học gia vừa là
nhà nghiên cứu vừa là thiền giả. Điều này giúp họ có được một sự thông cảm và
từ vựng chung trong các đề tài nghiên cứu. Như vậy người trong cùng một nhóm có
thể diễn tả kinh nghiệm hành thiền của mình bằng những cách thức khác nhau.
Điều này nêu ra 2 sự kiện: vấn đề và cơ hội cho các nhà nghiên cứu. Những
nghiên cứu gia hành thiền ở một vị thế khả quan hơn khi va chạm những thách
thức phải đặt những câu hỏi khoa học thích nghi. Họ có thể lãnh hội tốt hơn,
cân bằng những giới hạn của nghiên cứu khoa học và những suy tính đối với những
phức tạp của thiền.
Tôn Giáo
Một số nhà xã hội học biện luận rằng bộ óc tưởng tượng ra
sự nghiên cứu, mặc dù có tính thuyết phục gượng ép; nhưng quan điểm này không
thể giải thích gì nhiều về những quyết định đạo đức nào là đúng, lòng tốt sẽ
ảnh hưởng ra sao trong việc giao tiếp, ý nghĩa của tình yêu, hay tại sao người
ta cầu nguyện? Và bao quát hơn, những xác nhận sinh học về căn bản tiến hóa của
đạo đức đã bị phản đối hay lơ là trong khoa học xã hội. Xã hội học đã bị chỉ
trích vì cho rằng bản tính con người được hình thành trước tiên bởi những yếu
tố xã hôi và văn hóa mà không chú ý đầy đủ đến các yếu tố di truyền và sự tiến
hóa giúp tạo nên những thái độ đặc thù. Những xác nhận rằng khoa thần kinh học
về nhận thức (cognitive neuroscience) - liên quan đến những ảnh hưởng cảm xúc
lâu dài của thiền – đã đón nhận được sự chú ý và tính công khai của quần chúng
cũng như xứng đáng được đánh gía từ triển vọng xã hội học. Tác gỉa quan tâm về
2 biến chuyển trong nghị trình tôn giáo/khoa học liên hệ về thiền và tâm: (1)
hầu hết những nghiên cứu khoa học về bộ óc tập trung vào những cảm xúc, bao gồm
hạnh phúc và tình thương. Đặc biệt người ta đang hướng về các nhà khoa học,
thay vì tôn giáo, để tìm câu trả lời cho ý nghĩa gì dẫn đến cuộc sống yêu
thương, hay những bí mật của hạnh phúc. (2) Nội dung của đạo đức đang chuyển từ
phép xử thế phương tây, đặt nền tảng sơ khởi trên sự tương trợ và dịch vụ xã
hội, để trở thành thứ đạo đức chú trọng nhiều hơn về tình thương cho chính
mình.
Đạo đức trong đạo Do Thái và đạo Chúa đề nghị rằng để làm
một người đạo đức, chúng ta phải bắt đầu suy nghĩ về người khác và cư xử với họ
như chính mình muốn được cư xử. Tuy nhiên căn bản đạo lý nhà Phật nhấn mạnh về
thứ tình thương không đối tượng (objectless) hoặc bắt đầu với tình thương cho
chính mình trước hết. Trong truyền thống Thiên chúa, công việc phụng sự xã hội
là ưu tiên. Đối với Phật giáo, bản thân là ưu tiên, nhưng tình thương của mình
được chấp nối một cách thân mật với người khác. Trong tạp chí Phật giáo phương
tây Tricycle, Robert Bellah viết về những nguy hiểm tiềm tàng của sự chuyển
tiếp này. Ông ta cho rằng hết sức quan trọng để tìm hiểu phạm vi văn hóa đặc
thù, trong đó truyền thống tôn giáo được thực thi hầu giúp lãnh hội tốt hơn
những lý lẽ nằm sau một số truyền thống và lễ nghi. Ông ta báo động về sự nguy
hiểm trong việc hậu thuẩn một cách vô ý thức cho tính chủ nghĩa cá nhân trong đạo
Phật, đặc biệt là đối với Thiền tông. Bellah nghĩ rằng Thiền tông (Zen
Buddhism) được phát triển vào lúc mà ở nước Nhật có sự gắn bó chặt chẽ giữa
cộng đồng với cá nhân, làm cho quyền tự do cá nhân bị gìới hạn và khiến người
ta phải gia nhập vào các chùa chiền như là một cách chạy trốn cơ chế xã hội
thời đó.
Ngược lại tại nước Mỹ, chủ nghĩa cá nhân rất mạnh và sự
gắn bó với cộng đồng thì yếu, cho nên việc hành thiền nhắm vào cá nhân có vấn
đề tiềm tàng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây: những gì là hậu qủa có thể lường trước
đối với sự trỗi dậy của chánh niệm trong cá nhân người Mỹ? Có phải tình thương
trong tôn giáo là điều nghịch lý với chủ nghĩa cá nhân? Robert Wuthnow trong
cuốn sách nói về những hành vi của tình thương (Acts of Compassion -1991), đã
khảo sát bản chất của tình thương qua tri thức của người Mỹ đương thời. Wuthnow
đề nghị rằng mặc dù tinh thần chăm sóc cho người khác có tính cách di truyền
trong chủ nghĩa cá nhân của người Mỹ, chủ nghĩa vị tha và chủ nghĩa cá nhân
không xung khắc với nhau. Gần đây hơn, Paul Lichterman bắt đầu gỡ rối ý niệm
phức tạp của chủ nghĩa cá nhân. Ông ta tách rời chủ nghĩa cá nhân phương tiện
với chủ nghĩa cá tính, qua đó ông ta tán thành phần bản ngã - thường hay đối
nghịch lại với tập thể chung quanh, nhưng dù sao chăng nữa cá nhân cũng phải
tham gia vào việc chung. Ở đây tác gỉa muốn dựa vào ý niệm chủ nghĩa cá nhân
của Lichterman để nêu lên một phạm trù thứ ba, qua đó cộng đồng và tập thể được
hậu thuẩn bởi tình thương dành cho bản ngã. Đây là mức độ của chủ nghĩa cá nhân
mà người ta cần chú trọng trước nhất vào chính bản thân mình, với mục đích sau
đó là để chú trọng tốt hơn cho người khác. Phạm trù này được truyền thừa trong
giáo lý nhà Phật nhưng cũng có thể hoặc không thể xãy ra khi được thực hành
trong xã hội Mỹ. Một trong những lĩnh vực qua đó chúng ta có thể xem xét sự
thực hành và truyền đạt ý niệm Phật tính của tình thương trong dân gian là
xuyên qua các khóa học của chương trình MBSR như đã nêu trên. Vai trò của tình
thương hay những căn bản luân lý trong chánh niệm thế tục vẫn đang còn được
điều nghiên một cách tích cực. Càng ngày càng có nhiều tranh luận về việc hoặc
cần phải có - hoặc đã sẵn có - một căn bản luân lý đối với chánh niệm. Những
bàn thảo về căn bản luân lý trong chánh niệm chỉ mới được phát triển gần đây
trong chương trình MBSR. Trong kỳ hội thảo về Tâm và Đời Sống năm 2005,
Kabat-Zinn đã trình bày một đề tài trong đó có liệt kê những căn bản luân lý và
thái độ của chương trình MBSR: không phán xét, tính kiên nhẫn, tâm ban đầu của
hành giả, lòng tin, sự cố gắng, chấp nhận, buông xả, không làm hại, thân ái,
tình thương, lòng biết ơn, tính hiếu kỳ và mong cầu học hỏi. Tác giả sẽ xem xét
những ý niệm này cũng như những phương thức được hội nhập qua phương pháp quán
từ bi (loving-kindness medittion) đã thường xuyên, nhưng không chính thức, được
xen vào trong các khóa học của MBSR. Như một trong những giảng viên MBSR từng
nói rằng “có một căn bản về thái độ và luân lý rất mạnh đối với MBSR trong việc
giảng dạy. Chúng tôi không cho ra nhiều bài học về luân lý và đạo đức nhưng cố
gắng cài vào và tạo nên một nơi tích trữ trong lớp học, tiếp nhận cái hay của
người khác, tính liêm khiết của họ, lòng tốt và tình thương, ý thức biết ơn đối
với người đương thời, hoặc ngay cả đối với những khó khăn của một người, bồi
dưỡng sự quan tâm và tính hiếu kỳ, cũng như một định hướng không thù
địch”.
Sự trích dẫn này chỉ rõ có vài đối kháng trên huấn luyện
luân lý, tuy vậy đây là điều quan trọng. Tác giả có dịp quan sát nhiều sự bàn
luận căng thẳng về trình độ huấn luyện thích ứng mà một giảng viên phải trải
qua để được xem là đủ tư cách cho chương trình MBSR. Quan điểm vượt trội là
giảng viên phải có kinh nghiệm hành thiền vững chắc, và hầu hết những giảng
viên với kinh nghiệm như vậy đều được thụ huấn trong truyền thống tôn giáo dựa
trên căn bản luân lý và đạo đức rất nghiêm mật.
Nguyên Tắc Nhiên Cứu
Nghiên cứu này của tác giả căn cứ trước tiên trên sự phân
tích tài liệu, quan sát đương sự tại chỗ và phỏng vấn bán phần các giảng viên
chương trình MBSR, giảng viên thiền quán Vipassana, khoa học gia thần kinh và
nhân viên Viện Nghiên Cứu Tâm và Đời Sống MLI. Tác giả khởi sự nghiên cứu hiện
trường đầu tiên vào mùa hè năm 2005 và đã phỏng vấn: (1) nhân viên và hội viên
chuyên ngành của Hội Thiền Định IMS (Insight Meditation Society) tại
Massachusetts, một trung tâm thiền quán Vipassana, (2) giảng viên chương trình
MBSR tại nơi xuất xứ là Trung Tâm Chánh Niệm ở trường y khoa thuộc đại học
Massachsetts (UMASS), (3) những giảng viên khác tại Massachusetts, (4) những
nhà nghiên cứu thiền ở Viện Nghiên Cứu Mùa Hè về Tâm và Đời Sống MLSRI (Mind
& Life Summer Research Institutes) tại Washington D.C. Tác giả cũng đã phụ
trách nghiên cứu ở MLSRI vào những năm 2005 và 2006, dự hội thảo năm 2005 về
“Khoa Học ở Ngã Tư Đường và Thần Kinh Học”, và hội thảo thuờng niên về MBSR tại
đại học Massachusetts. Tác gỉa cũng trải qua kinh nghiệm lâu dài với những khóa
học của chương trình MBSR và các chốn tùng lâm Vipassana. Căn cứ vào những kinh
nghiệm này, tác giả phác họa ra những câu hỏi trong các cuộc phỏng vấn liên hệ
đến đề tài nghiên cứu của mình.
Chương Trình MBSR Boston
– Massachusetts
Tác gỉa trải nghiệm thời gian phỏng vấn với các hội viên
và nhân viên chuyên ngành của Hội Thiền Định IMS (Insight Meditation Society)
tại Massachusetts.
Có 10 hội viên nòng cốt ở IMS và nhiều hội viên khác thường ghé qua để giảng
dạy hay hành thiền. Trong thời gian lưu trú tại IMS, tác gỉa cũng dành thời
gian quan sát và phỏng vấn các giảng viên của chương trình MBSR tại vị trí đầu
tiên là Trung Tâm Chánh Niệm (Center for Mindfulness) thuộc trường Y Khoa, đại
học Massachusetts (khoảng chừng 35 km từ IMS). Thêm vào đó còn có 10 chương
trình MBSR khác tại Massachusetts
mà tác gỉa đã bố trí phỏng vấn với các giảng viên ở đây. Như vậy có tất cả 14
cuộc phỏng vấn đươc thực hiện.
Viện Nghiên Cứu Mùa
Hè về Tâm và Đời Sống MLSRI
Trong năm 2005 tác gỉa sắp đặt nghiên cứu sơ bộ về dân tộc
học tại MLSRI (Mind and Life Summer Research Institute). Một tuần lễ hội nghị
được tổ chức cho các học viên tiếp cận với những tu sĩ và khoa học gia quan tâm
về thiền. Mục đích của hội nghị này nhằm đề xuất sự nghiên cứu hợp tác giữa các
nhà thần kinh học, hành vi học, và những học gỉa khác. Tác gỉa được nhận tham
gia vào chương trình này như một nghiên cứu sinh với số tham dự viên được giới
hạn ở mức 90 người. Viện nghiên cứu này được thành lập đầu thập niên 1980 qua
trao đổi giữa đức Dạt Lai Lạt Ma và những nhà khoa học phương tây. Hội nghị đầu
tiên về Tâm và Đời Sống được tổ chức vào tháng 10, 1987 tại Dharamsala - Ấn Độ.
Hội Nghị “Khoa Học ở
Ngã Tư Đường và Thần Kinh Học” – 2005
(“Science at the Crossroads” and Neuroscience Conference –
2005)
Tác gỉa là một dự thính viên tại Washington D.C.
trong kỳ hội nghị này. Cuộc hội họp chuyên về điều tra nghiên cứu tâm, khoa học
và những phương diện lâm sàng của thiền. Cuộc hội thảo này được tổ chức vào các
ngày 8-10 tháng 11 năm 2005, là cuộc họp thứ 8 về loại đề tài này và cũng là
lần sau cùng trong loạt đối thoại giữa đức Dạt Lai Lạt Ma, các khoa học gia và
những tu sĩ Phật giáo về khoa học thực nghiệm phương tây và truyền thống tu
đạo. Cuộc hội nghị lần này nhằm khảo sát tỉ mỉ về tầm quan trọng của thiền đối
với tân y học và sinh-y học đã khơi dậy trong 30 năm qua và nghiên tầm những cơ
hội lâm sàng nồi bật của thiền. Tác gỉa ghi chú những tác động qua lại giữa các
khoa học gia và các vị tu sĩ và đã thực hiện 6 cuộc phỏng vấn. Thêm vào cuộc
hội thảo về Tâm và Đời Sống, tác gỉa cũng tham dự buổi nói chuyện của đức Dạt
La Lạt Ma tại Hội Thần Kinh Học ở Trung Tâm Hội Nghị Washington vào ngày Thứ bảy,
12 tháng 11. Không những buổi nói chuyện được tiếp nhận một cách nồng nhiệt mà
cả hàng ngàn người phải sắp hàng lâu hơn cả tiếng đồng hồ để có dịp dự thính
cũng như người ta đã phải tranh nhau đến trước thính đường để tìm chỗ ngồi gần
ngài Lạt Ma.
Đại Học Massachusetts: Hội Thảo
Hàng Năm về Giảm Thiểu Bức Xúc Dựa Vào Chánh Niệm MBSR (Mindfulness Based
Stress Reduction) – 2006
Gần đây nhất, tác gỉa đã tham dự khóa hội thảo cuối tuần
về MBSR thường niên tại Worcester, tiểu bang Massachusetts. Đây có lẽ
là kinh nghiệm phỏng vấn thành công nhất từ trước đến giờ. Tác gỉa thực hiện 14
cuộc phỏng vấn trọng yếu với các nhà nghiên cứu thiền, liên quan đến thực hành
chánh niệm cá nhân và chuyên môn của họ. Những câu hỏi khác cũng được đặt ra
như lý do tại sao họ quyết định nghiên cứu chánh niệm và họ kỳ vọng gì về kết
quả nghiên cứu của mình. Cuộc hội nghị được phân ra thành những buổi hội thảo
và những diễn từ chủ chốt. Tác gỉa bỏ qua những buổi hội thảo để dành thời giờ
cho các cuộc phỏng vấn, chú tâm tham dự các bài diễn từ chủ chốt, và sau đó
dành một ngày tham gia vào cuộc hội thảo tổng kết sau khi hôi nghị kết thúc.
Tóm Lược
Tóm lại,với những quan tâm đối với nghiên cứu thiền, sự
gặp gỡ giữa khoa học và tôn giáo xuyên qua những can dự của chánh niệm tiếp tục
giữ một vị thế đàm phán sôi nổi. Sự chèn ép giữa Phật giáo và khoa học là một
thách thức chủ thuyết tôn giáo và hội nhập nhau với rất ít sự chống đối. Có một
một nhóm phụ huynh theo đạo Chúa thuộc tiểu bang North Carolina gần đây đã phản
đối những khóa học giảm thiểu bức xúc MBSR ở trường học của con em họ, bởi vì
họ cho rằng thiền là tân chủ nghĩa kỳ thị tuổi tác (new ageism) và chủ nghĩa
này là một loại tôn giáo. Họ phản đối lối dạy này vì cho rằng nó phát xuất từ
Phật giáo và Ấn giáo (Hinduism) mà họ xem như một vi phạm đối với Bản Tu Chính
Thứ Nhất.
Ngược lại, đã có sẵn một sự chấp nhận rộng rãi trong công
chúng. Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu loạt giảng thuyết “Đối Thoại Giữa Thần Kinh
Học và Xã Hội” vào ngày 12 tháng 11 năm nay trong những buổi họp mặt của Hôi
Thần Kinh Học tại Washington D.C. với sự tham dự của hơn 7.500 khoa học gia.
Một vài nhà thần kinh học phản đối sự mập mờ của khoa học và tôn giáo, nhưng
phần lớn đã chấp nhận một cách tích cực.
Mặc dù những nghiên cứu của tác giả còn ở giai đoạn sơ
khởi, những dữ kiện đạt được cho thấy còn nhiều việc phải truy cứu đối với sự
khởi dậy của chánh niệm và những can dự căn cứ vào chánh niệm ở Mỹ. Quan điểm
chính trị lộ ra từ ranh gìới của khoa học và tôn giáo sẽ trở thành những đề tài
nghiên cứu hết sức phong phú trong tương lai. Những cuộc phỏng vấn của tác giả
cho thấy rằng những đối thoại giữa giới phật tử và các nhà nghiên cứu về
thân-tâm đã được thận trọng đàm phán trong 30 năm qua và bây giờ là lúc trình
bày trước công chúng. Tác gỉa sẽ tiếp tục truy cứu động hướng hấp dẫn này. Tâm
lý học và triết học Phật giáo, phương pháp thực hành, và những khám phá khoa
học là những đề tài rất thú vị đang gây cảm hứng cho nhiều người khắp nước Mỹ.
Tác gỉa sẽ khảo sát động hướng này đóng góp được gì cho những tranh luận hiện
tại về khoa học, tôn giáo, tình thương, và chủ nghĩa cá nhân.
Đề tài nghiên cứu này
của Kaelyn Stiles được thuyết trình trong kỳ họp thường niên
của American Socilogical Association tại New
York ngày 11 tháng 8- 2007
(Bản dịch của Minh
Phúc) E-mail: nguyenmphuc@yahoo.com