1/ - Thâu nhiếp vào Tăng:
Giới
luật là yếu tố cần thiết để một Tỳ-kheo làm mô phạm cho trời người,
bước đi trên con đường giải thoát được vững chãi. Giới luật không phải
là điều kiện gượng ép hay bó buộc mà hoàn toàn mang tính chất tự giác,
tự phát nguyện thọ trì.
Thọ giới Tỳ-kheo là chính thức gia nhập
Tăng số, là một thành viên ưu tú bước vào địa vị chúng trung tôn, một
trong ba ngôi báu. Giới luật nghiêm cẩn tạo một môi trường an ổn vững
vàng, bảo trì sự tồn tại của Tăng đoàn. Như thế gọi là nhiếp thủ ư Tăng
(thâu nhiếp vào ngôi Tăng bảo, giữ gìn cho được vững bền).
2/ - Khiến Tăng hoan hỷ:
Hương thơm của giới phẩm bay khắp mười
phương. Dù ngược chiều gió vẫn lan xa. Trong kiếp sống vô minh, giới
luật cần thiết như đi đêm cần đèn đuốc. Tăng già được tô đậm nét uy
nghiêm thuần nhã. Uy tín ngôi Tam-bảo được nâng lên. Tai nghe mắt thấy
một pháp khí, lòng người đã mừng rỡ bao nhiêu huống chi được sống chung
với các Thánh nhân, thật là một hạnh phúc hiếm có.
3/ - Khiến Tăng an vui:
Tục ngữ có câu : “Một con ngựa đau, cả
tàu không ăn cỏ”. Người xuất gia cắt ái từ thân, chung sống với các bạn
đồng lý tưởng. Lỡ một Tỳ-kheo bị phiền não chế ngự, ba nghiệp theo ma.
Phật bắt buộc cả đại chúng phải răn nhắc, khuyến tấn, dạy sám hối. Một
người không thanh tịnh, cả chúng không được bố tát. Nếu vi phạm tới mức
độ như thương tích nặng, chỉ cái cổ họng còn hơi thở, thì Tăng chúng
phải hợp sức chữa trị. Nếu bị chặt đứt đầu rồi, thì chẳng những mất đi
một phần-tử trong đoàn thể mà cả đoàn thể phải chung gánh chịu sự nhục
mạ chê bai của thế gian. Thiếu quy củ nề nếp, giáo đoàn sẽ bị xáo trộn,
trong nát rữa ngoài khinh rẻ. Nếu không chỉnh đốn kịp thời, sớm muộn
cũng tan rã. Cho nên giới luật quan hệ vô cùng đến sự an ổn của đại
chúng.
4/ - Chưa tin khiến khởi lòng tin:
Ngọn đuốc chánh pháp toàn do Tăng Ni
thắp sáng. Đây là nơi trông mong duy nhất của những chúng sanh không nơi
nương tựa. Đang bị chìm đắm trong sông mê biển khổ, vớ được con thuyền
giác ngộ này, hẳn đem cả thân mạng phó thác.
Đức Phật nhập diệt đã lâu. Hình ảnh toàn
trí toàn năng toàn thiện nay đã phai mờ. Tỳ-kheo đầy đủ oai nghi, phạm
hạnh thanh tịnh, có thể thay Phật tuyên dương giáo pháp. Hình tướng đoan
nghiêm của Tăng bảo phát khởi lòng tin cho chúng sanh như những người
chết đuối được thấy một lái thuyền khỏe mạnh đến cứu vớt. Giới luật
khiến chúng sanh tin Tăng bảo là hình ảnh sống động của đức Phật, đảm
đương trách nhiệm lèo lái con thuyền giải thoát. Những bài thuyết pháp
khó được hưởng ứng nếu chính người nói đã bị quần chúng miệt thị. Phải
có giải pháp kiện toàn Tăng sự mới có thể khiến người chưa tin khởi lòng
tin.
5/ - Đã tin khiến tăng trưởng:
Giới luật là bức chấn song vững chắc.
Hành giả do đây không tạo nghiệp sa ngã. Thân miệng ý thanh tịnh thì tâm
an định. Kinh thường thí dụ : Nước lặng thì ánh trăng hiện rõ. Tâm định
phát tuệ. Ba vô lậu học tuy mật thiết với nhau như đỉnh 3 chân nhưng
Phật vẫn cho chúng ta tập dần, bắt đầu từ giới luật. Tuệ giác của
Tỳ-kheo lấy khéo trì Thánh giới làm căn bản. Người đời gieo hạt giống
chánh tín vào ruộng phước Tăng bảo hẳn là đầy đủ màu mỡ để hạt giống nảy
mầm và phát triển. Lòng tin càng sâu dầy vững chắc nếu được thấy Tăng
Ni thanh tịnh hòa hợp, lời nói hành động đúng pháp. Họ sẽ không bị lung
lay vì những phỉ báng hủy nhục của các ngoại đạo tà kiến. Nghiệp báo xấu
xa của một vài cá nhân mục nát không thể khiến họ thay đổi. Từ tín căn
phát sanh tín lực, họ sẽ là những hộ pháp dũng mãnh.
6/ - Điều phục kẻ khó điều phục:
Giới luật là thước đo hành vi ngôn ngữ
có đúng với thể thức của một vị Tăng không ? Con người ương ngạnh, không
chịu nhận tội, không chịu sám hối, Tăng không điều phục được. Đức Phật
dạy đại chúng yết ma đuổi đi, không dung túng giặc ở trong nhà. Theo chế
độ Tăng già, những quyết nghị này sẽ được nơi nơi tôn trọng. Người vi
phạm không thể có chỗ dung thân. Những ai còn có chút tâm tu hành, chịu
sám hối, chịu sửa đổi, thì Tăng chúng phải khuyên can, tận tình dẫn dụ,
như pháp xử trị. Ngoan cố lắm mới đành bỏ đi. Như thế gọi là điều phục
người khó điều phục.
7/ - Người biết thẹn hổ được an vui:
Biết thẹn hổ là biết tự trọng. Tham sân
si là tánh của phàm phu. Sát đạo dâm vọng là nghiệp của thú vật. Người
biết thẹn hổ tự biết mình là Phật nên chẳng để những duyên hèn làm ô
lụy. Giới luật rất nghiêm chỉnh. Hơi chút vi phạm liền lo sợ như đang ôm
phao nổi đi biển mà biết rằng chiếc phao của mình đã bị châm kim. Phải
sám hối ngay mới an tâm. Những bậc này thấy ai sơ sót, dù chỉ chút oai
nghi, cũng vội nhắc nhở. Bởi vì con mắt trí tuệ biết phao lủng không thể
bền nên rất xót thương người lạc bước. Bao giờ đại chúng ai nấy đầy đủ
giới luật, người biết thẹn hổ mới an vui.
8/ - Đoạn hoặc lậu hiện tại:
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói : “Vọng tâm
là nguồn ác, vọng thân là rừng tội”. Tâm phàm phu đủ 8 vạn 4 ngàn phiền
não. Ba độc tham sân si kích thích thân miệng ý tạo nghiệp đọa lạc. Phật
đặt ra giới luật để câu thúc thân và miệng, ngăn chặn ác nhân, tránh ác
quả.
9/ - Đoạn hoặc lậu vị lai:
Không được hiện hành, các chủng tử mòn
dần. Văn tư tu tuệ phát triển. Như người làm vườn trồng cây thì cỏ dại
mất chỗ. Năng lực giới định tuệ vững chắc, hành giả bước lên đường giải
thoát. Như thế gọi là đoạn vị lai hữu lậu.
10/ - Khiến chánh pháp cửu trụ:
Đức Thế Tôn bắt đầu chế định giới luật
khi các pháp hữu lậu phát sanh trong Tăng đoàn. Các Tỳ-kheo dần dà bị
danh lợi lôi cuốn, sống xa rời tinh thần giải thoát. Giới luật là hàng
rào ngăn chặn những hư đốn, bảo vệ sự thanh tịnh hòa hợp khiến ngôi trụ
trì Tam-bảo không bị hư hủy.
Đức Phật trao vận mạng Phật Pháp cho
Tăng Ni, di chúc phải vâng thờ giới luật làm Thầy. Chỉ có giới luật mới
hàng phục được ma quân trong ngũ trược ác thế. Những ai có hoài bão nối
thịnh dòng Thánh, đền trả 4 ân cứu giúp 3 cõi, không thể không nghiêm
trì giới luật.
Nguyện cầu Tam-bảo hưng long, pháp luân thường chuyển, mười phương chúng sanh đồng thành Phật đạo.