Không lý từ văn hệ A hàm
đến Bát Nhã:
Kinh Kim Cương thuộc văn hệ Bát
Nhã, văn hệ Bát Nhã nầy theo Ngài Thế Thân (Vasubandhu) một Nhà Phật học hết
sức uyên áo của Phật giáo Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ tư Tây lịch cho rằng, Pháp
tạng nầy đã được Đức Phật giảng dạy đầu tiên tại thành Vương Xá, bắt đầu từ năm
thứ năm, kể từ khi Đức Thế Tôn thành đạo và kinh Kim Cang Bát Nhã đã được Đức
Phật giảng dạy sau cùng trong văn hệ Bát Nhã, và cũng theo Ngài Thế Thân các
kinh thuộc văn hệ Bát Nhã trước Kim Cang, Đức Phật dạy cách loại trừ “tướng”,
nhưng chưa triệt để, đến thời Đức Phật dạy Bát Nhã sau cùng, là nhắm tới dùng
Bát Nhã để chặt đứt mọi sự mắc kẹt của tâm vào các tướng một cách triệt để, do
đó mà gọi văn hệ Bát Nhã sau cùng là Kim Cang (Kim Cang Tiên Luận 1, bản Hán
dịch của Ngài Bồ Đề Lưu Chi, tr 798a, Đại Chính Tân Tu 25).
Và theo sự phán giáo của Ngài
Thiên Thai Trí Giả (538 - 597) là một Nhà Phật học nổi tiếng và là một vị Tổ Sư
của Thiên Thai Tông ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6 Tây lịch cho rằng, Đức Phật
bắt đầu giảng dạy văn hệ Bát Nhã cho chúng đệ tử từ năm thứ hai mươi kể từ khi
Ngài thành đạo.
Nội dung của bài kệ phán giáo
ấy như sau:
Hoa
Nghiêm tối sơ tam thất nhật
A
hàm thập nhị, Phương đẳng bát
Nhị
thập nhị niên Bát Nhã đàm
Pháp
hoa, Niết Bàn cộng bát niên.
Nghĩa là:
Hai mươi mốt ngày Đức Phật nói kinh Hoa
Nghiêm;
Mười hai năm Ngài nói kinh A Hàm; tám năm
nói kinh Phương Đẳng;
Hai mươi hai năm nói kinh Bát Nhã; và tám năm nói kinh Pháp Hoa và Niết
Bàn.
Như vậy, theo sự phán giáo nầy,
thì kinh Bát Nhã đã được Đức Phật bắt đầu giảng thuyết từ năm thứ hai mươi kể
từ khi Ngài thành đạo.
Tuy nhiên, đây chỉ là sự phán
giáo có ý nghĩa hết sức tương đối, vì sao ? Vì nếu chúng ta đọc kỹ các kinh
thuộc văn hệ A Hàm hay Nikàya như Tạp A Hàm hay Tương ưng bộ kinh … chúng ta
thấy rằng, ở trong các kinh nầy, Đức Phật cũng đã trình bày giáo lý Duyên Khởi,
Không, Vô thường, Vô ngã và Niết Bàn một cách tóm tắt và cô đọng, và những giáo
lý nầy đã được Đức Phật trình bày một cách sâu rộng ở trong Văn hệ Bát Nhã. Và
ở văn hệ nầy đã khai triển Lý nghĩa của Không một cách triệt để và có hệ thống.
Do đó, suốt bốn mươi chín năm
du hóa, tùy theo căn cơ và khả năng tu chứng của hàng đệ tử nghe pháp mà Đức Phật
thuyết giáo với giáo lý hoặc sâu, hoặc cạn, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc cao, hoặc
thấp, hoặc cô đọng, hoặc khai triển, hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc không thể nghĩ
bàn…. chứ không phải đi theo một tuần tự rạch ròi, mang tính khoa bản như sự
phán giáo của Ngài Thiên Thai Trí Giả.
Bởi vậy, ta không ngạc nhiên,
khi nghiên cứu kinh A hàm và Nikàya lại hàm chứa nghĩa Lý Không của văn hệ Bát
Nhã. Chẳng hạn đọc Pháp Ấn kinh, bản dịch của Ngài Thi Hộ, ở trong Tạp A Hàm,
Đại Chính Tân Tu 02, trang 500, ta thấy Đức Phật đã trình bày giáo lý về Không
cho các Tỷ khưu một cách thú vị như sau:
Ngài nói: “Hỡi các Tỷ khưu!
Tánh Không không có sở hữu, không có vọng tưởng, không có khởi điểm, không có
kết thúc, siêu việt mọi quan hệ nhận thức.
Vì sao ? Vì Tánh Không, không
lệ thuộc không gian, không lệ thuộc sắc tướng, vượt ra ngoài tưởng uẩn, nó vốn
không lệ thuộc vào điểm khởi sinh, vượt ra ngoài sự hiểu biết đối chiếu và siêu
việt mọi vướng mắc. Vì do nó siêu việt mọi vướng mắc, nên hết thảy pháp nó đều
dung nhiếp…”
Và ở trong Tiểu Không kinh
thuộc kinh tạng Pàli, Trung bộ 3, bản dịch của Ngài Thích Minh Châu, trang 252
- 259 Đại Học Vạn Hạnh 1975, Đức Phật đã nói về sự an trú đối với Tánh Không
như sau:
“Này Ananda, sau khi chứng đạt,
ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng Không tánh. Như vậy, nầy Ananda, các ông cần
phải học tập.”
Và đọc Tương ưng bộ kinh 2, ta
thấy gần hết hai phần nội dung của kinh là trình bày giáo lý thuộc về Duyên
Khởi và Vô Ngã; và đọc Tương ưng bộ kinh 3, ta thấy hết nửa phần nội dung của
kinh là trình bày giáo lý thuộc về Ngũ uẩn và Vô ngã. Như vậy, những giáo lý
nầy đã được các kinh điển thuộc văn hệ Bát Nhã khai triển một cách triệt để về
mặt chiều sâu cũng như chiều rộng đối với ý nghĩa Không của nó, mà điển hình là
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh 5, bản dịch của Ngài Huyền Tráng, trang 23, Đại
Chính Tân Tu 5, đã đề cập đến hai mươi loại ý nghĩa của Không, mà trong đó Nhất
Thế Pháp Không là tánh không của hết thảy pháp; Bất Khả Đắc Không là tánh không
của cái không thể ý niệm, không thể nắm bắt; Vô Tánh Không là tánh không của
cái vô thể; Tự Tánh Không là tánh không của tự tính; Vô Tánh Tự Tánh Không là
tánh không của vô tánh và tự tánh, đây là những loại Không mà văn hệ Bát Nhã đã
khai triển một cách sâu rộng và triệt để từ nơi nghĩa Không của giáo lý Duyên
Khởi, Vô thường, Vô ngã đã được diễn tả ở trong các văn hệ thuộc kinh tạng A
Hàm và Nikàya.
Giáo lý được trình bày ở trong
văn hệ A Hàm và Nikàya rất chú ý đến Ngã Không; nhưng giáo lý được trình bày ở
trong văn hệ Bát Nhã không những chỉ trình bày Ngã Không mà còn trình bày đến
Tướng-Không của Ngã và Pháp một cách triệt để nữa.
Ngã Không hay Ngã Thể tức Không
hay còn gọi là Nhân không, nghĩa là ngũ uẩn tạo nên thân tâm con người hay
chúng sanh, trong đó chúng hoàn toàn không có Ngã thể, nên gọi là ngã thể tức
Không.
Pháp Không hay Pháp Thể tức
Không, nghĩa là trong năm uẩn không có ngã thể đã đành, mà ngay trong mỗi uẩn
cũng không có ngã thể. Cực vi hay vi trần là đơn vị cực tiểu của sắc uẩn, chính
nó cũng tương tác duyên khởi, nên chúng hoàn toàn không có pháp thể tồn tại cá
biệt; và ý niệm là đơn vị cực tiểu của tâm ý, nó cũng tương tác duyên khởi, nên
tâm cũng không có pháp thể tồn tại cá biệt, bởi vậy mà gọi là pháp thể tức
Không.
Không đã được các kinh điển và
các Nhà Phật học Đại Thừa khai triển sâu và rộng nhiều loại, tuy nhiên ở đây ta
có thể tóm thâu gồm bốn loại như sau:
Đương thể tức không:
Tất cả vạn hữu đang hiện tiền,
chúng không rời Không, nghĩa là ngay trong sự hiện hữu ấy, tự tính của nó là
Không.
Ngài An Tuệ ở trong Đại Thừa
Trung Quán Thích Luận 4, trang 144, Đại Chính Tân Tu 30, nói:
Nhất thế bất ly không
Nhất
thế đắc thành tựu.
Nghĩa là: Vạn
hữu không rời không,
Hết thảy đều thành tựu.
Duyên khởi tức không:
Tất cả sự hiện hữu, không có sự
hiện hữu nào là đơn điệu, chúng không thể tự sinh, cũng không phải từ nơi cái
khác mà sinh, mà chúng sinh khởi là do quan hệ nhân duyên.
Cái gì có quan hệ nhân duyên mà
sinh khởi, thì tự tính của cái đó là Không.
Hạt mít không thể tự sinh cây
mít, nếu không có mặt trời, trái đất, nước, không khí… Và mặt trời, trái đất,
nước, không khí… cũng không thể sinh ra cây mít, nếu không có hạt mít.
Vậy, hạt mít mà sinh ra cây mít
là do quan hệ nhân duyên. Cái gì do quan hệ nhân duyên mà sinh khởi, thì tự
tính của cái đó là Không.
Nên, ở trong Trung Quán Luận 4,
trang 33, Đại Chính Tân Tu 30, Ngài Long Thọ nói:
Vị tằng hữu nhất pháp
Bất tùng nhân duyên sinh.
Thị cố nhất thế pháp
Vô bất thị Không giả.
Nghĩa là: Chưa
từng có pháp nào,
Không từ nhân duyên sinh.
Do đó, hết thảy pháp,
Tự tính đều là Không.
Đương sinh vô sinh tức không:
Vạn hữu đang sinh khởi trước
mắt chúng ta là do quan hệ nhân duyên, nhưng tự tính nơi vạn pháp thì không
sinh, không diệt.
Do đó, Tính Không là tính vô
sinh ngay ở nơi các pháp duyên khởi đang sinh diệt ấy.
Nên, ở trong Trung Quán Luận 1,
trang 2, Đại Chính Tân Tu 30, Ngài Long Thọ nói:
Chư pháp bất tự sinh,
Diệc bất tùng tha sinh;
Bất cộng bất vô nhân,
Thị cố tri vô sinh.
Nghĩa Vạn hữu không tự sinh,
Không từ cái khác sinh;
Không phải đồng chung sinh,
Không phải vô nhân sinh,
Nên biết rằng, vô sinh.
Thực tướng tức không:
Không tướng là thực tướng của
vạn pháp, thực tướng ấy không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, cũng không thể dùng ý
niệm để ý niệm.
Cái có thể diễn tả được, có thể
ý niệm được, đó là cái sinh và cái diệt; còn cái thực tướng vô sinh, vô diệt
thì không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý niệm. Cái không thể diễn tả
bằng ngôn ngữ hay bằng ý niệm đó, chính là thực tướng vô tướng. Ấy là thực
tướng Bát Nhã mà Thiền Tông gọi là bản địa phong quang và ở Trung Quán Luận 3,
trang 24, Đại Chính Tân Tu 30, gọi là Thực tướng của các pháp qua bài kệ dưới
đây:
Chư pháp thực tướng giả
Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô
sanh diệc vô diệt
Tịch
diệt như Niết bàn.
Nghĩa là: Thực tướng của các pháp
Dứt
tâm hành, ngôn ngữ;
Không
sanh cũng không diệt,
Vắng
lặng như Niết bàn.
Giáo lý chủ đạo của kinh Kim
cang:
Đọc, tụng, hành trì và cảm nhận
kinh Kim Cang Bát Nhã sâu rộng như thế nào là tùy theo căn khí chứng nghiệm của
từng người, tuy nhiên ở đây theo chúng tôi, giáo lý của Kinh Kim Cang Bát Nhã
có những điểm chủ yếu như sau:
Phát tâm, an trú tâm và hàng
phục tâm:
Đọc phần mở đầu của kinh kim
Cang theo Phạn bản, ta thấy thính chúng nghe pháp không còn đơn thuần là các
hàng Thánh giả Thanh văn như các kinh thuộc văn hệ A Hàm và Nikàya mà ta còn
thấy có sự xuất hiện của các hàng Thánh giả bồ tát nữa; điều nầy chứng tỏ rằng,
tư tưởng của kinh Kim cang Bát Nhã bao gồm cả Thanh văn thừa và bồ tát thừa.
Thanh văn thừa là giáo lý hướng dẫn cho những vị thánh giả nỗ lực tu tập để
đoạn trừ ngã chấp, ngộ nhập ngã- không và hiện chứng Niết bàn; Bồ tát thừa là
giáo lý không những chỉ hướng dẫn cho các thánh giả nỗ lực tu tập để đoạn trừ
ngã chấp mà còn nỗ lực đoạn trừ pháp chấp, hướng đến đạo quả vô thượng bồ đề và
chứng nhập cảnh giới Vô trú xứ Niết bàn.
Sự tham dự của các hàng bồ tát
ở trong Chúng hội của Phật nói kinh Kim cang Bát Nhã, rất tiếc là các bản Hán
dịch đều không có đề cập.
Kinh kim cang có sáu bản Hán
dịch, bản Hán dịch sớm nhất là bản của Ngài Cưu Ma La Thập vào thế kỷ thứ năm,
bản dịch của Ngài Bồ Đề Lưu Chi vào đầu thế kỷ thứ sáu, bản dịch của Ngài Chân
Đế vào giữa thế kỷ thứ sáu, bản dịch của Ngài Cấp Đa vào cuối thế kỷ thứ sáu,
bản dịch của Ngài Huyền Tráng vào giữa thế kỷ thứ bảy và bản dịch của Ngài
Nghĩa Tịnh vào đầu thế kỷ thứ tám. Tất cả các bản Hán dịch nầy đều đã không có
đề cập đến sự tham dự của các hàng bồ tát ở trong Chúng hội Phật nói Kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba La Mật. Tuy nhiên, Kinh nầy ở trong bản dịch tiếng Anh của Tiến
Sĩ Edward Conze, bản Ấn hành năm 1956 và năm 1975, ngoài Chúng hội Thanh văn
còn có cả Chúng hội bồ tát ở trong Đại chúng nghe Đức Phật giảng dạy Kinh Kim
Cương Bát Nhã nầy.
Sở dĩ, Đức Phật nói Kinh Kim
Cang Bát Nhã Ba la Mật là do sự thưa thỉnh của Tôn giả Tu Bồ Đề với ba nội dung
chính như sau: Thứ nhất là phát bồ đề tâm, tức là phát tâm tu tập để thành tựu
đạo quả vô thượng bồ đề; thứ hai là làm thế nào để an trú tâm ấy; và thứ ba là
làm thế nào để hàng phục vọng tâm.
Đây là ba vấn đề chủ yếu của
kinh Kim Cang bát Nhã Ba La mật mà bất cứ ai phát tâm tu tập theo tinh thần
Phật giáo Đại thừa không thể không tham học để minh triệt nghĩa lý, nhằm hành
trì để đạt tới cứu cánh của sự tu học.
Không vướng mắc bởi bất cứ đối
tượng nào :
Giáo lý Đức Phật dạy không
vướng mắc bởi bất cứ đối tượng nào, đã được ghi lại ở trong Thích trung thiền
thất tôn kinh, Trung A Hàm, bản Hán dịch của Ngài Cù Đàm Tăng Già Đề Bà, trang
698, Đại Chính Tân Tu 1, và ở trong Kinh Lomasakangiyabhaddekaratta thuộc
Majjhima Nikàya văn hệ Nam truyền, chính là không vướng mắc đối với năm uẩn thuộc
về quá khứ, thuộc về hiện tại hay thuộc về tương lai.
Không vướng mắc bởi bất cứ đối
tượng nào, Kinh Kim Cang Bát nhã Ba La Mật gọi là “Ưng vô sở trú “ (Na kacit
pratisitihitena), nghĩa là phát khởi bồ đề tâm tu tập không để bị vướng mắc bởi
các vọng tưởng, bởi vì còn tưởng thì còn vướng mắc. Chủ yếu của kinh nầy là phủ
nhận triệt để mọi sự hiện hữu của ý tưởng, mà nhất là ý tưởng về Ngã
(Àtmasamijnõà), về con người (Pudgalasamijnõàø), về chúng sanh (Sattvasamijnõà
), và về thọ mạng (Jìvasamijnõà ), vì còn có ý tưởng về ngã là còn có thiên
kiến, còn có giận hờn, còn có sợ hãi, còn có bất minh, còn có kỳ thị và phân
biệt đối xử đối với những cái phi ngã và đối với những cái không liên hệ ngã;
vì còn có ý tưởng về con người thì còn có thiên kiến, còn có giận hờn, còn có
sợ hãi, còn có bất minh, còn có kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những cái
không phải là con người và kỳ thị phân biệt đối xử đối với những loài không
phải là con người; vì còn có ý tưởng về chúng sanh là còn có thiên kiến, còn có
giận hờn, còn có sợ hãi, còn có bất minh, còn có kỳ thị và phân biệt đối xử đối
với những cái không phải là chúng sanh và đối với những loài không phải là
chúng sanh; vì còn ý tưởng về thọ mạng là còn có thiên kiến, còn có giận hờn,
còn có sợ hãi, còn có bất minh, còn có kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những
cái không phải là thọ mạng. Vì phát tâm và trú tâm mà còn có thiên kiến hay ái
kiến thì hành xử không phù hợp với Trung đạo; vì phát tâm và trú tâm mà còn có
giận hờn thì sự hành xử không phù hợp với Từ bi; vì phát tâm và trú tâm mà còn
có sự sợ hãi thì hành xử không phù hợp với Vô úy; vì phát tâm và trú tâm mà còn
có bất minh, thì hành xử không phù hợp với trí tuệ; vì tâm mà còn kỳ thị và
phân biệt đối xử thì mọi hành xử không phù hợp với thể tính như như bình đẳng.
Và vì do như vậy mà Kinh Kim Cang Bát Nhã không những chỉ phủ nhận triệt để
những ý tưởng về ngã, về con người, về chúng sanh và về thọ mạng, mà cũng còn
phủ nhận luôn cả những ý niệm về pháp và ý niệm về không phải pháp, nghĩa là
tất cả ý niệm đều bị kinh nầy phủ nhận một cách triệt để, và không những vậy mà
kinh nầy còn phủ nhận một cách triệt để những ý niệm về giáo, về lý, về hạnh và
về quả. Hay nói một cách khác, tuệ giác của Kim Cang Bát Nhã có khả năng chặt
đứt phăng những hệ lụy của hành giả đối với giáo pháp, lý pháp, hạnh pháp và
quả pháp, khiến cho hành giả bước đi những bước vững chãi và thong dong không
bị vướng mắc bởi bất cứ cái gì trên lộ trình tiến tới giác ngộ.
Pháp và phi pháp:
Pháp được đề cập ở Kinh Kim
Cang Bát Nhã là pháp liên hệ đến pháp chứng và pháp giáo của Đức Thế Tôn.
Pháp chứng của Đức Thế Tôn là
Niết bàn, là thực tướng vô tướng. Pháp nầy Kinh Kim Cang Bát Nhã, bản Hán dịch
của Ngài Cưu Ma La Thập gọi là: “Như lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất
khả thuyết, phi pháp phi phi pháp. Sở dĩ giả hà, nhất thế hiền thánh, giai dĩ
vô vi pháp, nhi hữu sai biệt (Đại Chính Tân Tu 8, tr 749b)”. Nghĩa là: Pháp
được nói bởi Như lai đều không thể nắm bắt, không thể nói năng, không phải là
pháp, không phải là phi pháp. Tại vì sao? Vì hết thảy các bậc Hiền Thánh đều từ
nơi pháp vô vi mà biện biệt.
Và pháp nầy ở trong kinh Kim
Cang Bát Nhã, Phạn bản như sau:” Yo’sàu tathàgatena dharmo’bhisamibudho desùito
và, agràhyahi so’nabhilapyahi/ na sa dharmo nàdharmahi/ Tat kasya hetohi? Asamskritaprabhàvità
hyàrypudgalàhi/.” Nghĩa là: Pháp giác ngộ ấy được trình bày với Như Lai, pháp
ấy không thể nắm bắt, không thể nói năng, pháp ấy không phải là pháp, không
phải là phi pháp. Tại vì sao? Vì các bậc Hiền Thánh từ pháp vô vi mà thông
hiểu.
Pháp vô vi mà kinh Kim Cang Bát
Nhã đang đề cập ở đây là Chân như vô vi, là pháp tuyệt đối, là pháp không còn
có sự đối đãi, nghĩa là pháp ấy tự nó là nó, nó không còn sinh diệt, nó là thực
tướng vô tướng.
Vô vi tiếng Phạn là Asamkrita,
nghĩa là pháp hiện hữu không do quan hệ nhân duyên. Và từ ngữ prabhàvità ở
trong đoạn kinh Kim Cang Bát Nhã của Phạn văn nầy, Ngài Cưu Ma La Thập dịch là
“sai biệt”(Đại Chính Tân Tu 8, tr 749); Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch là “đắc
danh”(Đại Chính Tân Tu 8, tr 753); Ngài Lưu Chi dịch là “hiển hiện’”(Đại Chính
Tân Tu 8, tr 758); Ngài Chân Đế dịch là “hiển hiện”(Đại Chính Tân Tu 8, tr
762); Ngài Cấp Đa dịch là “hiển minh” (Đại Chính Tân Tu 8, tr 767); Ngài Huyền
Tráng dịch là “sở hiển” (Đại Chính Tân Tu 7, tr 981). Edward Conze trong bản
Anh, dịch là “exalt”(đề cao, làm cho cao hơn).
Vậy, Prabhàvita, theo các bản
Hán dịch có rất nhiều nghĩa, nhưng ở đây tôi dịch là thông hiểu. Nghĩa là các
bậc Hiền Thánh từ nơi pháp vô vi mà thông hiểu thế nào là pháp và thế nào là
phi pháp và các địa vị giải thoát, giác ngộ cũng từ đó mà được biểu hiện sai
khác.
Pháp giáo là pháp do Đức Phật
dạy, như Giới Định Tuệ, như Ba mươi bảy phẩm trợ đạo và như Lục độ vạn hạnh …
đây là những pháp phương tiện, giúp hành giả thực hiện để đi đến đời sống giải
thoát và giác ngộ mà pháp giáo không phải là giải thoát, giác ngộ. Chất liệu
giải thoát giác ngộ là Như Lai, là Ứng cúng, là Chánh biến tri, là Minh hành
túc, là Thiện thệ, là Thế gian giải…,những chất liệu nầy do sự thực hành pháp
giáo ấy của Thế Tôn mà thành tựu.
Thực hành các pháp giáo nầy,
các kinh điển thuộc văn hệ A Hàm và Nikàya cũng như các kinh điển thuộc văn hệ
Đại Thừa cũng hết sức đề cao, nhưng ở kinh Kim Cang Bát Nhã lại rất đặc biệt là
nhấn mạnh đến sự đình chỉ mọi vọng tưởng về một bản ngã cố hữu nơi năm uẩn và
mỗi uẩn, về một bản ngã cố hữu nơi con người, về một bản ngã cố hữu nơi chúng
sinh và về một bản ngã cố hữu nơi thọ mạng, trước và trong khi đang thực hành
các pháp giáo, thì mới đi đúng chánh đạo, thẳng đến địa vị Giải Thoát và Toàn
Giác mà không bị rơi vào tà kiến, tà đạo hay không bị rơi vào các pháp hữu vi
đối đãi.
Bởi vậy, kinh nầy Hán bản nói:
“Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, tu nhất thiết thiện pháp tắc
đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Đại Chính Tân Tu 8, tr 751c)”. Chúng tương
đương với Phạn bản như sau: “Niràtmatena nihsattvatvena nirjìvatvena
nisipudgalatvena samàsà-anuttaràsamyaksamibodhihi sarvaihi kusùalair dharmàir
abhisamibudhyate”. Nghĩa là: Thực hành tất cả thiện pháp với tâm không vướng
mắc ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả, thì chứng đắc quả vị Giác Ngộ Hoàn Toàn.
Giác ngộ hoàn toàn chính là
giác ngộ “Thực tướng vô tướng; thực tánh vô tánh”, đây là pháp chứng của chư
Phật mười phương và ba đời; còn Giới Định Tuệ, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Lục ba
la mật…, là thuộc về pháp giáo. Đối với pháp giáo, kinh Viên Giác nói: “Nhất
thiết Tu Đa La như tiêu nguyệt chỉ”, nghĩa là: Tất cả Kinh điển đều như ngón
tay chỉ mặt trăng. Và Kinh Ví dụ người bắt rắn ở Trung A Hàm, cũng như ở Trung
bộ kinh đều nói rằng: “Pháp Như Lai giảng dạy, ví như chiếc bè đưa người sang
sông, khi sang sông rồi thì không nên mắc kẹt ở nơi chiếc bè, mà hãy buông bỏ
chiếc bè để bước lên bờ”. Và đừng mắc kẹt ở nơi pháp giáo, ở kinh Kim Cang Bát
Nhã nầy lại nhấn mạnh một cách thú vị như sau: “Như Lai thường thuyết, nhữ đẳng
tỷ khưu, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống
phi pháp (Đại Chính Tân Tu 8, tr 749b)”. Nghĩa là: Như Lai thường nói, hỡi các
thầy Tỷ Khưu! Hãy biết lời thuyết pháp của tôi, ví như chiếc bè, pháp mà còn
phải buông bỏ, huống gì là không phải pháp.
Pháp mà các thầy tỷ khưu cần
phải hết lòng thực tập là pháp giáo hay pháp thuyết của Đức Thế Tôn, nhưng pháp
ấy cần phải buông bỏ khi vô lậu thiện pháp phát sinh và viên mãn trong đời sống
của hành giả. Hay nói theo tinh thần của kinh Kim Cang Bát Nhã, nghĩa là khi
giác ngộ được “thực tướng là vô tướng”, thì hãy buông bỏ mọi ý niệm về tướng;
và khi giác ngộ được “thực tánh là vô tánh” thì hãy buông bỏ mọi ý niệm về
tánh, không những buông bỏ ý niệm về tướng mà còn phải buông bỏ ý niệm về vô
tướng; không những buông bỏ ý niệm về tánh mà còn phải buông bỏ ý niệm về vô
tánh mới thức sự có khả năng chứng nhập “Thực tướng Bát Nhã” hay chứng nhập
cảnh giới “Ngã Pháp Nhị Không”.
Những ý tưởng sai lầm về một
bản ngã cố hữu nơi năm uẩn, về một bản ngã cố hữu nơi con người, về một bản ngã
cố hữu nơi chúng sanh và về một bản ngã cố hữu nơi thọ mạng; những ý tưởng sai
lầm về pháp tướng và vô pháp tướng, về pháp tánh và vô pháp tánh, không còn
hiện khởi ở nơi các quan năng nhận thức hay vận hành trong chiều sâu tâm thức
của hành giả, thì khi ấy pháp giáo của Đức Thế Tôn không cần phải nêu lên không
cần phải tuyên thuyết và cũng không cần phải áp dụng. Pháp giáo của Đức Thế
Tôn, ví như lương dược trị liệu cơn bệnh sinh tử hiểm nghèo, cơn bệnh chấp ngã
và pháp cho hết thảy chúng sanh, khi chúng sanh đã hết sanh tử, đã hết chấp thủ
những ý tưởng sai lầm về ngã và pháp, thì thuốc ấy, dù là thần dược đến cách
mấy cũng không còn có chỗ dùng. Lương dược mà còn như vậy, huống là phi lương
dược hay là độc dược.
Phi lương dược hay là độc dược
ở đây, chính là tà giáo, tà thuyết, tà pháp hay là phi pháp. Và phi pháp là ác
pháp mà cũng chính là hữu vi pháp. Ác pháp là pháp dẫn đến quả báo khổ đau
trong lục đạo chúng sanh. Hữu vi pháp là pháp do có sự tương quan mà sinh khởi,
pháp ấy là hư huyễn, không chơn thực, nếu tu tập mà bị mắc kẹt vào pháp nầy,
thì bị nó đánh lừa và bị trôi lăn ở trong sanh tử.
Bởi vậy, kinh Kim Cang Bát Nhã
đã có bài kệ giúp ta quán chiếu để thấy rõ bản chất của các pháp hữu vi như
sau:
“Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển,
Ưng tác như thị quán.”
(Bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập, Đại Chính Tân Tu 8, 752).
Nghĩa là: Hết
thảy pháp hữu vi
Như chiêm bao, huyễn thuật,
Như bọt nước, ảo ảnh,
Như suơng mai, điện chớp,
Hãy quán chiếu như vậy.
Bài kệ nầy trong Phạn bản như
sau:
Tàrakà
timirami dìpo màyàvasyàya budbudam/
Svapnami
ca vidyud abhram ca evami drasitiavya samiskritam //
Nghĩa là: Hãy
nhìn pháp hữu vi như vậy:
Như tinh tú, mắt bệnh
Như ngọn đèn, huyễn thuật,
Như bọt nước, chiêm bao,
Như sương mai, điện chớp.
Trong bài kệ quán chiếu về tính
chất vô thường, sinh diệt nhanh chóng, bất thực, thoạt có, thoạt không của các
pháp hữu vi nầy, kinh Kim Cang Bát nhã, bản Hán dịch của Ngài Cưu Ma La Thập
chỉ có sáu, gồm: Chiêm bao, huyễn thuật, bọt nước, ảo ảnh, sương mai và điện
chớp. Các bản Hán dịch khác gồm có chín, như tinh tú, mắt bệnh, ngọn đèn, huyễn
thuật, sương mai, bọt nước, chiêm bao, điện chớp, vầng mây. Tuy nhiên, bản Hán
dịch của Ngài Lưu Chi và Ngài Chân Đế lại thay thế “tinh tú” bằng “ bóng đèn”.
Và bản Anh dịch của Edward Conze cũng có đủ cả chín ví dụ như một số bản Hán
vậy. Tuy nhiên, ở Phạn bản, chỉ có đề cập đến tám ví dụ để chỉ cho tám tính
chất của pháp hữu vi, không có ví dụ “vầng mây”.
Ý nghĩa chín ví dụ về pháp hữu
vi, tức là các pháp thuộc về duyên khởi đã được Ngài Vô Trước tạo tụng và Ngài
Thế Thân ở trong Năng đoạn Kim cang Bát Nhã Ba la mật đa kinh luận thích, bản
Hán dịch của Ngài Nghĩa Tịnh, Đại Chính Tân Tu 25, tr 884, giải thích như sau:
Kiến
tướng cập dự thức,
Cư
xứ thân thọ dụng,
Quá
khứ tịnh hiện tồn
Vị
chí tường quán sát.
Nghĩa là: Hãy
quán chiếu rõ ràng:
Cái
thấy, tướng và thức,
Cư
xứ, thân, thọ dụng,
Quá
khứ cùng hiện tại,
Cho
tới cả tương lai.
Tinh tú là ví dụ cho cái thấy.
Ánh sáng của các tinh tú, ví dụ cho cái thấy (chánh trí) thuộc tâm pháp. Vì
chúng sau khi xuất hiện, lại ẩn diệt.
Mắt bệnh là ví dụ cho tướng của
đối tượng. Vì tướng ấy là hiện khởi bất thực.
Ngọn đèn là ví dụ cho thức uẩn.
Chúng do dẫn lực dơ bẩn của ái nghiệp và dựa vào ái kiến mà sinh khởi.
Huyễn thuật là ví dụ cho cư xứ.
Tức là chỉ cho khí thế gian, tính chất của nó là bất thực.
Sương mai là ví dụ cho thân
thể. Vì chúng chỉ tồn tại trong thoáng chốc.
Bọt nước ví dụ cho thọ dụng.
Tính chất của thọ dụng là bất thực, vì tính ấy do có sự hòa hợp giữa căn, trần,
thức mà sinh khởi.
Chiêm bao là ví dụ cho thời
gian quá khứ. Vì tính của chúng, chỉ là những ý niệm tích tập, tạo lập như
chiêm bao.
Điện chớp là ví dụ cho thời
gian hiện tại. Vì tính của chúng sinh diệt một cách nhanh chóng.
Vầng mây là ví dụ cho thời gian
vị lai. Ví như A lại da thức ở vào giai đoạn huân nhiếp, cất giữ chủng tử.
Lại nữa, chín ví dụ đối với
pháp hữu vi ở trong kinh Kim cang Bát nhã, được Ngài Công Đức Thi giải thích ở
trong Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh, Phá thủ trước bất hoại giả danh luận,
bản Hán dịch của Địa Bà Ma La, Đại Chính Tân Tu 25, Tr 986 như sau:
Quán sát tự tại như tinh tú:
Thí như hiện tượng của các tinh tú ở trong không gian vận hành theo phương
hướng, màu sắc và ánh sáng của nó tồn tại lâu dài có tính cách giả lập, nên rốt
cuộc rồi cũng bị tận diệt. Cũng vậy, thọ dụng các phước báo như tài vật giàu
có, địa vị sang trọng ở trong cõi người, cõi trời dù có chủ quyền dài lâu đến
mấy, cuối cùng cũng đi về với cái trống không.
Quán sát cảnh vật như mắt bệnh:
Thí như mắt bị bệnh, trong không gian thanh tịnh, thấy có hai mặt trăng, hoa
đốm bay, hay như bánh xe quay tua tủa. Sự hiểu biết bệnh hoạn do vô minh cũng
như vậy, đối với lý chân thật vốn không có xứ vật, mà thấy có các pháp đủ loại
như nội pháp, ngoại pháp, thế gian pháp, xuất thế gian pháp.
Quán sát chuyển động như ngọn
đèn: Thí như ánh sáng ngọn đèn, ngay nơi xứ điểm sanh là xứ điểm diệt, chứ
không phải chuyển diệt sang xứ điểm khác. Tuy nhiên, nhân ở ngọn lửa nầy mà
ngọn lửa khác sinh khởi, từng niệm tương tục, in như có sự chuyển động. Chúng
sinh cũng vậy, các uẩn ngay đó sinh, ngay đó diệt chứ không phải chuyển dịch
qua một xứ điểm khác. Tuy nhiên, nhân ở các uẩn trước mà các uẩn sau sinh khởi,
vì chúng tương tục mà trạng thái in như có sự chuyển động, nên nói rằng, các
phàm phu có sinh qua số kiếp khác.
Quán sát thể tánh như huyễn: Ví
như do huyễn lực mà biến ra dung mạo của nữ nhân, thể tánh của nó là phi hữu,
nhưng không nhận biết, chấp cho là thực. Tất cả pháp hữu vi cũng đều như vậy,
từ nơi các duyên hư vọng sinh khởi, vốn không có thực thể, nhưng do không hiểu
được sự thực ấy, nên phát sinh kiến chấp hữu thể.
Quán sát sự suy thạnh như
sương: Thí như sương ban mai gặp mặt trời liền biến tan. Dung sắc của tuổi trẻ
cũng như vậy, một khi gặp vô thường là liền tàn lụi.
Quán sát thọ mạng như bọt nước:
Thí như bọt nước khi mới phát khởi chưa tựu thành thể tướng; hoặc mới sinh liền
diệt; hoặc mới dừng lại liền tan biến. Thọ mạng cũng như vậy, hoặc khi mới gá
sinh vào ở thai tạng; hoặc khi sinh ra làm hài nhi, thiếu niên, trung niên, lão
niên, nhưng tất cả đều phải đi về chỗ hoại diệt.
Quán sát tác giả như chiêm bao:
Thí như ở trong giấc chiêm bao, vì do sự thấy nghe, nhớ nghĩ, phân biệt, huân
tập lưu trú từ trước. Tuy rằng, chúng không có tác giả, nhưng bao nhiêu cảnh
giới hiện khởi rõ ràng trước mắt. Chúng sinh từ thời vô thỉ đến nay cũng như
vậy, có bao nhiêu phiền não, thiện nghiệp, bất thiện nghiệp do huân tập mà lưu
trú, tuy rằng không có bản ngã, nhưng vẫn có thể tác động, mà hiện khởi các sự
sống chết không có giới hạn.
Quán sát tâm như điện chớp: Thí
như sự chớp sáng của điện, thời điểm sinh chính là thời điểm diệt. Tâm cũng như
vậy, sát na sinh khởi chính là sát na hủy diệt.
Quán sát sự có, không như vầng
mây: Thí như vầng mây giữa không gian, chúng trước đó là không, sau đó là có,
rồi thoáng chốc lại biến diệt. Các pháp hữu vi cũng lại như vậy, thể tính của
nó vốn không, lại từ nơi các duyên hư vọng mà có, khi duyên ly tán, thì có hoàn
không.
Như vậy, dưới cách nhìn của
kinh Kim Cang Bát nhã, thì các pháp hữu vi (Samikrita), chỉ là vô thường, hư
ngụy, sinh diệt nhanh chóng và bất thực, hãy quán sát chúng một cách như thực
và thường trực như vậy, để xả ly mọi hạt giống chấp thủ về một bản ngã cố hữu
nơi năm uẩn và mỗi uẩn , chấp thủ về một bản ngã cố hữu nơi con người, chấp thủ
về một bản ngã cố hữu nơi chúng sanh và chấp thủ về một bản ngã cố hữu nơi thọ
mạng, mà không bị rơi vào chủ trương duy vật đoạn kiến. Và hãy quán chiếu các
pháp hữu vi một cách thường trực như vậy, để thấy rõ “tính vô sinh nơi các pháp
đương sinh”; “tính bất diệt nơi các pháp đương diệt”, tính ấy là “thực tướng vô
tướng” là tướng tịch nhiên, không sinh diệt ở nơi các pháp sinh diệt hư ảo,
thường quán chiếu như vậy, để không bị rơi vào chủ trương thường kiến, và đồng
thời để thấy rõ tính chất như thực của pháp và phi pháp, mà không bị rơi vào
hai cực đoan là đoạn kiến và thường kiến, hoặc cuộc sống không để bị rơi vào
hai cực đoan là ép xác khổ hạnh hay là buông lung trong các dục. Và đó cũng là
cách nhìn về pháp và phi pháp mà ở kinh Kim Cang Bát nhã, Đức Phật đã nói với
Tôn giả Tu Bồ đề như sau: “Nầy Tu Bồ Đề! Những người phát Tâm vô thượng bồ đề,
thì đối với hết thảy pháp, nên biết như vậy, nên thấy như vậy, tin tưởng và
lãnh hội cũng phải như vậy, mà không nên sinh khởi vọng tưởng đối với pháp. =
Tu Bồ Đề! Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhất thiết pháp, ưng
như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng( Đại Chính Tân
Tu 8, tr 752)”. Và với ý nghĩa lời dạy nầy của Đức Thế Tôn, ở trong kinh Kinh
Kim Cang Bát Nhã Phạn văn ta có như sau: “Bhagavàn àha - evami hi Subhùte
bodhisattvayànasamiprasthitena sarvadharmà jnõàtavya drasitiavyà adhimoktavyàhi/
Tathà ca jnõàtavyà drasitiavyà adhimoktavyàhi, yathà nadharmasamijnõàyàm api
pratyupatisitihen nàdharmasamijnõàyàmi/. Nghĩa là: Đức Thế Tôn nói, nầy
Subhùti, quả thật như vậy! Sự tiến lên với bồ tát thừa, thì ở nơi hết thảy pháp
phải biết, phải thấy, phải tin tưởng lãnh hội. Và phải biết đúng sự thật, phải
thấy đúng sự thật, phải tin tưởng lãnh hội đúng sự thật. Như vậy, không nên
khởi tâm chấp thủ vọng tưởng về pháp, cũng không nên khởi tâm chấp thủ vọng
tưởng về không phải pháp.
Như vậy, kinh Kim Cang Bát Nhã
đã giúp cho ta quán chiếu để thấy rõ đâu là pháp, đâu là phi pháp, đâu là pháp
tánh và đâu là pháp tướng, nhằm thực hành pháp, loại trừ phi pháp, và nhằm phế
tướng để nhập tánh, và để tiến tới loại trừ những vọng tưởng sai lầm và không
bị mắc kẹt đối với cả hai ý niệm pháp và phi pháp, đối với cả hai ý niệm tướng
và tánh, khiến ta vượt ra khỏi mọi ý niệm quan hệ đối lập để biết đúng như
thật, thấy đúng như thật, tin tưởng và lãnh hội đúng như thật, và giúp ta có
được sự giải thoát, giác ngộ và vững chãi trong từng phút giây của sự sống.
4- Thực tướng là vô tướng :
Chánh kiến (samyakdrsti), được
định nghĩa trong văn hệ A hàm và Nikàya là thấy rõ Tứ Thánh Đế hay là thấy rõ
Lý lưu chuyển và hoàn diệt của Mười hai Duyên khởi, nhưng Chánh Kiến ở trong
kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật không phải dừng lại ở đó, mà còn đi sâu hơn là
thấy rõ thực tướng của tất cả pháp là vô tướng. Thực tướng vô tướng là pháp
thân của phật.
Bởi vậy, ở trong kinh nầy, Đức
Phật đã dạy Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhùti) rằng: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai (bản Hán dịch của Ngài La
Thập)” = Tương đương với Phạn văn: ”Yàvat Subhùte laksianiasamipat tàvan mrisà,
yàvad alaksianiasamipat tàvan na mrisieti hi laksianiàlaksianiatas tathàgato drasitiavyahi”.
Nghĩa là: Nầy Subhùti! Bất cứ cái gì có sắc tướng, cái đó có sự lừa dối; bất cứ
cái gì không có sắc tướng, thì cái đó không có sự lừa dối; nếu thấy rõ vô tướng
nơi các tướng tức là thấy được Như Lai.
Như vậy, theo Kinh Kim Cang Bát
Nhã, thấy Như Lai là thấy “thực tại vô tướng” và không thấy được “thực tại vô
tướng” là không thấy Như Lai.
Như Lai được diễn tả ở trong
văn hệ A hàm và Nikàya là nói và làm đều đồng nhất với nhau; nghĩa là “những gì
Như lai nói thì Như lai đã làm và những gì Như Lai đã làm thì Như Lai mới nói”;
hoặc “Như Lai là trạng thái mát mẻ, là trạng thái không còn bị nóng bức.”
Nhưng, Như Lai được đề cập ở trong Kinh Kim Cang Bát Nhã chính là thực tại vô
tướng. Nói và làm từ trong thực tại vô tướng mới là cách nói và cách làm chân
thực, không hư dối và đó mới là cách nói và cách làm của Như lai.
Theo Kinh Kim Cang Bát Nhã, Như
Lai ngoài ý nghĩa thực tại vô tướng ở nơi các tướng của mọi sự hiện hữu, cũng
còn có nghĩa là “ thể tính chơn như ở nơi mọi sự hiện hữu” (Như Lai giả, chư
pháp như nghĩa = Tathàgata iti Subhùte bhùtatathatàyà etad adhivacanam). Nghĩa
là tự tính của mọi sự hiện hữu xưa nay vốn là rỗng lặng thanh tịnh, không vọng
động, không sinh diệt. Chính tự tính ấy, Kinh Kim Cang Bát Nhã gọi là Như Lai
hay là chư pháp như nghĩa.
Và Như lai ngoài “chư pháp như
nghĩa,”kinh nầy còn giải thích: “Nầy Tu Bồ Đề! Nếu có người nói rằng: Như Lai
hoặc là có đến, có đi, có nằm, có ngồi thì người nói ấy, không hiểu được ý
nghĩa của Như Lai đã nói. Tại sao? Bởi vì, Như Lai không đến từ đâu và cũng
không đi về đâu, nên gọi là Như Lai”(Tu Bồ Đề! Nhược hữu nhân ngôn, Như Lai
nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhân bất giải ngã sở thuyết
nghĩa, hà dĩ cố? Như lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh như lai
(Theo bản Hán dịch của Ngài Cưu Ma La Thập). Và đoạn kinh nầy trong Phạn văn
như sau: “Api tu khalu punah Subhùte yah kascit evam vadet Tathàgato gacchati
và àgacchati và tisthati và nisìdàti và, sayyàm và kalpayati, na me Subhùte
(sa) bhàsitasyàrtham àjànàti/ tat kasya hetoh? Tathàgata iti Subhùte ucyate na
kacid gato na kutascid àgatah/ Tenocyate Tathàgato’rhan samyaksambuddha iti. =
Lại nữa, hỡi Subhùti! Nếu có ai nói như vậy, Như Lai hoặc đi, hoặc đến, hoặc
đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc suy nghĩ, thì nầy hỡi Subhùti, người ấy không
hiểu được ý nghĩa lời dạy của tôi. Tại sao? Hỡi Subhùti! Gọi là Như Lai, vì là
bậc không còn đi đâu và không còn về đâu. Cho nên, gọi là Như lai, bậc A la
hán, bậc Giác Ngộ hoàn toàn).
Như Lai không còn đi đâu, nghĩa
là Như Lai vốn là tịch nhiên, các phiền não và vô minh ở trong tâm thức hoàn
toàn không còn sinh khởi; Như Lai không còn về đâu, nghĩa là tự tánh giác ngộ
của Như Lai là nghiễm nhiên thường tại không bao giờ bị hủy diệt.
Như Lai cũng có nghĩa là Phật.
Và Phật theo Kinh Kim Cang Bát Nhã, bản dịch của Ngài Cưu ma La Thập là “Ly
nhất thế chư tướng tức danh chư Phật = Nghĩa là buông xả tất cả tướng, gọi là
chư phật.” Ý nghĩa nầy tương đương với Phạn bản như sau: “Sarvasamijnõàpagatà
hi buddhà bhagavantah = Nghĩa là buông xả hết thảy ý tưởng, gọi là chư Phật Thế
Tôn.”
Mọi tướng đều là tướng của vọng
tưởng, chư Phật Thế Tôn đã buông xả hết thảy vọng tưởng nơi tự tâm, nên mọi đi,
đứng, nằm, ngồi, nói, cười, im lặng, hành xử của Thế Tôn đều là từ nơi thể tịch
diệt tướng mà biểu hiện và từ nơi thể tướng tịch diệt nầy mà Chư Phật Thế Tôn
giáo hóa độ sinh đem lại lợi ích cho hết thảy muôn loài.
Bởi vậy, theo Kinh Kim Cang Bát
Nhã, ‘Thực tướng vô tướng hay thực tại vô tướng” là Như lai, là chư Phật Thế
Tôn.
Do đó, bất cứ ai tiếp xúc và thấy
được thực tại vô tướng ở nơi các tướng là tiếp xúc và thấy đuợc Như Lai hay là
tiếp xúc và thấy được Chư Phật Thế Tôn ngay trong sự sống nầy.
(còn tiếp)