Luận
giải
về Kinh này, chúng tôi chỉ trình bày vắn tắt bao gồm
trong hai phần: Tóm lược nội dung Kinh và luận giải.
I. Tóm lược
nội dung Kinh.
Thế
Tôn
đang du hoá tại Xá-vệ, lưu trú tại vườn của ông Cấp-cô-độc.
Bấy giờ, đến thời thuyết pháp, Thế Tôn dạy pháp thoại
này.
Thế
Tôn hỏi các Tỷ-kheo rằng, phải chăng các thầy vì nhàm tởm,
ghê sợ sự sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não;
vì muốn đoạn tận nỗi khổ đau lớn lao ấy; và vì muốn
đạt được cứu cánh giải thoát mà xuất gia học Đạo,
để chấp nhận sự nuôi sống bằng cách đi ăn xin (khất
thực), cách nuôi sống thấp hèn nhất của xã hội, mà mọi
người đàm tiếu rằng: “Đầu trọc, tay ôm bình bát bước
đi!” - Các Tỷ-kheo trả lời: “Thật sự như vậy. Bạch
Thế Tôn!”
Thế
Tôn bảo rằng, có những người khi mới xuất gia với tâm
niệm như thế; nhưng rồi, họ lại chìm đắm tận cùng trong
tham dục. Tâm niệm của họ đầy ô-nhiễm, như thù hận,
bất tín, lười biếng, thất niệm, tà định, tà kiến, cuồng
tâm, các căn rối loạn; nói chung là không tinh tấn tu tập
hạnh Sa-môn.
Cách
sống
của họ giống như cách tẩy: “Vật dính mực bằng
mực, vật dính máu bằng máu..., vật dính phẩn bằng phẩn”,
chỉ tăng thêm sự dơ bẩn mà thôi. Cách sống đó cũng tợ
như đống tro tàn của xác người được thiêu đốt trong
rừng vắng, chẳng ích lợi gì cả. Và, đó là cách sống
bỏ chỗ tối tăm, mịt-mù đi vào chỗ mịt-mù, tối tăm hơn
nữa.
Thế
Tôn kết luận:
“Người
ngu
muội hỏng đời dục lạc,
Và
hư
luôn cứu cánh Sa-môn,
Đạo
và
Tục cả hai đều mất.
............................................”
Được
nghe
Thế Tôn dạy, các Tỷ-kheo hoan hỷ phụng hành.
II. Luận giải.
Qua
nội
dung của Kinh, chúng ta nhận ra rằng, đức Thế Tôn đã
xác minh năm điểm như sau:
1)
Lý do xuất gia chân chánh.
Đức
Thế Tôn dạy rằng, lý do xuất gia chân chánh phải được
phát xuất từ tâm-ý nhàm tởm, ghê sợ sự sanh, già, bệnh,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
Qua
ý nghĩa câu trên, chúng ta có thể hiểu một cách khác, là
nhàm tởm, ghê sợ sự có mặt của mình theo dòng sanh tử
khổ đau trong Tam giới; hay nhàm tởm, ghê sợ hết thảy các
pháp hữu vi, hữu lậu.
Người
có được lý do chân chánh trước và khi xuất gia, là người
có Chánh kiến về lý do xuất gia. Đây chỉ là Chánh kiến
sơ khởi cho quá trình xuất gia, nhưng đóng một vai trò rất
quan trọng, là hướng đạo những bước tu tập kế tiếp
khỏi lệch hướng. Tức là, nhờ Chánh kiến này, mà người
xuất gia kham nhẫn, hoan hỷ đón nhận đời sống mà về vật
chất lẫn tư tưởng hoàn toàn trái ngược với đời sống
người thế tục; đó là đời sống thiểu dục tri túc, ly
dục, hay đời sống yểm ly thế gian, xuất thế gian. Và nhờ
vậy mà đạt được mục đích của sự xuất gia.
Với
ý nghĩa này cho chúng ta một cái nhìn đúng Pháp; đó là, bất
cứ vị xuất gia nào mà không có cuộc sống thiểu dục tri
túc, ly dục..., tức là, không có cuộc sống giản đơn, đạm
bạc và hành trì Oai nghi, Giới luật... thì chính vị xuất
gia đó chưa có Chánh kiến về lý do xuất gia của mình.
2)
Mục đích xuất gia chân chánh.
Theo
đức Thế Tôn, mục đích xuất gia có hai điểm:
Thứ
nhất, là vì muốn đoạn tận nỗi khổ đau lớn lao.
Nỗi
khổ đau lớn lao ấy chính là nỗi khổ đau bị sanh tử luân
hồi triền miên trong Tam giới. Để đoạn tận, nhờ có Chánh
kiến mà người xuất gia thấy rõ nguyên nhân chủ yếu của
nỗi khổ đau chính là tham ái, hay nói đủ là tham-sân-si.
Qua nhận diện đích xác này, hành giả tinh tấn vận dụng
Chánh pháp xuất thế Giới-Định-Tuệ biểu hiện qua ba nghiệp
của mình với năng lực từ hữu lậu đến vô lậu để chế
ngự, rồi đoạn tận từ thô đến tế tà pháp thế gian Tam
độc đó. Tam độc được đoạn tận hoàn toàn chính là nỗi
khổ đau lớn lao được đoạn tận vậy.
Thứ
hai, là vì muốn đạt được cứu cánh giải thoát.
Cứu
cánh giải thoát chính là đạt quả vị Đại A-la-hán (theo
hệ Thanh-văn) hay Phật-đà (theo hệ Bồ-tát). Thời điểm
người xuất gia đạt cứu cánh giải thoát, chính là thời
điểm thành tựu viên mãn Giới-Định-Tuệ vô lậu, cũng là
thời điểm đoạn tận hoàn toàn tham-sân-si, tức thời điểm:
“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì cần làm
đã làm xong, không còn tái sanh nữa” (Khế Kinh).
Mục
đích xuất gia được đức Thế Tôn phương tiện chia thành
hai điểm như trên. Trong đó, một điểm thuộc “Hành”,
điểm còn lại thuộc “Quả”. Tuy vậy, ý thú của Ngài
là dạy chúng ta phải hiểu chỉ có một mục đích mà thôi.
Bởi lẽ, “nhân quả đồng thời”, thực hiện sự đoạn
tận khổ đau (Hành) chính là thực hiện sự chứng đạt cứu
cánh giải thoát (Quả).
Qua
ý nghĩa của mục đích xuất gia vừa đề cập trên, cho chúng
ta một nhận xét đứng đắn về mình và đạo bạn. Nếu
ai trong chúng ta (những người xuất gia) qua cuộc sống hằng
ngày mà không tu tập Giới-Định-Tuệ (tối thiểu là Giới)
thì đó là một bảo chứng cụ thể xác minh rằng, vị ấy
không có Chánh kiến về mục đích lẫn lý do xuất gia. Và,
kết quả sự có mặt của vị ấy trong hàng ngũ xuất gia
sẽ như thế nào, thì bất cứ ai cũng biết rõ rồi.
3)
Cách nuôi sống chân chính.
Đức
Thế Tôn dạy rằng, cách nuôi sống chân chính của người
xuất gia, đó là đi ăn xin (khất thực).
Cách
nuôi sống chân chính tối thiểu của người xuất gia nói
đủ thì gồm có bốn thứ, gọi là “Hành tứ y”
(bốn thứ y cứ để hành động). Đó là, về ăn thì đi khất
thực, về mặc thì mặc y phấn tảo, về ngủ thì ngủ dưới
gốc cây và về thuốc thì dùng thuốc hủ lạn. Đây là cách
nuôi sống thân thể vật lý trong tinh thần thiểu dục tri
túc nghiêm minh nhất, cao đẹp nhất, và đã được đa phần
hàng xuất gia áp dụng triệt để vào thời đức Thế Tôn
tại thế và thời Chánh pháp.
Với
cách nuôi sống này, người xuất gia mới có đủ tâm ý và
thời giờ nhằm thực hiện mục đích xuất gia chân chánh
của mình, để kết quả mục đích ấy sẽ hiện hữu ngay
trong đời này. Như vào thời đức Thế Tôn và thời Chánh
pháp, hầu hết các vị xuất gia đều chứng quả vị cao,
mà nhiều nhất là quả vị A-la-hán.
Ngày
nay, cách nuôi sống này khó tìm thấy trong hàng ngũ xuất gia.
Hoạ hoằn, có một thiểu số với cách sống về ăn, mặc,
ở, và phương tiện sinh hoạt khá khiêm tốn, đơn giản là
đã cao đẹp lắm rồi. Như thế, khi đã không có Chánh kiến
về cách nuôi sống; hẳn nhiên, Chánh kiến về lý do và mục
đích xuất gia cũng không thể có được.
4)
Hiện tượng đánh mất Chánh kiến.
Đức
Thế Tôn dạy rằng, trong những người có Chánh kiến khi mới
xuất gia, nhưng sau đó lại có một thiểu số đánh mất Chánh
kiến ấy, để chìm đắm vào cuộc sống thế tục.
Sự
kiện này đã xảy ra vào thời đức Thế Tôn còn tại thế.
Thời đó, hầu hết những vị khi xuất gia đều có Chánh
kiến vững mạnh; dù vậy, sau đó cũng có một số thối thất
Chánh kiến của mình, rồi chìm đắm trong tham dục, tâm niệm
đầy ô-uế, các căn bị rối loạn; chẳng tu tập được
gì về hạnh nguyện của một người xuất gia. Sở dĩ có
hiện tượng này, một phần là do Chánh kiến của các vị
ấy chưa kiên cố, một phần là sau khi xuất gia các vị ấy
thiếu năng lực tỉnh giác để duy trì và phát triển Chánh
kiến đó, cọng với sự dẫn dắt của nghiệp xấu quá khứ.
Trường hợp này, tiêu biểu như Tỷ-kheo Arittha, lục quần
Tỷ-kheo hay lục quần Tỷ-kheo ni...
Ngày
nay, đa phần người mới xuất gia hầu như hiếm có Chánh
kiến, và trong nhóm thiểu số có được Chánh kiến, nhưng
sau khi xuất gia lại đánh mất cũng chiếm tỷ lệ cao hơn.
Đây chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho Phật pháp vốn
đang suy yếu lại càng suy mạt nhanh hơn. Điều này, chúng
ta hãy nhìn kỹ vào sự sinh hoạt hàng ngày của mỗi Tăng,
Ni hiện tại, thì quá rõ ràng.
5)
Hậu quả của cuộc sống tà đạo.
Đức
Thế Tôn dạy rằng, người xuất gia tà kiến sẽ dẫn đến
cuộc sống tà đạo, tức là cuộc sống bỏ chỗ tối tăm,
mịt-mù đi vào chỗ mịt-mù, tối tăm hơn nữa. Và, chẳng
có kết quả tốt đẹp gì về mặt Đạo cũng như mặt Đời.
Vì
sao người xuất gia có cuộc sống tà đạo là bỏ chỗ tối
tăm, mịt-mù đi vào chỗ mịt-mù, tối tăm hơn nữa? - Điều
này thì trong chúng ta ai cũng hiểu rõ. Như đức Thế Tôn đã
dạy về lý do xuất gia chân chánh ở trên, đó là lý do vì
nhàm tởm, ghê sợ hết thảy mọi sinh hoạt mang tính chất
ô-uế, tối tăm, mịt-mù của thế tục, để đi vào đời
sống trong sáng, thánh thiện, xuất thế tục gia. Nhưng khi
chính thức sống trong môi trường xuất gia, vị ấy vẫn tiếp
diễn cuộc sống theo nội dung thế tục; tức là, tâm ý vị
ấy vốn đang chất chứa những chủng tử ô-uế, tối tăm...
nay lại huân tập những chủng tử tối tăm, ô-uế thêm nữa,
để tương lai càng mịt-mù, đen tối gấp bội.
Bởi
thế,
- Về
mặt Đạo: Một người xuất gia là đang sống với Đạo,
nhưng người ấy không tu tập về nội dung của Đạo, mà
lại sống theo hướng thế tục, thì kết quả tốt đẹp về
mặt Đạo không có gì là việc đương nhiên.
- Về
mặt Đời: Người xuất gia thì không còn sống trong phạm
vi thế tục, nên những việc làm hiền thiện như chăm sóc
cha mẹ, ông bà; góp công sức xây dựng xóm làng, xứ sở...
không có cơ hội thực hiện. Như thế, người xuất gia đã
không gieo nhân tốt ở thế gian thì làm sao có kết quả tốt
đẹp ở mặt Đời được!
Với
nội
dung điểm này, nếu ai trong chúng ta không muốn “trên
dinh cũng hỏng, dưới làng cũng không”, thì hãy tinh tấn
sống đúng bổn phận và danh xưng của mình.
Tóm
lại, qua năm điểm mà đức Thế Tôn đã từ bi chỉ dạy
cho hàng đệ tử xuất gia trong kinh Chí Biên, là những Tu sĩ,
chúng ta cần tiếp nhận sâu sắc, tư duy đứng đắn, rồi
đối chiếu với sự tu tập của mình, nhằm điều chỉnh
và phát huy cách sống của tự thân khế hợp với Pháp, Luật
đã lãnh thọ và danh xưng đang sử dụng. Có như vậy mới
khỏi rơi vào hiện tình: “... lời nói, việc làm trống
rỗng, sơ suất; hưởng thọ phẩm vật của tín đồ một
cách vô bổ; đường đi năm cũ chẳng đổi thay một bước,
một tấc; quờ quạng suốt đời thì lấy gì để cậy nhờ,
nương tựa!”(Văn Cảnh Sách của thiền sư Đại Viên).
Rất
mong!
HT.
Thích Giác Quả
http://www.thuvienhoasen.org