Hai
cơ
hội nhìn thấy sự thật hay chân lý.
Trong
cuộc
đời con người ta chỉ có 2 cơ hội để nhìn thấy
sự thật. Cơ hội tự nhiên là khi ta chết. Theo những bác
sĩ nghiên cứu những người chết sống trở lại (hiện tượng
Near Death Experience), thì linh hồn ta có cơ hội nhìn lại cuộc
sống của ta một cách khách quan và sau đó, nếu ta không sống
trở lại, thì linh hồn sẽ đi đầu thai. Cái cơ hội đó
như một cửa sổ hé mở giúp ta nhìn lại cuộc đời ta một
cách rõ ràng rồi chợt đóng lại. Khi tái sanh thì ta quên
hết những gì đã biết được và bị thụ động theo nghiệp
lực lôi cuốn trong vòng luân hồi.
Cơ
hội thứ nhì là ngay trong cuộc sống hiện tại, ta tu tập
và sống với dòng Tuệ Giác, nhờ đó mà ta trực nhận được
sự thật của cuộc đời. Dòng Tuệ Giác như dòng sông ánh
sáng giẫn ta ra biển khơi Phâït tánh. Danh từ chuyên môn gọi
trực nhận sự thật là giác ngộ. Giác là ánh sáng của sự
tỉnh thức, ngộ là nhận ra. Tiếng Anh, enlightenment có nghỉa
là đem ánh sáng về soi sáng lại ta (en = in = ở trong, nội
tâm; lighten = soi sáng). Nhờ có ánh sáng tâm linh, ta tỉnh thức,
ta thấy liền sự thật không qua sự lý luận suy đoán của
tư duy. Chứng quả có thứ bậc từ thấp đến cao chớ giác
ngộ –tức thời nhận ra sự thật- không có thứ bậc. Sự
thật đó được gọi là chân lý vì nó thường hằng như
vậy. Nhờ ánh sáng giác ngộ ta thấy “con voi” nguyên vẹn,
không lầm nhận những phần nhỏ (đuôi, vòi, chân) của con
voi là con voi.
Sở
dĩ trong kinh này Phật đề cao sự giác ngộ qua thực hành
(practice) vì Phật muốn ta trở về tánh Không, sự đồng
nhứt mầu nhiệm của vũ trụ. Chân lý Không không phải là
sản phẩm kiến thức hay kết quả sự tu tập theo một pháp
môn nào đó. Nhờ giác ngộ ta sẽ thấy chân lý Không không
thay đổi tùy theo hiểu biết nhận định sâu cạn của từng
cá nhân. Khi giác ngộ, ta mới thấy rõ (nhờ trí tuệ) sự
bình đẳng của chúng sanh và sanh lòng thương yêu mọi người
mọi loài như nhau (từ bi).
Phương
pháp giúp ta sống với giòng Tuệ Giác được khai triển trong
Tâm Kinh hay Kinh Trái Tim Tuệ Giác. Tên gọi Tâm Kinh muốn nói
lên là kinh này không phải để hiểu qua suy luận mà chúng
ta nên để sự an bình yên lặng trong lòng ta (tâm) thì trong
một nháy mắt ta sẽ cảm nhận được kinh. Kinh (canon, sutra)
là sách ghi lại những lời nói của Phật giảng về sự thật.
Khi ta trực nhận được nhịp rung động của giòng Tuệ Giác
ngay lúc đang sống thì ta giành lại được quyền làm chủ
định mệnh ta. Phật gọi đó là nguyên nhân của giải thoát.
Nếu ta làm chủ định mệnh ta trong mọi thời điểm, đó
chính là giải thoát.
Thế
nào là dòng Tuệ Giác?
Khi
ta liệng một nắm cát xuống bàn thì những hạt cát rơi một
cách bề bộn trên mặt bàn. Những hạt cát không thể biến
thành những hình tượng như lâu đài cát. Bản chất tự nhiên
của vũ trụ là sự hỗn loạn (chaos) và tan rã. Khi những
hạt vật chất họp lại tạo thành sự sống thì phải có
một năng lực tổ chức trật tự. Năng lực đó là giòng
Tuệ Giác, là sự sống. Tất cả các sinh vật trong vủ trụ
đều có giòng Tuệ Giác. Cái khác biệt giửa con người và
các động vật khác là con người có khả năng nhận ra (ý
thức, awareness) giòng Tuệ Giác, còn các sinh vật khác chỉ
biết để giòng Tuệ Giác thể hiện (thí dụ: loài ngỗng
biết định hướng bay xuyên lục địa) nhưng chưa phát triển
cao đến độ nhận ra được giòng Tuệ Giác.
Tuệï
là trí tuệ, giác là tỉnh thức. Nhờ tỉnh thức ta mới có
trí tuệ để nhận ra sự sống vỉnh cửu nơi ta. Giòng Tuệ
Giác chính là sự sống, cái động lực sáng suốt tổ chức
vật chất trở thành trật tự, chống lại sự hổn loạn
(chaos) và tan rã.
Thí
dụ thân thể con người được cấu tạo bằng những chất
cơ bản như carbon, hydrogen, oxygen và nitrogen. Nếu không có
giòng Tuệ Giác thì những chất cơ bản trên không thể nào
họp lại một cách trật tự tạo thành tế bào, rồi hàng
triệu tế bào họp lại tạo thành cơ quan, bộ phận trong
cơ thể. Rồi những bộ phận trong cơ thể phải hoạt động
ăn khớp với nhau tạo ra sự sống hài hòa. Cái nguyên lý
tự nhiên của vũ trụ là hỗn loạn và chia rẽ phân tán.
Với những khó khăn phức tạp như hàng ngàn phản ứng sinh
hóa xảy ra trong một tích tắc nhưng phải rất hòa hợp nhau,
nếu ta chỉ sống được một giây đã là mầu nhiệm rồi,
huống chi sống đến 70 hay 80 tuổi, là một việc thật khó
nghĩ bàn. Vì thế ta gọi giòng tuệ giác, vì nó như giòng
sông ánh sáng trôi mải không dừng để xây dựng sự sống.
Ngay
cả khi ta chết, cái thân vật chất trở lại cái giai đoạn
hỗn tạp ban đầu, nhưng linh hồn ta vẫn còn giữ được
tri thức. Những khoa học gia rất ngạc nhiên khi nghe người
chết sống lại kể lại những mẩu chuyện khi mà bộ óc
và con tim họ đã ngưng hoạt động. Cái cảm giác đầu tiên
của sự “xuất hồn” là bịnh nhân đang chết nhìn từ
trần nhà và thấy nhóm bác sĩ, y tá đang cố gắng hồi phục
thân thể của họ. Thoạt đầu, họ không nhìn ra thân đó
là của họ rồi rất ngạc nhiên khi nhận ra thân đó là mình.
Sau đó, linh hồn sẽ đi qua một đường hầm và cuối đường
hầm sẽ gặp Aùnh sáng từ bi. Ánh sáng đó không có một
mảy may phê bình, giúp linh hồn người chết ôn lại những
giai đoạn quan trọng trong cuộc đời họ. Những người đó
kể lại rằng sau khi ôn lại cuộc đời họ, họ chọn lựa
trở lại trần gian để hoàn tất sứ mệnh, mặc dù họ cảm
thấy rất bình an ở gần Ánh sáng đó. Bác sĩ Raymond Moody,
tác giả quyển sách Life after life, theo dõi nhóm người chết
sống trở lại, khám phá rằng sau kinh nghiệm đó, tánh tình
họ thay đổi một cách tốt lành hơn.
Trên
phương diện tâm lý, giòng Tuệ Giác tự nhiên được biểu
hiện khi ta đi tham quan một thắng cảnh lạ. Ta có cái cảm
giác kỳ diệu (sense of wonder) khi đối diện một thắng cảnh
mới lạ. Ta có cảm tưởng như ta hòa vào cảnh, ta và cảnh
cùng rung động cái đẹp. Ta có cái cảm giác đó vì trong
một giây phút ta gần gủi với giòng Tuệ Giác. Nhưng buồn
thay, khi ta trở lại lần thứ nhì thì cảm giác đó không
trở lại với ta. Sở dỉ như thế vì khi trở lại lần thứ
nhì, ta biết trước những gì ta sắp thấy, cái biết trước
đó che mờ giòng Tuệ Giác, làm mất đi cảm giác kỳ diệu
đó. Cái “biết trước” đó, được Phật gọi là “tri
kiến lập tri” (kinh Lăng Nghiêm). Cái biết ban đầu, lúc
ta chưa có khái niệm gì hết là “tri kiến vô kiến”, cũng
là Tuệ Giác.
Nguyên
lý nhị nguyên (duality) và bất nhị (non-duality)
Trước
khi vào đề kinh, ta nên tìm hiểu về nguyên lý nhị nguyên
và bất nhị. Ta có cái thân bằng ánh sáng, được gọi là
Pháp thân. Thân đó không lệ thuộc vào không gian và thời
gian nên không hề bị chu kỳ sanh tử ràng buộc. Thân thể
vật chất của ta có tần số rung động thô hơn và bị lệ
thuộc ở nguyên lý nhị nguyên. Sự nhị nguyên được thể
hiện qua thân thể ta muốn được thành hình cần phải có
tinh (sperm) cha huyết (ovary) mẹ để được cấu tạo. Các
tế bào thân ta có hai bộ nhiễm sắc thể từ cha và mẹ.
Khi
sinh ra ta không thể sống mà không nương tựa trên hơi thở
và thức ăn. Ăn uống là nguyên nhân căn bản (primary) của
ngã và ngã sở. Đói bụng làm cái bụng cồn cào không ổn
thể hiện rõ hơn (ngã) và thúc ta phải đi tìm thức ăn (ngã
sở). Từ đó ta sanh ra ham muốn và tham ái vì ta bị thiếu
và lúc nào cũng cần sự bồi đắp bên ngoài. Sự bồi đắp
đó có thể bằng vật chất (đối tượng của tham) hay bằng
tình thương (đối tượng của tham ái). Tham ái phát xuất
từ đứa bé ham muốn được tình thương cha mẹ để bảo
đảm cho sự sống còn của nó.
Với
thân thể vật chất bị vô thường chi phối, ta ít khi thấy
đầy đủ hạnh phúc. Đó là khởi sanh của tham khi chưa được
và sân khi mất hay bị tước đoạt. Nguyên nhân của
bạo quyền từ đây mà phát triển. Ta tham được quyền lực
để lấy cái hơn về cho ta, bảo đảm cuộc sống vật chất
của ta, bất kể sự thiệt hại cho người khác. Ta sống với
thân vật chất đầu thai tới lui từ muôn đời trong sự thiếu
thốn đau khổ nên quên cái thân ánh sáng đầy đủ của ta.
Phật gọi tâm trạng đó là si mê. Tham sân si tạo nên cảm
giác không yên ổn, nặng nề, phiền muộn trong tâm ta, còn
được gọi là nội kết (danh từ của Thượng tọa Thích
Nhất Hạnh). Khi ta theo giòng tưởng tội nghiệp cho ta
(self pity) thì làm nội kết cháy rực lên như ngọn lửa lớn
làm ta đau khổ nhiều hơn. Nội kết được thể hiện ở
thế giới vật chất: tâm không yên ổn làm tim đập nhanh,
tâm nặng nề tạo cảm giác nặng ngực, ngộp thở, tâm phiền
muộn tạo nhiều cơn đau trên thân thể.
Cảm
giác thiếu thốn lo âu là nguyên nhân thứ yếu (secondary) của
ngã sở: ta muốn được để đỡ lo. Phật chia cái “được-ngã
sở” ra làm 5 phần: ăn và ngủ là 2 yếu tố căn bản; danh
vọng, tiền bạc (power = thế lực) và sắc đẹp (sex) là 3
yếu tố tiếp theo. Khi ta đặt nặng vật chất trong cuộc
sống, ta bị cái được mất nhồi sọ thì ta dần dần xa
lìa và quên cái thân ánh sáng nguyên thủy bất sinh diệt của
ta. Khi quên thân ánh sáng của ta, thì ta không bao giờ cảm
thấy đầy đủ thỏa mãn khi được 5 loại ngã sở nêu trên.
Giới nghệ sĩ nổi tiếng (ngôi sao màn bạc) tuy có đủ 5
cái ngã sở trên nhưng họ là những người bị nhiều khủng
hoảng nội tâm nhứt.
Kẻ
sát nhân trong cơn thịnh nộ, kẻ tự tử trong cơn đau khổ
tuyệt vọng và người bị nghiện (xì ke, rượu) là những
người muốn tìm về Pháp thân nhưng lầm lẫn tìm qua con đường
vật chất. Kẻ giết người hay tự tử ao ước tìm về Không
trong sự phiền não đau khổ của sắc, muốn diệt sắc để
đến Không. Người nghiện ao ước tìm về sự ấm cúng, đầy
đủ và sự an tâm của Không nhưng lầm lẫn đi qua con đường
bịnh hoạn của những hóa chất (sắc).
Trong
cơn mê (si), ta đem sự nương bám vật chất vào tôn giáo và
biến tôn giáo giải thoát thành tôn giáo cầu xin. Ta trở thành
những đứa bé cầu xin Phật hay Chúa ban cho ta sự dồi dào
về vật chất mà người thế gian gọi là phước. Thí dụ
như ta cầu xin được làm ăn phát đạt giàu sang, thân thể
đẹp đẽ, mạnh khỏe. Ta còn “hối lộ” Phật hay Chúa,
bố thí cho chùa hay nhà thờ một phần mà muốn hưởng lộc
mười phần. Cái “nhà băng trên trời” phải cho ta tiền
lời nhiều gắp bội cái nhà băng thế gian thì ta mới chịu
đầu tư /bố thí. Còn có nhiều người phóng (project) cái
ngã mình lên tôn giáo và cho rằng tôn giáo mình đúng nhứt
hoặc hay nhứt, như ta đã từng phóng cái ngã mình lên đội
banh “nhà” (của tôi/ngã sở) và bực bội tức giận khi
đội nhà thua.
Vì
cố chấp tôn giáo, những kẻ cuồng tín sẳn sàng giết hại
những người không theo tôn giáo mình. Lịch sử đã cho thấy
từ thời La Mả những người theo đạo Chúa bị giết hại
(martyr), rồi đến thánh chiến, và gần đây nhứt là biến
cố 9-11. Đó là những biến cố đau lòng do con người tranh
chấp tôn giáo giết chóc lẩn nhau. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân Phật phá cái sở đắc chấp vào kiến thức trong
kinh này.
Để
khuyến khích những người còn sống nặng trên cơ sở nguyên
lý nhị nguyên, với ngã mong cầu được gì mình thích (ngã
sở), Phật đưa ra giới luật và những quả vị tu chứng.
Giai đoạn đầu ta phải từ bỏ tham sân si của đời bằng
sự tránh né (avoidance). Giới luật là những phương pháp giúp
ta tránh và bỏ những đam mê dụ dổ của đời để có một
cuộc sống lành mạnh đạo đức. Ta tránh được càng
nhiều (giữ giới) thì đạt được quả càng cao. Nói một
cách khác, những quả vị chứng đắc Phật đề ra tương
đương với những bằng cấp ở đời để chứng nhận (validate)
những cố gắng của chúng ta. Học nhiều thì được bằng
cao. Phật thế cái muốn được ở đời bằng cái muốn được
ở đạo, thế cái muốn vật chất bằng cái muốn tinh thần.
Phật gọi đó là hóa thành, có nghĩa là những trạm dừng
chân chớ không phải là mục đích cứu kính.
Ở
giai đoạn cuối của cuộc đời giảng đạo, Phật đề cao
thuyếtù bất nhị qua hệ thống kinh Bát Nhã để hướng dẩn
người tu trở về Pháp thân, thân ánh sáng nguyên thủy. Nhờ
thuyết bất nhị dung hòa mà đạo Phật tránh được những
cuộc tranh chấp tôn giáo đẫm máu. Thuyết Bát Nhã (hay bất
nhị) được Phật nói ra để phá cái chấp vào sở đắc
của đạo và trực chỉ Pháp thân-Không. “Không” còn được
gọi là tánh chân thật (chân tánh) hay tâm chân thật (chân
tâm). Thuyết bất nhị khó có thể hiểu được bằng tư tưởng.
Nói một cách khác: khó mà có thể dùng âm thanh để diễn
ta ûsự yên lặng. Ta chỉ có thể dùng trí tuệ trong sự im
lặng của tư duy để chứng nhận chớ không thể dùng tư
tưởng náo loạn để hiểu được. Nhân nào quả nấy, sự
hiểu biết qua tư duy sanh ra sản phẩm phân tán (học càng
nhiều càng thấy rối loạn, mâu thuẩn) chớ không có khả
năng gồm về một tụ điểm.
Tìm
hiểu về trí khôn và trí tuệ.
Trí
khôn dùng tư tưởng suy luận so sánh đúng sai để hiểu những
hiện tượng bên ngoài. Trí khôn dễ bị phân tán trong rừng
kiến giải. Kiến giải là danh từ chuyên môn của Phật
giáo nói lên sự dùng suy luận để giải thích chân lý. Còn
trí tuệ dùng sự im lặng nội tâm để trực nhận cái bản
chất trung thực của mình. Chỉ có trí tuệ mới trực diện
được chân lý. Vừa khởi ý nghỉ so sánh thì chân lý bất
nhị liền đó biến thành kiến giải đối đãi.
Tuy
nhiên chổ Phật muốn phá chấp là ngã dùng sự hiểu biết
làm sở đắc, để tham sân si núp bóng sau trí khôn biện luận
hoành hành mà không ai biết. Phân tâm học gọi hiện tượng
đó là resistance. Ngã dùng kiến giải để che đậy tham sân
si, chống cự (resistance) lại sự cải thiện. Ngã có thể
dùng lý lẽ (intellectualization) để biện hộ cho tham sân si
và tự thuyết phục rằng “ta” đã “hoàn hảo”. Ngã biến
thành ông luật sư biện hộ tài giỏi làm người phạm pháp
trắng án. Đặc tính của ngã là bắt người khác phải thay
đổi để theo ta chớ ta không bao giờ nhận sai lầm về mình.
Vì vậy mà người hiểu rộng, có nhiều sở đắc rất khó
tu vì người đó bám víu vào cái ta đúng, kẻ khác sai, ta
hơn, kẻ khác thua. Khi thấy có đúng sai, hơn thua (nguyên lý
nhị nguyên) thì từ bi, thông cảm không có chổ để xuất
hiện.
Trí
tuệ bản chất nó đầy đủ, không hơn không kém, tự nó
có sẵn cái biết trong đó, không cần đem từ ngoài vào. Trí
tuệ thường đi đôi với từ bi thông cảm, hiểu mình và
hiểu người. Sống với trí tuệ ta sẽ thấy mọi người
đều bình đẳng như nhau, cái hơn kém chỉ là một ảo giác
(illusion) của tư tưởng phân biệt. Chính vì Trí tuệ có nguồn
gốc ngoài hiện tượng (chân Không), kể cả hữu hình và
vô hình, nên mới dung hòa được sự bình đẳng. Nếu có
sự so sánh tốt xấu, hơn thua thì không thể nào có bình đẳng
được. Tột cùng của bình đẳng là Không, chính là thân
ánh sáng (pháp thân).
Nói
tóm lại trí tuệ giúp ta hiểu chính mình. Còn trí khôn chỉ
giỏi để hiểu người, hiểu cảnh mà đôi khi ta còn dùng
trí khôn để tự lừa dối mình (biện hộ) hay lừa dối người
để lấy phần lợi, phần thắng cho ta. Càng hiểu nhiều ta
càng che đậy con người thật/Phật tánh của ta.
Phân
tích
cấu trúc Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng
Bản
kinh
này được coi là sự đúc kết tất cả những tinh hoa
của Đại Phẩm Bát Nhã gồm 25 ngàn bài kệ. Kinh này được
cô động lại không hơn 300 chữ!
Để
tiện việc chú giải, chúng tôi theo Thượng Tọa Thích Tâm
Thiện chia kinh làm 7 phần. Cũng nên biết theo số học (numerology),
số 7 là số nguyên trạng tượng trưng cho sự vĩnh cửu. Ngày
thứ 7 của tuần (chủ nhựt = ngày làm ch?) ta được nghỉ
làm để tưởng nhớ đến vỉnh cửu.
Phần
1: Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Đây
là
đoạn nhập đề giới thiệu về (1) đức tánh cần thiết
để tu, (2) phương pháp tu và (3) kết quả tu. Câu nhập đề
đã khéo léo gom ghém toàn ý kinh.
Theo
khoa
số học, con số 3 là con số dương đầu tiên, là con
số chỉ cho hành động thay đổi. Đạo Phật có tam bảo,
đạo Chúa có Chúa 3 ngôi. Số 3 tượng trưng cho kinh này là
kinh của sự thực hành (practice).
Phần
2: Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc; thọ, tưởng hành, thức
diệc phục như thị.
Đây
là
đoạn công phá nguyên lý nhị nguyên và giới thiệu Không.
Phật chỉ thẳng phương pháp tu nhằm phá chấp ngã dẫn đến
nguyên lý bất nhị “vô ngã”. Đoạn này còn giới thiệu
“Không”, nền tảng hay nguồn gốc của muôn vạn hiện tượng
hữu hình và vô hình.
Căn
bản
của ngã là 5 uẩn: sắc (thân thể) và thọ, tưởng,
hành, thức (tinh thần). Số 5 là số của sự tạo thành nhân
loại. Ta có 5 ngón tay và 5 giác quan vật chất. Sự sống còn
(survival) của loài người đựa trên 5 ngón tay và 5 giác quan.
Trong sắc có số 4: tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Theo
số học, số 4 là số âm đầu tiên làm nền tảng chứa đựng,
bao dung sự sống. Số 4 cũng là số của trật tự: 4 hướng,
4 mùa.
Phần
3: Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt,
bất cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Đây
là
đoạn nói rõ thật tướng hay tánh Không của pháp là không
tướng. Đoạn này chỉ thẳng pháp thân hay chân tánh sau khi
vượt qua được đám mây mờ của ngã ở phần trên. Khai
mở ý chỉ “tất cả” trở về “1”.
Phần
4: Thị cố không trung, vô sắc, thọ, tưởng, hành, thức;
vô nhãn , nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô
vô minh diệc, vô vô minh tận; nải chí vô lão tử, diệc vô
lão tử tận; vô trí diệc vô đắc.
Đoạn
này
phá chấp ngã và sở đắc của ngã (ngã sở). Vì người
tu (ngã= chủ thể) là Không, nên phương pháp tu và sự chứng
đắc (ngã sở= khách thể) cũng Không luôn. Khai mở ý chỉ
“2 = ngã + ngã sở” trở về “1”.
Phần
5: Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát Nhã Ba La Mật
Đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hửu khủng
bố, viển ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết bàn.
Đoạn
này
giới thiệu năng lực của giòng Tuệ Giác/Trí Bát Nhã
giúp người tu thoát ly được lo âu phiền muộn/nội kết
qua được “bờ bên kia”.
Phần
6: Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố đắc A nậu
đa la tam miệu tam Bồ đề.
Aán
chứng
về Tuệ giác. Đây là con đường tu tập mà 3 đời
chư Phật đều phải qua. Khai mở ý chỉ “3 thời điểm”
trở về “1 vô sanh”.
Phần
7: Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị
đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú,
năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết
Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế,
yết đế, ba la yết đế, Bồ đề, tát bà ha.
Nhấn
mạnh tính chất kỳ diệu diệt khổ của Tuệ Giác. Phật
kết thúc kinh bằng câu linh ngử (thần chú). Khai mở ý chỉ
trong “1” có “tất cả”. Cái “tất cả- diệu dụng”
đó có khả năng lấp cái hố sâu của sự thiếu thốn ham
muốn đem về cho mình (ngã sở), trừ được mọi khổ đau.
Giải
thích
Kinh Trái Tim Tuệ giác.
Phần
1:
Khi Bồ tát Quán Thế Âm tiến sâu vào nguồn mạch Tuệ
giác Vô thượng, Ngài soi thấy 5 hợp thể đều là Không,
liền độ hết thảy nội kết.
Đức
tánh
cần thiết để tu.
Bồ
tát
chỉ cho cái khả năng tự độ và tha độ. Cái đặc điểm
của Bồ tát là không tránh thế gian, tu trong thế gian và độ
trong thế gian. Nếu ta không bỏ đời tìm đạo, ngay trong đời
thấy đạo và dùng đạo giúp đời thì ta tu theo nhân Bồ
tát.
Quán
Thế
Âm tượng trưng cho tánh đặc trưng của vị Bồ tát
đó. Nhưng ta cũng có thể hiểu đó là phương pháp tu. Xin
tạm dịch Quán Thế Âm là “nghe bằng tỉnh thức”, nghe
cái âm thanh như thế, âm thanh nguyên thủy không qua suy luận
và tình cảm. Trong dân gian, hình ảnh của
Quán Thế Âm là người mẹ cầm bình nước cam lồ làm mát
dịu nỗi khổ của những đứa con lâm nạn cầu cứu Ngài.
Để
tránh
sự hiểu lầm Kinh Trái Tim Tuệ Giác là kinh tha độ
dẫn đến sự mê tín, cầu xin, ỷ lại nên sau này tên Quán
thế âm được đổi thành Quán Tự Tại. Tuy nhiên hai tên
nhưng cùng chỉ một yếu tố tỉnh thức. Ta chỉ nghe được
âm thanh như thế trong sự tự tại của tỉnh thức.
Khi
ta
nghe một tiếng chửi mắng bằng sự tỉnh thức thì ta không
lấy cái khổ của nội kết về cho ta, mà ngược lại ta thông
cảm được nỗi khổ người mắng nhiếc ta. Trong một nháy
mắt, ta tư độ và lấy tình thương thông cảm (từ bi) độ
người chửi ta. Ta trao tặng sự bình an của ta cho người
ghét ta và chuyển hóa được lòng sân hận của người đó.
Đó chính là ý nghĩa của bình nước cam lồ.
Tại
sao
Phật nói “Quán Thế Âm” chớ không nói “Quán Thế
Sắc”. Ở thế giới loài người, âm thanh-ngôn ngữ là phương
tiện giúp ta tu tắt. Nếu người câm điếc giảng cho nhau
nghe lý vô thường chắc phải đợi một thời gian lâu để
vật thể đó biến đổi, rồi chỉ cho nhau thấy. Chúng ta
nhờ nghe-hiểu được ngôn ngử nên có thể thâu ngắn kinh
nghiệm đó lại trong một tích tắc. Nền tảng sự phát triển
trí thức của nhân loại là ngôn ngữ.
2-
Phương pháp tu
a)
Tiến
sâu vào nguồn mạch Tuệ Giác vô thượng. Câu này chỉ
cho sự thực hành (practice).
Tiến
sâu
khác với hiểu rõ. Với phương pháp tu Bát Nhã càng hiểu
nhiều thì càng đi xa dòng Tuệ Giác. Tiến sâu có nghĩa là
giữ sự tỉnh thức im lặng càng lâu càng tốt vì ta càng
gần gủi với mạch Tuệ Giác. “Tu” bằng phương pháp Tuệ
Giác là như vậy, ta không bỏ cái này để được cái kia.
Tu bằng Tuệ Giác là “đi đi”. Đi (hành) trong sự lắng
động. Tuy hành mà không hành vì có làm gì đâu? Có được
gì đâu? Nguồn là điểm Không, nơi muôn hiện tượng phát
xuất; còn mạch là sự mầu nhiệm diệu dụng của Không.
Mạch đó lúc nào cũng vô tận. Vô thượng là chỗ tột cùng,
không còn có gì để so sánh. Không thể giải thích vô thượng
là cao nhứt vì tính chất vô thượng là bất nhị.
b)
Ngài
soi thấy 5 hợp thể là Không. Soi là nhìn trong im lặng,
nhìn bằng sự tỉnh thức.
Lúc
đó
sự im lặng tỉnh thức cộng hưởng (resonate) với tánh
Không cuả 5 hợp thể (thân và tâm) làm tánh Không đó hiện
ra trước mắt Ngài. Có vị Tổ thiền tông diễn tả tâm trạng
đó như hai mặt gương đối diện nhau.
Liền.
Tức
thời. Đây là đặc trưng của pháp tu Bát Nhã. Liền
chỉ cho cái trực nhận tức thời của tỉnh giác không qua
sự cố gắng hiểu biết của suy nghĩ. “Chổ” đó không
có người suy nghỉ và cái kiến thức được hiểu biết.
Bị té liền biết đau, cái đau không qua suy nghĩ, đó liền
là tỉnh giác. Khởi suy nghĩ là ta rơi vào cái bẫy của sân
(bực tức khi bị đau), tham (định đi thưa chủ tiệm nơi
ta té) và si (nguyên do tham và sân). Suzuki tác giả của Thiền
Luận diễn tả ý của “liền” là “hiện tại và bây giờ”
(here and now).
3-
Kết quả tu.
Độ
hết
thảy nội kết. Sỡ dĩ ta có nội kết là khi một hoàn
cảnh tạo khổ đã qua rồi nhưng trong tâm ta không cho nó qua.
Ta cứ ôm ấp mãi những tư tưởng buồn phiền, ôn đi ôn
lại hàng ngàn lần đến độ mất ăn, mất ngủ. Khi ta sân
hận kẻ thù thực ra ta nuôi dưỡng cái ấn tượng hay hình
ảnh sân hận nơi tâm ta và như thế ta không ngờ ta sân hận
một phần của chính ta rồi tạo khổ cho ta.
Khoa
học
ngày nay chứng minh rằng nhiều bịnh phát sinh ra từ suy
tư rầu rỉ. Cái tâm trạng nội kết (stress) để lâu ngày
trong tâm sẽ ảnh hưởng qua nhiều hệ thống của cơ thể.
Hệ thống thần kinh bị ảnh hưởng sanh ra mất ngủ, người
bực bội, căng thẳng, nhức đầu, cơ thể bị đau nhức.
Hệ thống tim mạch bị ảnh hưởng sanh ra tim hồi họp, tăng
áp xuất, ngực bị nặng. Hệ thống tiêu hóa bị ảnh hưởng
sanh ra biếng ăn, buồn nôn hay tiêu chảy.
Khi
ta
nghe thấy bằng tỉnh thức thì ngay lúc hoàn cảnh xấu xảy
ra tâm ta thật bình an. Như thế ta không cần xa lánh, diệt
trừ hoàn cảnh khổ hay diệt trừ lòng tham và sân. Vì ta thấy
được tánh Không của vạn vật nên ta dễ dàng biến đổi
(độ) hoàn cảnh phiền toái thành bình an. Trong “độ” ta
vượt qua được cái tham và sân tế nhị. Trong “độ” ta
lấy tâm tỉnh thức chuyển hoàn cảnh khổ thành Không. Thí
dụ như người tù cải tạo, với tâm Không thì 4 bức tường
vật chất không thể nào nhốt được người đó. Tuy trong
cảnh tù, người đó tự tại không bị cảnh làm đau khổ.
Đó cũng là ý nghĩa giải thoát (Không) ngay nơi tù tội (sắc).
Phân
tâm
học đã chứng minh rằng khi ta muốn diệt trừ tham sân
si thì ta tự tạo càng nhiều căng thẳng cho ta vì ta đè nén
(repression) chúng. Một lúc nào đó chúng có cơ hội sẽ bùng
nổ dử dội (acting out). Nói một cách khác ta muốn không tham
rồi sẽ bị tham nhiều hơn. Ta ghét cái giận rồi sẽ bị
cau có nhiều hơn. Người dùng tham và sân để diệt trừ tham
sân si sẽ dể bị mặc cảm tội lỗi và trong lòng hay lo âu.
Có một khoa tâm lý trị liệu (supportive psychotherapy) dùng sự
lắng nghe và thông cảm để trị nội kết. Tuy nhiên ta có
thể làm một mình khi ta quán chiếu và thông cảm tham sân
si biến (độ) tham thành từ bi và sân thành trí dũng cảm
đốt phiền nảo, giúp ta nhìn sự thật nơi ta.
Nếu
quý
vị có bịnh mất ngủ (insomnia) thì hiểu rõ rằng khi
ta muốn ngủ, càng muốn ngủ thì lại càng mất ngủ. Rồi
ta bực bội nhìn những người khác ngủ ngon mà sao ta ngủ
không được, càng bực bội, thân và tâm ta căng thẳng thì
ta càng mất ngủ nhiều hơn. Cách trị bịnh mất ngủ một
cách tự nhiên không dùng thuốc là ta không muốn ngủ, cũng
không bực bội khi ngủ không được, tâm yên lặng, giấc
ngủ sẽ đến, ta là giấc ngủ và ta ngủ ngon lành.
Phần
2: Này Xá Lợi Tử, hình thể chẳng khác chân Không, chân Không
chẳng khác hình thể, hình thể là chân Không, chân Không là
hình thể; cảm xúc (thọ), cảm tưởng (tưởng), suy tưởng
(hành) và trí nhớ (thức) đều như vậy.
Đây
là đoạn hết sức quan trọng của kinh này. Xá Lợi Tử là
đệ tử giỏi nhất về suy luận của Phật. Sở dỉ Phật
gọi ngài Xá Lợi Tử đến để giảng kinh này vì Phật muốn
nhắc khéo: Ông nên thận trọng, dòng Tuệ Giác không do suy
luận tưởng tượng được. Phật muốn chỉ thuyết bất nhị
vô ngã, không những cho riêng ông Xá Lợi Tử mà cho những
người hậu thế đọc kinh này bằng kiến thức suy luận.
Khi ta dùng suy luận để hiểu Không thì ta chỉ thấy được
cái bóng của Không do tư duy vẽ ra. Vô ngã không phải là
“bất ngã” có nghĩa là không có (phủ nhận) ngã, cũng không
phải là “phi ngã” có nghỉa là vượt ngoài (beyond) ngã,
như Thượng đế vượt ngoài tầm con người. Nếu nói vô
ngã là ngã thì lại rơi vào cái vòng lẩn quẩn của văn tự,
có nghĩa là ta trở về cái điểm phát xuất. Chính vì thế
mà Phật chỉ dơ cành hoa lên để diễn tả cái chân lý tột
cùng của sự hiện diện, tổ sư thì dơ cây phất tữ lên
hay mời uống trà. Dơ cành hoa lên hay uống trà là (is-present
time) “trái tim” Tuệ Giác. Hành động đó chỉ thẳng đến
mạch Sống.
Trong
hành
động (sắc) đó người nào thấy được cái không hành
động (không) thì liền ngộ đạo. Người ngộ đạo thì nở
nụ cười hàm tiếu bỏ đi. Người chưa ngộ thì xì xào bàn
tán “đại ý” của hành động đó. Phật tổ đã không
có một niệm nhỏ thì làm gì có đại ý!
Sắc
không khác với không. Ta không thể giải thích tánh không ngoài
hiện tượng sắc được. Muốn đi, hai chân ta phải luân phiên
đụng mặt đất (sắc) và rời mặt đất (Không). Làm sao
ta đi khi hai chân lúc nào cũng đụng đất (đời lìa đạo)
hay lúc nào cũng rời đất (đạo lìa đời). Suy luận thích
đóng những ngăn định nghĩa khác nhau để rồi ta bị thất
lạc trong nhiều ngăn phức tạp đó. Với tinh thần kinh này,
ta nên quên hết những định nghĩa sắc-không mà ta đã học
hỏi. Ta nên dùng sự tỉnh thức để cảm nhận giòng Tuệ
Giác ngay trong hiện tượng hàng ngày. Đó cũng là ý nghĩa
“Bồ Tát” là chữ đầu tiên của kinh này. Tỉnh thức ngay
trong cái loạn động.
Muốn
cảm
nhận được sắc không khác với không, ta hãy thử làm
người mù mới được trị lành mắt, nhìn cái cảnh xấu
nhứt trần gian vẫn hạnh phúc tươi cười vì cảnh (sắc)
làm người đó chợt biết (giác ngộ) rằng mình đang có con
mắt sáng (Không, Tuệ Giác).
Còn
một
thí dụ nữa là đĩa compact disc (CD). Ba mươi năm về
trước khi nghe nói có một đĩa mà không cần sự cọ xát
của cây kim (không) mà có thể phát ra được nhạc (sắc)
thì không có ai có thể suy tưởng ra cái CD ngày nay. Phải
nói người sáng chế ra CD, dùng ánh sáng laser để đọc CD
biến thành nhạc đã áp dụng Tuệ Giác -vượt ra khỏi việc
xử dụng sắc (cây kim) biểu hiện sắc (nhạc)- trong phát
minh đó. Ai nghe qua một lần cũng rõ là nhạc từ CD âm thanh
rất trong suốt, không bị rè như đĩa hát hồi xưa. Vì sao
âm thanh được tốt như vậy? Vì không có chổ vướng mắc.
Nói
về
ánh sáng laser thì ta phải nói đến hình hologram chụp
bằng ánh sáng laser. Cái đặc điểm của film hologram là khi
ta cắt nó ra làm hai nó vẫn còn giử nguyên vẹn cái hình
được chụp *thay vì hình đó bị cắt phân nửa. Mỗi lần
cắt ra làm 4, làm 8, hình bị mờ thêm nhưng vẫn được giử
nguyên hình. Điều này muốn nói lên là tia laser (tia sáng tụ
điểm) là biểu hiện vật chất của Tuệ Giác. Phim hologram
nói lên cái nguyên lý trong một có tất cả và tất cả có
trong một. Ta càng xa tánh Không thì sự nhận thức hay nhớ
ra tánh Không bị mơ,ø nhưng tánh Không lúc nào cũng nguyên
vẹn. Giác ngộ là trở về tánh Không nguyên vẹn nhưng tánh
đó còn bị mờ; đến khi thành Phật thì tánh Không đó vẫn
nguyên vẹn như vậy nhưng hiện hoàn toàn.
Sắc
tức thị không. Đây là nguyên lý tột cùng của kinh Tuệ
Giác mà suy luận phải bó tay. Đó là cái vòng tròn kín mà
suy luận không có chổ nương tựa để vào. Chúng ta có thể
giải thích một cách gượng ép nhưng là chuyện làm vô ích,
như vẽ cái bóng thứ nhì lên cái bóng thứ nhứt làm người
khác mê lầm tưởng hình thật. Cái bóng thứ nhứt là phương
tiện của Phật tổ, cái bóng thứ nhì là bàn luận cái phương
tiện đó làm người khác bị dính mắc nhiều hơn.
Tác
giả
có một giấc mơ. Trong giấc mơ đo,ù tác giả là một
pháp sư nổi tiếng thời đo,ù với biện luận trôi chảy
đang giảng kinh Bát Nhã cho hội chúng nghe. Hội chúng rất
đông ngồi nghẹt cả hội trường. Khi giảng đến đoạn
“sắc tức thị không, không tức thị sắc” thì có một
ông lảo ăn xin ăn mặc rách rưới dơ bẩn, khi nảy ngồi
trước cổng chùa chống gậy vào giảng đường. Sau khi đảnh
lể pháp sư, ông lão hỏi: “Bạch Thầy, Thầy có nói sắc
tức thị không, như vậy mùa đông, hồ nước đông đá, Thầy
có nhảy xuống được không?”. Pháp sư rất kinh ngạc cứng
miệng không trả lời được. Qua cơn lúng túng, người pháp
sư đó nhìn lên ánh mắt ông lảo và chợt nhận ra đó là
Bồ tát Long Thọ, người trụ trì kinh này. Để tạ ơn chỉ
bảo của Ngài và để xám hối, vị pháp sư đó tự đổi
tên mình là “Ngu sỉ” và nguyện bỏ nghiệp giảng kinh làm
kẻ đưa đò.
Sắc
bất
dị không thì có thể giảng được. Tánh nước ví như
thể lỏng, tướng nước là thể đông đặc. Ta chờ duyên
họp Xuân đến, đá tan thì nhảy xuống con sông được. Còn
chổ “tức thì” thì phải tự người tu khám phá lấy. Cái
chổ chết đi sống lại. Đạo Chúa dùng baptism để nhắc
lại sự việc đó. Nhưng rất tiếc là về sau, các tín đồ
đặt nặng nghi lể mà quên đi cái ý nghỉa ban đầu.
Phật dơ cành hoa lên, ngài Ca Diếp liền tượng ứng nở một
nụ cười. Đến đó chính Phật cũng dùng sự im lặng hoặc
nếu mở miệng nói thì Phật đã nói: “Trong 49 (7x7) năm thuyết
pháp, ta chưa từng nói một lời”. Rồi ở đoạn kinh kế
tiếp của kinh này, Phật phủ nhận những pháp môn Phật dạy
đệ tử tu.
Cảm
xúc
(thọ), cảm tưởng (tưởng), suy tưởng (hành) và trí
nhớ (thức) đều như vậy. Theo bà Barbara Ann Brennan tác giả
của quyển sách Light Emerging, thì qua thần nhản bà ta thấy
con người có 7 lớp (level) hào quan (auric field). Lớp gần thân
thể nhứt được gọi là “physical sensation” tương đương
với thọ, lớp kế tiếp là “emotions with respect to self”
tương đương với tưởng, hai lớp kế tiếp là “rational
mind” và “relations with others” đại khái tương đương với
hành, 3 lớp còn lại “Divine will within”, “Divine love”,
“Divine mind, serenity” có thể tương đương với thức, cái
thức này gần gủi với cái biết của Tuệ Giác bao gồm trí
(Divine will), bi (Divine love) và định/Không (Divine serenity). Nếu
dịch thức = trí nhớ = trí biết thì có thể gần gủi hơn
với sự nhận xét của bà Brennan. Theo bà ta nhận xét thì
những lớp hào quang này chỉ khác nhau bằng sự rung động
(vibration), càng xa thân vật chất thì rung động càng cao. Tuy
nhiên chúng chỉ là một, vì chúng được nối liền với nhau,
cái này nhập vào cái kia (interpenetrate). Phật chỉ ta đi xa
hơn một bước nửa, vượt khỏi cái một Thượng Đế để
đi đến tánh Không. Như thế mới gọi là rốt ráo, cứu cánh.
Phần
3:
Này ông Xá Lợi Phất! Vậy mọi sự hiện hửu (pháp) không
tướng, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không
thêm, không bớt.
Phần
4: Cho nên trong tánh Không không có Sắc, không có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không
có hình tướng, âm thanh, mùi hương, vị nếm, cảm giác xúc
chạm, dối tượng của ý (pháp); không có thế giới của
mắt cho đến không có thế giới của ý nghĩ; không có vô
minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già
chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập,
diệt, đạo; không có trí huệ cũng không có chứng đắc.
Phần
này Phật giới thiệu cái thật tướng của vủ trụ (pháp)
không có thể thấy bằng hình tượng được. Hình tượng
đây được hiểu rộng bao gồm vật chất (material) và những
hiện tượng tâm lý. Để tránh sự hiểu lầm văn tự, thật
tướng còn được gọi là “tánh Không”. Hai đoạn
này có thể coi như cục tẩy tâm linh (spiritual eraser) tẩy
sạch tất cả những hiện tượng vật lý (tướng sanh/diệt,
nhơ/sạch, thêm/bớt), hiện tượng tâm lý (thọ, tưởng, hành,
thức), hiện tượng sinh lý (thân tứ đại và những hoạt
động của nó hay những biến cố liên quan đến nó như sanh,
lảo, bịnh, tử), và những hiện tượng trí thức (4 diệu
đế, trí huệ, chứng đắc). Khi không còn mảy may hiện tượng
thì tánh Không sẽ hiện ra.
Ta
nên
hiểu đoạn 4 là phương tiện phá chấp ngã và ngã sở
để giới thiệu tánh Không. Nếu giải nghỉa kẹt trên danh
từ thì đoạn 4 mâu thuẩn với đoạn 2. Ở đoạn 2, Phật
nói: “sắc tức là không”, rồi đoạn 4 lại nói: “trong
tánh Không không có sắc”. Như vậy chẳng lẻ Phật tự mâu
thuẩn với chính mình? Phải hiểu ở đây cái “sắc” ở
đoạn 4 là “chấp sắc”.
Trên
phương
diện thực nghiệm dòng Tuệ Giác, người tu sẽ trải
qua 3 giai đoạn:
Giai
đoạn 1. Có một thiền sư diển tả giai đoạn này như sau:
“Trước khi tu, ta thấy núi sông là núi sông”. Giai đoạn
này là giai đoạn ta sống với ngã và ngã sở. Ta không có
quan hệ thành thật đối với ta và người đối diện ta.
Thí dụ ta là một thương gia chào đón vui vẻ người khách.
Ta dùng sự vui vẻ đó để câu khách đem cái lợi về cho
ta, chớ ta không thực sự vui vẻ vì ta mến khách, vì khách.
Phân tâm học gọi quan hệ đó là “object relation”. Ta coi
người khách như cái phương tiện (object) đem cái sự thỏa
mản (tiền) đến cho ta. Ta dối người. Ta không có quan hệ
thành thật đối với chính ta khi ta không nhìn nhận sự thật
đó (denial) vì trong thâm tâm ta lo sợ khách biết được “tâm
đen” của ta mà không tới nửa. Ta dối ta, tự cho rằng ta
là thương gia bạch thiệp.
Giai
đoạn 2. “Trong lúc tu, núi sông không phải là núi sông”.
Đây là cái ý của phần 3 kinh này. Cái “không phải” đây
dùng để phá cái ngã sở, cái “không phải” này chưa phải
là cứu kính. Nói theo phân tâm học, cái “không phải” này
dùng để phá cái “object relation” hay quan hệ ích kỷ của
ngã (ego). Trong giai đoạn này người tu không thấy được
sự thật nơi đối tượng minh mà chỉ nhằm phá cái ảo tưởng
mà ngã, với nhu cầu ham muốn, phóng lên đối tượng (projection).
Phật
dạy cách dùng tưởng quán (visualization) để thấy pháp duyên
hợp nên tự tánh là không thật. Khi ta thấy tự tánh không
thật (huyển có) thì ta không tham đấm những gì chưa được
và tức giận khi mất. Lúc đó hành giả lưng chừng giửa
cái “không phải, không thật” và hiểu man mán tánh Không
chớ chưa nhận ra được tánh Không. Đây là giai đoạn lau
chùi gương cho nó sáng.
Giai
đoạn này có thể chia ra 3 lớp (level) từ thô đến tế: “mài
thỏi sắt thành kim”, “giọt nước rơi đá mòn” và “cánh
chim phớt qua đá mòn”. Lớp thứ nhứt là khi hành giả còn
thấy có cảnh thật, tâm thật để dụng công. Giai đoạn
này dụng công rất nhọc nhằn. Lớp thứ nhì là cái chấp
có “mềm” hơn như giọt nước. Lớp thứ ba là cái chấp
có “nhẹ” hơn như cánh chim phớt qua. Càng tu sâu, dụng
công càng ít nhưng công dụng lại càng nhiều.
Giai
đoạn 3: “Sau khi tu, núi sông là núi sông”. Đây là cái
giai đoạn mà Phật diển tả ở phần 2 kinh này: “sắc tức
thị không, không tức thị sắc”. Hành giả nhìn đời sống
không qua lăng kính tham, sân, lo âu của ngã mà nhìn cuộc đời
một cách trong suốt. Với sự trong suốt của dòng Tuệ Giác,
hành giả thông cảm được nổi khổ của muôn loài. Đây
là giai đoạn núi sông là núi sống. Đây là cái tiếng “thế
à” ngây ngô mộc mạc nhưng chứa đựng tràn trề tình thương
của thiền sư Hakuin bị cô gái có chửa hoang vu khống Ngài.
Ngài chỉ nói “Thế à?” rồi nhận đứa bé về nuôi.
Phần
5: Vì không có chỗ chứng nên Bồ Tát y theo Tuệ Giác Vô Thượng
mà tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ
hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh
Niết Bàn.
Vì
nguyên
nhân dụng công tu không có sở đắc nên kết quả được
viên mảng (Niết Bàn). Đây là ứng dụng mầu nhiệm của
kinh này. Khi ta thấy ta có chổ chứng đắc thì theo đó cái
lo sợ nó hiện theo. Khi ta muốn bảo vệ sở đắc của ta,
ta sẽ không ngần ngại chê bai người không chấp nhận sở
đắc của ta (sân). Ta còn muốn được nhiều người theo ta,
tôn kín ta (tham). Ta càng muốn bảo vệ thì ta càng có nhiều
đối thủ thách thức ta. Như vậy lo sợ càng tăng, ta dần
dần mất đi sự tự tại (tâm bị ngăn ngại).
Sợ
là một loại nội kết có từ ngàn đời. Mọi sinh vật đều
muốn bảo vệ sự sống, đó là bản năng sinh tồn. Ở thế
giới động vật, sự sinh tồn của loài này dựa trên cái
chết của loài khác. Ăn và bị ăn. Con thú săn mồi thì sợ
đói, con mồi thì sợ bị giết. Nói chung, cả hai con thú đều
sợ chết.
Vượt
ra khỏi cái sợ (fear) không phải là chuyện dể khi mang cái
thân vật chất. Con người còn thêm một nộâi kết nửa là
lo (anxiety). Khi lo, ta hay tưởng tượng ra hoàn cảnh xấu mặc
dù nó chưa đến. Phật gọi là điên đảo, mộng tưởng (suy
nghỉ trong mê). Nhiều người lầm tưởng lo là chuẩn bị.
Thực ra y khoa cho ta biết, khi lo ta tạo cơ hội cho nhiều bịnh
tật xâm lấn thân và tâm ta.
Sự
vật vô thường biến đổi không dừng. Ta sẽ không đối
phó kịp thời với sự biến đổi đó khi ta trụ trên một
tư tưởng. Người tướng quân ngưởng mộ một đường kiếm
của ông ta, chỉ thích dùng đường kiếm đó, ra trận sẽ
dể bị thương vì ông ta không kịp đở những đòn kiếm
khác nhau của đối phương.
Sự
chuẩn
bị thật sự là buôn xả mọi tư tưởng lo âu bằng
cách để trôi thông thả trên dòng Tuệ Giác, ta nhìn những
tư tưởng lo âu mà không theo chúng. Lúc đó tâm ta mới được
không ngăn ngại. Khi để tâm không ngăn ngại thì ta có khả
năng mầu nhiệm đáp ứng và giải quyết mọi phiền nảo.
Đó là nguyên nhân của Niết Bàn.
Phần
6: Chư Phật trong 3 đời cũng y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, được
đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu
giải
thích qua chử nghỉa thì ta lại mắc phải một mâu thuẩn
nửa. Đoạn 5, Phật nói không có chổ để chứng, rồi đoạn
này lại nói chẳng những một đời mà tới 3 đời chư Phật
đều được quả Phật.
Đoạn
này Phật ấn chứng Tuệ Giác. Đây chính là dòng sông dẩn
3 thế hệ Phật ra biển Chân Không. Đứng trên phương diện
sắc, trí khôn hiểu biết thay đổi theo thời gian. Thí dụ
như trong y khoa, cách trị liệu một chứng bịnh 10 năm về
trước sẽ khác 10 năm sau đó. Với những phát minh cập nhật
sự hiểu biết khoa học thay đổi liên tục.
Nói
về
tôn giáo, phương tiện dùng những thí dụ hay danh từ
thích hợp với xã hội văn hóa thời xưa có thể không đúng
cho thời nay nhưng cái chân lý mà danh từ và thí dụ phản
ảnh thì lúc nào vẫn như vậy. Cái đối tượng của tham
sân si thay đổi theo thời gian nhưng cái sự thật tâm lý căn
bản tham sân si của loài người thì lúc nào cũng còn như
vậy. Thí dụ thời xưa đánh giặc bằng gươm kiếm, thời
nay thì bằng bôm đạn nhưng cái sân của kẻ gây ra chiến
tranh thì vẫn như vậy. Tuy nhiên khi để trí khôn làm nô lệ
cho tham sân si thì sự tàn phá của tham sân si càng mảnh liệt
hơn.
Nếu
ta
sống với dòng Tuệ Giác thì sẽ thấy rằng 3 thời hiện
ra khi có suy nghỉ giáng đoạn chia cắt quá khứ, hiện tại,
tương lai. Khi trở về nhất tâm (Không)
thì thời gian không còn nửa. Nói một cách khác, khi ta sống
với dòng Tuệ Giác, thời gian là hiện thời vô tận. Rồi
tiến thêm một bước nửa, không gian với thời gian không
khác. Lúc đó ta sẽ hiểu sanh tử là một ảo giác (illusion)
giống như là một giấc mơ vậy.
Những
nghiên cứu phân tâm học cho ta thấy rằng khi thay đổi hiện
tại bằng sự nhận thức thì quá khứ và tương lại sẽ
thay đổi theo. Qua những buổi phân tích tâm lý, nếu người
được phân tích nhận ra được những nội kết tiềm ẩn
(complex) ngay lúc đó thì những nội kết của quá khứ sẽ
tan mất và không còn ám ảnh hiện tại và tương lai nửa.
Ta không thể dùng lý trí (intellectualization) để hiểu nội
kết được, làm như vậy nội kết không được chửa lành.
Ngoài ra càng dùng lý trí nhiều thì nội kết lại càng khó
chửa. Người ta hay dùng lý trí để kháng cự lại (resistance),
không dám đối diện với nội kết.
Phân
tâm học đã chứng minh qua kết quả thực nghiệm rằng: Khi
một nội kết tiềm ẩn (complex) được phát hiện qua những
buổi phân tích tâm ly,ù thì kết quả nhận thức hiện tại
có khả năng thay đổi những nội kết ở quá khứ và tránh
được những hoàn cảnh liên quan đến nội kết đó trong
tương lai. Nếu quý vị quan sát thì sẽ thấy nhiều trường
họp rằng đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh gia đình rượu
chè, có nhiều bạc đải về tình cảm và thể xác, mặc dù
về lý trí muốn xa lánh những hoàn cảnh đó nhưng khi lớn
lên, chúng lại xây dựng trở lại những hoàn cảnh y chang
như vậy cho mình và gia đình mình. Chỉ khi nhận thức được
nội kết tiềm ẩn (hiện tại) thì người đó mới có khả
năng thay đổi quá khứ và tương lai. Nói tóm lại, ở tâm
lý 3 thời diểm được nối liền với nhau. Ta thay đổi hiện
tại thì quá khứ và tương lai thay đổi theo.
Nơi
mà phân tâm học gặp gở với Tâm kinh là khi giác ngộ, thời
gian tâm lý không có 3 thời. Đó cũng là khái niệm “đốn
ngộ” của thiền tông. Vì cách tu của tâm kinh không nương
tựa trên tập quán, ta không cần dùng nhiều thời giờ để
làm mỏng dần những thói quen xấu do nghiệp vô minh bồi đắp,
ta cũng không cần tránh hoàn cảnh bất tiện. Khi “giác ngộ”
ở hiện tại thì quá khứ vô minh liền tan rả và cái nguyên
nhân sanh ra đau khổ của tương lai cũng bị mất luôn.
Khi
ta
“giác ngộ” uống rượu sanh bịnh tật thì những nguyên
do thúc đẩy ta uống rượu trong quá khứ không còn đủ sức
lôi cuốn ta và không diển lại ở hiện tại. Những suy nghỉ
dẩn đến uống rượu trong tương lai cũng mất luôn. Còn nếu
ta bị bắt buộc không uống rượu, thì ta có thể tránh được
thói quen uống rượu chỉ một thời hạn ngắn vì cái nguyên
nhân vô minh dẩn ta đến con đường nghiện rượu vẫn còn
đó và đang chờ đợi cơ hội thuận tiện để vùng lên.
Tóm
lại
đoạn kinh này quy 3 thời về một “ở đây và hiện
giờ”. Đó là nguyên nhân của Phật quả.
Phần
7: Vì thế nên biết rằng Tuệ Giác Vô Thượng là chú có
thần hiệu lớn, là chú soi sáng lớn, là chú cao cả hơn các
chú khác, là chú không còn chú nào cao hơn, chú trừ được
hết thảy khổ, chú chân thật không giả dối. Sự mầu nhiệm
của chú đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô
Thượng rằng: “Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la
tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
Đoạn
này là một mâu thuẩn gây ít nhiều khó chịu cho nhiều vị
nghiên cứu và giảng kinh này. Đoạn đầu kinh Phật đề cao
trí tuệ, ở đoạn cuối thì lại đề cao thần chú hay linh
ngử, như vây không theo luật logic. Có nhiều vị tìm tòi và
giải nghỉa linh ngử trên để hợp lý hóa kinh, để cho đầu
đuôi được sáng tỏ.
Tuy
nhiên, khi ta nghiên cứu và hiểu kinh ngắn gọn này được
cô động lại từ 25.000 bài kệ và nếu hình dung kinh là một
báu vật nhỏ tinh vi được chạm trổ tỉ mỉ, thì mỗi đường
nét trạm đều phải có ý nghỉa cốt yếu của nó thì nó
mới được lưu giử.
Cái
công hiệu của thần chú là chổ “nhứt tâm bất loạn”,
đến trạng thái tâm lý đó thì không có một vọng niệm
nào lọt vào được. Khi được như vậy thì mọi tai ách sẽ
qua hết. Còn nếu ta dùng thần chú như mấy ông thầy bùa,
một cách mê tín thì chắc chắn là kinh này không linh nghiệm.
Khi khởi tâm muốn hiểu thần chú thì tâm ta động và thần
chú mất linh nghiệm. Truyền thuyết Phật giáo kể lại rằng
có một bà lảo niệm chú lâu năm đến độ tối đến dân
làng ở chung quanh thấy nhà bà ta sáng rực hào quang. Một
hôm, con bà ta là một pháp sư nổi tiếng nhận xét rằng mẹ
mình đọc sai thần chú và chỉ bà cách phát âm cho đúng.
Đêm đó dân làng không còn thấy ánh hào quang nửa.
Mỗi
sáng khi đi làm việc, chúng ta lái xe đến sở làm. Chúng ta
đâu cần hiểu máy xe hoạt động như thế nào và hàng ngàn
chi tiết liên quan đến sự hoạt động của chiếc xe. Chúng
ta chỉ cần chăm chú lái xe để đến sở an toàn. Lái xe trong
tỉnh thức, lái xe trong thực tại là ta dùng được “thần
chú chuyên chở” của xe. Khi tâm lo ra, lìa cái thực tại
của việc lái xe, thì tai nạn khổ ách sẽ dể xảy ra. Cũng
như thế, khi ta làm mọi việc của đời sống hàng ngày trong
tỉnh thức thì cái “chú Tuệ Giác” có công hiệu an tâm
rất lớn.
Diệu
dụng của dòng Tuệ Giác là như thế: sự mầu nhiệm đưa
ta ra khỏi cảnh khổ đau phát nguồn từ sự đơn giản tột
cùng. Đơn giản đến nổi một niệm (suy nghỉ) cũng không
có chổ vào. Cái chổ vào là cái khoảng Không giửa 2 niệm.
Phải lanh lẹ lắm mới thấy được cái điểm tương ứng,
tương đồng đo.ù
Vì
thế, để giúp những người có nhiều sở đắc qua được
“bờ bên kia”, Phật nói linh ngử: “Yết đế yết đế,
ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
Bài
kệ kết thúc kinh:
Như
Lai nhấc cành hoa
Ca
Diếp
chúm chím cười
Hôm
qua
như ngày nay
Ánh
sáng
vẫn long lanh
Một
tiếng cười vở đêm khuya
Hàng
ngàn
vì sao rơi rụng
Mặt
trời
ban đêm chói chan
Tại
sao
phải đợi ngày mai.
Ngu
Sĩ
Tusito - Thái Minh Trung, MDhttp://www.thuvienhoasen.org