Số
3
BA CẢM THỌ
(tam thọ)
Cảm thọ
tức là cảm giác, là trạng thái hay kinh nghiệm tâm lí phát sinh
khi nội
thân tiếp xúc với ngoại cảnh. Duy Thức Học phân biệt có ba loại
cảm thọ:
1. Cảm thọ khó chịu (khổ thọ):
những cảm giác khó chịu, buồn phiền, đau khổ sinh ra khi ta tiếp
xúc với
những hoàn cảnh ngang trái, những bạo hành đày đọa.
2. Cảm thọ dễ chịu (lạc thọ):
những cảm giác dễ chịu, vui thích, sung sướng sinh ra khi ta
tiếp xúc
với những hoàn cảnh thuận lợi, hợp ý, thích thú.
3. Cảm thọ trung tính (xả thọ –
bất
khổ bất lạc thọ): những cảm giác trung hòa, không dễ chịu
cũng không
khó chịu, không đau khổ cũng không vui sướng, hoặc không có cảm
giác nào
cả.
BA CẢNH
(tam cảnh)
“Cảnh”
ở đây là chỉ
cho đối tượng của nhận thức; vì vậy nó có liên hệ mật thiết với
“lượng” là hình thái của nhận thức. (Xin xem mục
“Ba Hình
Thái Nhận Thức” ở sau.) Những
tên khác của “cảnh” là
trần, tướng, tướng phần, sở
duyên – tất cả đều có
nghĩa là
đối tượng của nhận thức.
Cảnh có 3 loại:
1.
TÁNH CẢNH:
là tự thân hay thật tướng của sự vật(1).
Ở đây, sự vật hiện hữu trong đúng bản tính chân thật của chúng,
không
bị bóp méo, xuyên tạc hay cắt vụn bởi sự phân biệt, so sánh, suy
luận
hay phán đoán của nhận thức. Có 2 loại tánh cảnh:
a) Vô chất
tánh cảnh: là
bản thể chân thực của thực tại, cũng tức là chân như hay pháp
thân.
Cảnh giới này không thể đạt tới bằng các thức, mà chỉ có
thể bằng
tuệ giác – tức trí tuệ giác ngộ, là loại nhận thức trực
tiếp,
không phân biệt. (Loại trí tuệ này khi đã phát sinh thì không
còn rơi
vào chỗ nhận thức sai lạc nữa, cho nên nó còn được gọi là “trí
vô
lậu” hay “trí bát nhã”.)
b) Hữu chất tánh cảnh:
là
tướng trạng của vạn pháp phát hiện từ vô chất tánh cảnh.
Sự phát
hiện của chúng tùy thuận theo luật tương quan duyên khởi. Trong
khi
vô chất tánh cảnh ở trên chỉ làm đối tượng cho tuệ giác thì
hữu chất
tánh cảnh ở đây lại là đối tượng của “chân hiện lượng”. (Xin
xem mục “Ba Hình Thái Nhận Thức” ở sau.)
2. ĐỚI CHẤT CẢNH: chính là
những
ý tượng được cấu tạo từ hữu chất tánh cảnh
để làm
đối tượng cho bảy thức (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý và
mạt-na thức),
nhưng quan trọng hơn hết là ý thức. Nói cách khác, thức
đã căn cứ
trên thế giới hữu chất tánh cảnh (tức là tướng trạng của
vạn
pháp) để tạo nên thế giới đới chất cảnh (tức là
các
ý tượng) và nhận thức thế giới này như là thế
giới
tánh cảnh.
3. ĐỘC ẢNH CẢNH: là thế
giới ảnh
tượng do ý thức tái tạo hoặc sáng tạo khi nó hoạt động độc lập,
không có
sự cộng tác của 5 thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt và thân
thức) -
nghĩa là khi không có cảm giác. Vì vậy, độc ảnh cảnh chỉ làm đối
tượng
cho ý thức mà thôi. Đó là thế giới của hồi tưởng, tưởng tượng và
mộng
mị.
Có 2 loại độc ảnh cảnh:
a) Hữu chất độc ảnh cảnh:
là những ảnh tượng của tri giác và ý tượng (đới chất cảnh) đã
từng là
đối tượng của ý thức, được ý thức tái tạo để rồi lại lấy đó
làm đối
tượng cho chính nó. Những ảnh tượng này biểu hiện một cách trung
thành
hay đôi khi có thay đổi chút ít đối với những tri giác và ý
tượng cũ.
Chẳng hạn, khi ta hồi tưởng lại cái giờ phút hãi hùng trên biển
cả khi
chiếc ghe máy của ta bị giặc cướp hoành hành trong chuyến vượt
biên mười
mấy năm về trước, thì những hình ảnh đang lần lượt diễn lại
trong trí
nhớ của ta lúc này chính là thế giới của hữu chất độc ảnh
cảnh.
b) Vô chất độc ảnh cảnh:
là
những ảnh tượng hoàn toàn do ý thức tạo dựng ra. Chẳng
hạn, khi
ta mơ tưởng về một cuộc sống huy hoàng cho chính ta trong tương
lai,
hoặc tưởng tượng về đời sống của một giống người ở tận một tinh
cầu xa
xôi nào đó, tất cả những hình ảnh tưởng tượng “viển vông” ấy đều
là
vô chất độc ảnh cảnh.
CHÚ THÍCH
(1) Các danh từ thực tại, sự vật,
vạn
pháp, vạn hữu, vạn vật, vạn sự vạn vật đều cùng mang một ý nghĩa
như
nhau.
BA CÕI
(tam giới)
Ba cõi
cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy
rằng, tất cả
mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính),
nhưng vì
bị các kiến chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không
tự phát
hiện và thắp sáng được khả năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn
mãi trong
ba cõi.
Còn
ở trong ba cõi là
còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị giác ngộ
thì mới
được giải thoát ra khỏi ba
cõi
– tức là thoát khỏi vòng
sinh
tử luân hồi. Ba cõi đó
là:
1.
Cõi Dục (Dục
giới). “Dục” là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực
phẩm, ước
muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì
đam mê
theo các “thú vui” về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống,
chạm xúc
và dâm dục cho nên luôn luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và
khổ đau.
Các loài chúng sinh trong cõi Dục này gồm có: Người, A-tu-la,
Địa-ngục,
Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Trong 5 loài này thì loài Người có tâm ý
phát triển
cao hơn hết, là cảnh giới có khổ đau và hạnh phúc lẫn lộn. Bởi
vậy, các
vị Bồ-tát thường chọn sinh vào thế giới loài Người, nơi có nhiều
hoàn
cảnh thuận lợi, để phụng sự chúng sinh và tu tập các pháp môn
cần thiết
sau cùng để thành tựu quả Phật. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi
Dục này
còn có 6 cõi
Trời, tuy hưởng
được nhiều
phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ,
và trí
tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có
hình
sắc, nhưng phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường
không
thể trông thấy được. Họ đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam,
nữ, với
đầy đủ các thứ dục vọng như con người. Sáu cõi Trời của cõi Dục (Lục
Dục thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứ-vương,
Đao-lợi
(cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma,
Đâu-suất, Hóa-lạc và
Tha-hóa-tự-tại.
2.
Cõi Sắc (Sắc
giới). “Sắc” là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của
các vị
Phạm Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện
v.v...,
nhưng rất vi tế, đẹp đẽ, tinh diệu. Các vị trời ở đây không có
tướng nam
nữ, không có tham dục như ở cõi Dục, chỉ sống trong thiền định.
Tùy theo
mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được chia làm 4 bậc, gồm
18 cõi
Trời:
a) Cõi Sơ-thiền
(Sơ-thiền
thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy tùng
của các
vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị
Phạm
Thiên), Đại-phạm
(các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất
trong
cõi Sơ-thiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác
nhau,
nhưng cách suy nghĩ thì đều giống nhau, và trong tám thức thì
không còn
có tị thức và thiệt thức hoạt động.
b) Cõi Nhị-thiền
(Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị
Phạm Thiên
có chút ít ánh sáng),
Vô-lượng-quang (các vị
Phạm
Thiên có ánh sáng vô cùng), Quang-âm (các vị Phạm Thiên
có ánh
sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh sáng. Các vị
Phạm Thiên
ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì khác
nhau, và
trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm
giác
đều không còn hoạt động.
c) Cõi Tam-thiền
(Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào
quang nhỏ),
Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có
hào
quang không xao động). Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh,
cả thân
và tâm của các vị Phạm Thiên đều hoàn toàn giống nhau.
d) Cõi Tứ-thiền
(Tứ thiền
thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng),
Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng
phước báo
rộng lớn), Vô-phiền
(hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh),
Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ), Thiện-hiện (hoàn toàn
tự tại),
Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng), Vô-tưởng
(không còn
tư tưởng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống
trong cảnh
giới thiền định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm
thức cảm
giác mà cả ý thức cũng không còn hoạt động nữa.
3.
Cõi Vô-sắc
(Vô-sắc giới).
Cõi này hoàn toàn
không còn có vật chất,
hình thể, cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng,
mà chỉ
thuần có nghiệp thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm
diệu. Đây
là cõi cao nhất trong ba cõi, gồm có 4 cõi Trời:
a) Cõi
Không-gian vô-biên (Không
vô biên xứ
thiên):
Cảnh giới của các vị trời chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt
được và
đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là không vô biên
xứ
định.
b) Cõi
Tâm-thức vô-biên (Thức
vô biên xứ
thiên):
Cõi chỉ thấy có tâm thức vô biên, là cảnh giới của chư thiên đã
đạt được
và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là thức
vô biên xứ định.
c) Cõi
Vô-sở-hữu (Vô
sở hữu xứ thiên):
Cõi này không còn có bất cứ một hiện tượng gì, là cảnh giới của
chư
thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi
là
vô sở hữu xứ định.
d) Cõi
Phi-tưởng phi-phi-tưởng
(Phi tưởng phi
phi tưởng
xứ thiên): Cõi này
không
có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh
giới của
chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định
gọi là
phi tưởng phi
phi tưởng
xứ định.
Trong sách Đức Phật và Phật
Pháp
(Phạm Kim Khánh dịch), hoà thượng Narada Maha Thera có nói: “Nên
ghi
nhận rằng đức Phật
không
nhằm mục đích truyền bá một lí thuyết về vũ trụ. Dầu những cảnh
giới
trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lí của
Ngài.
Không ai bị bắt buộc phải tin một điều nào, nếu điều ấy không
thích hợp
với sự suy luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lí
trí hữu
hạn của ta không thể quan niệm được, thì điều ấy cũng không phải
hoàn
toàn là chính đáng.”
BA CON DẤU
(tam ấn - tam pháp ấn)
Con dấu
dùng để chứng nhận một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin
tưởng. Vậy
từ ngữ “con dấu” (ấn)
ở đây có nghĩa là chân
lí, là
điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi bậc Giác Ngộ (Phật)
mà người
học trò của Phật phải tin tưởng, phải thường quán niệm để có
được một
nhận thức sáng tỏ về thực tại. Tất cả giáo lí nào phát biểu đúng
với nội
dung ba con dấu này đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức không
phù hợp
với ba con dấu này đều là sai lạc, tà ngụy.
A) Trong các kinh luận, ba con
dấu thường
được nói tới là:
1. Tất cả mọi sự vật đều biến đổi
không
ngừng (chư hành vô thường).
2. Tất cả mọi sự vật đều không có
bản ngã
chân thật (chư pháp vô ngã).
3. Bản thể của vạn hữu là vô phân
biệt,
lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm (niết
bàn tịch
tịnh).
Con dấu 1 và con dấu 2 (vô
thường và
vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn hữu, và
con dấu 3
(niết bàn) nói lên bản thể của vạn hữu.
B) Mặt khác, theo kinh Pháp Ấn
thì
ba con dấu này như sau:
1. Không. Bản thể của mọi
sự vật
là không. “Không” ở đây có nghĩa là mọi sự
vật đều
hiện hữu theo nguyên lí duyên sinh, không có tự ngã.
2. Vô tướng. Vì là không
cho nên bản thể của vạn hữu là vô niệm – tức là không thể
dùng
nhận thức phân biệt và khái niệm để nhận biết, mà phải dùng trí
bình
đẳng, vô phân biệt mới thấy rõ được.
3. Vô tác. Trong nhận thức
bình
đẳng, vô phân biệt (tức trí tuệ giác ngộ) đó, sẽ không còn có sự
phân
biệt về chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể
chứng đắc
và đối tượng chứng đắc.
“Không - vô tướng - vô tác”
là ba giai đoạn liên tục, toàn vẹn của công phu thiền quán. Đó
là giáo
lí căn bản của Phật giáo, Kinh Pháp Ấn nói: “Pháp ấn
này chính
là ba cánh cửa đi vào cảnh giới giải thoát, là giáo lí căn bản
của chư
Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi, về của chư Phật.”
BA CON ĐƯỜNG (hay BA CỖ XE)
(tam thừa)
Kinh Pháp Hoa nói: “Thật
ra chỉ
có một con đường (nhất thừa), nhưng chư Phật tùy căn cơ mà dùng
phương
tiện, nói có ba con đường (tam thừa)...”
1. Con đường nhỏ (hay cỗ
xe nhỏ –
tiểu thừa) tức là con đường Thanh-văn (Thanh-văn thừa).
2. Con đường vừa (hay cỗ
xe vừa –
trung thừa) tức là con đường Duyên-giác (Duyên-giác
thừa).
3. Con đường lớn (hay cỗ
xe lớn –
đại thừa) tức là con đường Bồ-tát (Bồ-tát thừa).
GHI CHÚ:
Xin xem lại mục “Hai Con Đường” ở
trước.
BA CỬA GIẢI THOÁT
(tam giải thoát môn)
Do ba cửa (môn) này
mà hành
giả đạt tới được cảnh giới giải thoát, tự tại, an lạc. Ba cửa đó
là
không, vô tướng và vô tác. (Xin xem lại mục
“Ba Con
Dấu” vừa trình bày ở trên.)
BA HÌNH THÁI NHẬN THỨC
(tam lượng)
“Lượng”
là hình thái hay phương cách nhận thức, có 3 loại:
1. Nhận thức trực tiếp (hiện
lượng):
nhận thức đối tượng một cách trực tiếp, thuần túy cảm giác,
không có suy
luận, diễn dịch, so sánh hay phán đoán. Đây là phương cách nhận
thức của
năm thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tị, thiệt và thân thức),
đôi khi có
sự cộng tác của thức thứ sáu là ý thức – nhưng vẫn là
trực tiếp,
không có suy luận hay phán đoán.
Hình thái nhận thức này có khi
đúng và có
khi sai. Khi đúng thì gọi là chân hiện lượng, khi sai thì
gọi là
tợ hiện lượng. (“Tợ” nghĩa là trông giống như cái đó chứ
không
phải chính thực là cái đó.)
2. Nhận thức so sánh (tỉ
lượng):
nhận thức mang tính cách suy luận, diễn dịch, so sánh, hay phán
đoán.
Đây là phương cách nhận thức của thức thứ sáu – ý thức,
có khi
đúng và cũng có khi sai. Khi đúng thì gọi là chân tỉ lượng,
khi
sai thì gọi là tợ tỉ lượng.
3. Nhận thức sai lầm (phi
lượng):
Thực ra, không có riêng một hình thái nhận thức độc lập nào gọi
là
“phi lượng”. Cho nên, phi lượng chẳng qua chỉ là “tợ
hiện
lượng” và “tợ tỉ lượng” ở trên vừa nói – tức là nhận
thức sai
lầm, trông giống như cái đó chứ không phải chính là bản thân cái
đó. Duy
Thức Học cho rằng, thức thứ bảy (mạt-na) luôn luôn nhận
thức sai
lầm về sự tồn tại của một bản ngã chân thật, bất biến, cho nên
hình thái
nhận thức của nó luôn luôn là phi lượng.
BA MÔN HỌC GIẢI THOÁT
(tam học - tam vô lậu học)
Mục đích của người tu học Phật là
đạt tới
thành quả giác ngộ, an lạc và giải thoát cho chính mình và cho
cả mọi
người. Mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi nào hành giả thể
nghiệm trọn
vẹn 3 phép học là Giới, Định và Tuệ.
1. Giới, hay giới luật,
trên căn
bản nó có nghĩa là răn cấm và ngăn ngừa, tức là cấm đoán
làm các
điều xấu về thân, khẩu và ý, để ngăn ngừa những hậu quả
tai hại,
xấu xa. Nhưng đó mới chỉ là ý nghĩa tiêu cực của nó. Trên phương
diện
tích cực, giới còn có nghĩa là sự thể hiện nếp
sống tỉnh
thức, thường trực đặt tâm ý trong chánh niệm, thực hiện các hành
động cụ
thể, chính đáng, nhằm xây dựng sự sống, đem lại lợi ích và an
lạc cho
muôn loài.
Theo cả hai ý nghĩa trên thì giới
đích thực là chất liệu sinh hoạt tâm linh căn bản của người tu
học Phật.
Nó có công năng chuyển hóa bản thân cho chính hành giả và tạo
không khí
hòa điệu giữa hành giả với môi trường sống chung quanh. Vì vậy
mà Kinh
Niết Bàn nói: “Giới là những pháp lành nâng chịu cho
hành giả
một cách vững vàng, chắc chắn, như những bậc thang bằng đá...”;
hoặc: “Hành giả nên hành trì giới luật cho bền vững, coi đó
như cái
phao nổi dùng bơi qua biển cả.” Kinh Di Giáo cũng
dạy:
“Này quí vị khất sĩ! Sau khi Như Lai diệt độ, quí vị hãy quí
trọng và
tôn kính giới luật, như ở nơi tối tăm mà thấy được ánh sáng, như
người
nghèo mà gặp được của báu. Phải xem giới luật chính là thầy của
quí vị,
không khác gì Như Lai còn trụ thế.”
Giới
thường là những điều luật do Phật
chế ra
– gọi là “chế giới” – cho các chúng tại gia (5 giới),
sa
di (10 giới), tì kheo (250 giới), tì kheo ni (348
giới),
và bồ-tát (34 giới cho chúng tại gia và 58 giới cho chúng
xuất gia).
Nếu hành trì nghiêm túc các “chế giới” này thì hành giả sẽ
có được
một tác phong đứng đắn, một tư cách cao thượng, một tâm niệm
trong sáng,
ngay thẳng, đáng làm gương mẫu và chỗ nương tựa hoàn toàn tin
cậy cho
mọi người. Đó là ý nghĩa của giới điều gọi là “nhiếp luật
nghi”
(nghiêm trì giới hạnh), một trong 3 nhóm giới tổng quát của
đại thừa
(tam tụ tịnh giới) mà người tu học theo hạnh Bồ-tát
cần phải
hành trì.
Hai giới điều khác của “tam tụ
tịnh giới”
là “nhiếp thiện pháp” (làm mọi điều lành) và “nhiêu
ích hữu
tình” (làm lợi ích cho tất cả chúng sinh). Khác với loại
“chế giới”
ở trên, “tam tụ tịnh giới” là những giới luật đích thực – gọi là
“tự
tính giới” – của những hành giả phát tâm tu hạnh Bồ-tát mà
mọi ý
tưởng, ngôn ngữ và hành động đều nhằm đem lại lợi ích và an lạc
cho tất
cả chúng sinh.
2. Định, là sự tập trung
tâm ý
bằng cách sống trọn vẹn trong chánh niệm. Con người thường bị
hoàn cảnh
chi phối, tâm ý luôn luôn bị phân tán, cho nên cứ mải sống trong
loạn
động, quên lãng, đến nỗi nhiều khi không còn nhận biết mình là
ai, đang
làm gì, ở đâu! Bởi vậy, sự tu “giới” như trên vừa nói, sẽ
giúp
cho hành giả tỉnh thức, tâm ý được thắp sáng, các vọng niệm sẽ
bị tiêu
trừ. Hành giả sẽ thường xuyên có ý thức sáng tỏ về mình, biết
mình đang
nghĩ gì, nói gì, làm gì. Sự quán niệm thường xuyên ấy sẽ làm cho
sức
mạnh của tâm linh được tập trung và phát triển: đó gọi là định
lực.
3. Tuệ, hay trí tuệ giác ngộ, là
sự nhận
thức sáng tỏ về thực tại, là sự chứng ngộ chân lí của vạn hữu.
Tuệ đạt
được là nhờ có định lực, và đó là mục đích tối hậu của người tu
học
Phật.
Giới - Định - Tuệ
là trình tự của giác ngộ: do Giới sinh Định,
do Định phát Tuệ. Vậy, muốn đạt được trí tuệ giác
ngộ thì
phải tu tập thiền định; muốn có được định lực thì phải nghiêm
trì giới
luật. Không những là trình tự của giác ngộ, mà Giới - Định -
Tuệ
còn là ba yếu tố tương duyên và bất khả phân li của giác ngộ.
Một vị
hành giả đã đạt được tuệ giác thì không thể nào là không có giới
hạnh và
định lực; đã nghiêm trì giới hạnh thì cùng lúc cũng đã có định
lực và
trí tuệ; khi có đầy đủ định lực thì chắc chắn là giới hạnh và
trí tuệ
cũng viên mãn. Như thế tức là trong Giới có đầy đủ Định và Tuệ;
trong
Định có đầy đủ Giới và Tuệ; trong Tuệ có đầy đủ Giới và Định.
Hay nói
khác đi, tu Giới là đồng thời cũng tu Định và Tuệ; tu Định là
đồng thời
cũng tu Giới và Tuệ; và tu Tuệ là đồng thời cũng tu Giới và
Định. Có một
yếu tố là có đủ cả ba yếu tố; thiếu một yếu tố là không có quả
vị giác
ngộ.
Có thể nói, Giới - Định - Tuệ
là
nội dung căn bản và tổng quát nhất của tất cả các pháp môn để
đưa hành
giả đến đạo quả giác ngộ, giải thoát.
BA NỌC ĐỘC
(tam độc)
Đây
là ba loại
phiền não gốc rễ
luôn luôn đeo dính và thúc đẩy chúng sinh tạo ra vô vàn tội lỗi,
gây đau
khổ triền miên cho chính mình, cho xã hội, và cho cả mọi loài.
Bởi vậy,
người tu học xem chúng như là những nọc độc nguy hiểm, chuyên
tàn phá
căn thân huệ mạng mình, để lúc nào cũng tỉnh giác, ngăn chận,
không để
bị chúng lôi cuốn, sai sử. Ba loại nọc độc đó là:
1. Tham: tâm tham muốn mọi
thứ dục
vọng.
2. Sân: tâm sân hận đối
với những
hoàn cảnh không thuận ý.
3. Si: tâm ngu muội do bị
vô minh
che phủ, không thấy rõ được đâu là chánh, đâu là tà, điều gì là
tốt,
điều gì là xấu, thế nào là xây dựng, thế nào là phá hoại v.v...
BA NGHIỆP
(tam nghiệp)
“Nghiệp”
là hành động. Tất cả mọi hành động do chúng ta tạo ra được gọi
là nghiệp
nhân, và kết quả do những hành động ấy đem lại được gọi là
nghiệp quả,
nghiệp báo, hay quả báo. Hành động được chia làm 3 loại:
1. Hành động của thân thể
(thân
nghiệp), gồm những động tác đi, đứng, nằm, ngồi và tất cả
những động
tác khác của tay, chân và thân thể (kể cả ăn uống, đụng chạm
v.v...).
2. Hành động của miệng lưỡi
(khẩu
nghiệp), gồm mọi lời nói và âm thanh do miệng lưỡi phát ra.
3. Hành động của tâm ý (ý
nghiệp),
gồm mọi tư tưởng phát sinh từ tâm ý.
Tính chất của cả ba loại hành
động này có
khi là thiện (giúp ích), có khi là ác (phá hoại),
và cũng
có khi là vô kí (trung tính, không thiện cũng không ác).
BA NGÔI BÁU
(Tam Bảo)
Với người Phật tử thì chỉ có Phật,
Pháp, Tăng là ba ngôi báu, ba viên ngọc quí nhất trên đời.
1. Phật.
Phật là bậc đã đạt được thành quả
giác
ngộ trọn vẹn, là người có nếp sống tỉnh thức thường trực, và là
người
đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
Đức Thích-Ca Mâu-Ni, vị khai sáng
ra đạo
Phật cách đây 26 thế kỉ, trước hết là một con người, nhưng đó là
một
người đã phát huy đầy đủ khả năng giác ngộ (Phật tính) để đạt
đến địa vị
của một đức Phật. Ngài đã giác ngộ chân lí của cuộc sống (tự
giác);
rồi đem chân lí ấy truyền bá, chỉ dạy, giúp cho mọi người cùng
được giác
ngộ (giác tha); và như vậy tức là sự nghiệp giác
ngộ của
Ngài đã được thành tựu trọn vẹn (giác hạnh viên mãn).
Khả năng giác ngộ của Phật gồm có
ba đức:
a) Đức TRÍ: là khả
năng trí
tuệ đưa đến sự giác ngộ cùng tột đối với tất cả những hiện tượng
riêng
biệt cùng tính cách duyên sinh của vạn hữu.
b) Đức BI: là tình
thương
rộng lớn thúc đẩy cho việc hóa độ một cách bình đẳng và bao quát
tất cả
mọi người, mọi loài, khiến cho bỏ ác làm lành, chuyển mê thành
ngộ, dứt
đau khổ được an vui.
c) Đức DŨNG: là ý
chí mạnh
mẽ để diệt trừ tất cả những động lực tiềm tàng ở bên trong cũng
như
những hiện tượng phát hiện ra bên ngoài của các phiền não tham,
sân, si
– tức là những nọc độc ghê gớm nhất gây ra tham tàn, thù hận,
lừa đảo,
mù quáng, giết chóc v.v... DŨNG cũng là ý chí mạnh mẽ, nhờ đó mà
trí tuệ
và tình thương được sử dụng triệt để trong công cuộc độ sinh,
khiến cho
những cực khổ, gian nguy, cám dỗ, chướng ngại đều bị khắc phục.
2. Pháp.
Pháp
là đạo tỉnh
thức, là con đường của tình thương, hiểu biết và cởi mở. Con
đường ấy đã
do đức Phật mở lối, chỉ dạy. Phật đã chứng ngộ và truyền dạy
những giáo
lí thích hợp với những điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế,
chính
trị và xã hội của thời đại Ngài. Rồi trong quá trình phát triển
của đạo
Phật, nhiều hệ thống cấp tiến như Thiền,
Duy Thức, Tịnh Độ,
v.v... được xuất hiện. Những hệ thống giáo lí này cũng dung hợp
những
điều kiện về sinh hoạt, tâm lí, kinh tế, chính trị và xã hội của
con
người đương thời, và ở bất cứ nơi nào chúng được truyền tới.
Bởi
vậy, giáo lí của
Phật đã được gọi là giáo lí khế
cơ. Điều đó chứng tỏ rằng giáo lí
của đạo Phật không phải là một thứ giáo lí bảo thủ, giáo điều,
cứng
ngắc, đóng khung, mà trái lại, nó luôn luôn cởi mở, khai phóng
và tiến
bộ để mở rộng chân trời tương lai. Tuy cởi mở, khai phóng, tiến
bộ,
nhưng những hệ thống giáo lí của đạo Phật trải qua bao đời, ở
mọi nơi
chốn, vẫn không bị lạc gốc, vẫn luôn luôn phù hợp với chân lí,
vẫn giữ
đúng các đặc tính căn bản, và tiếp nối được truyền thống từ bi,
trí tuệ,
hùng lực, bình đẳng và giải thoát nguyên thỉ của đạo Phật; cho
nên giáo
lí của Phật còn được gọi là giáo lí khế lí.
3. Tăng.
Tăng
là đại chúng, là
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. Tăng
bao gồm
tất cả những đoàn thể đang tu học, hành trì hoặc hướng dẫn
người khác
tu học theo giáo pháp của Phật. Họ nguyện cùng nhau làm kẻ đồng
hành
trên con đường của hiểu biết, tình thương và cởi mở – tức là con
đường
giác ngộ. Đó là đoàn thể của các vị Bồ-tát; đoàn thể của những
vị xuất
gia; đoàn thể của những người cư sĩ tại gia.
Lại
nữa, trong cái ý
nghĩa là đoàn thể, TĂNG cũng còn bao hàm cái ý nghĩa hòa hợp –
tức là
mọi người trong đoàn thể ấy phải cùng nhau công nhận và tôn
trọng những
nguyên tắc sống hòa hợp để ai ai cũng hưởng được cái không khí
hòa
thuận, thoải mái, an lạc. Có như thế thì sự tu học và hoằng
dương đạo
pháp mới có kết quả tốt đẹp.
Theo
lịch sử thì sau
khi chứng đắc đạo quả giác ngộ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đến
vườn Nai
(Lộc-uyển) dạy bài pháp đầu tiên (chuyển pháp luân) về đạo lí
Bốn Sự Thật
(tứ đế) để khai ngộ cho năm người bạn đồng tu của Ngài
lúc trước.
Năm vị này do sa môn Kiều Trần Như lãnh đạo, đã được Phật thâu
nhận làm
đệ tử xuất gia đầu tiên và làm thành tăng đoàn đầu tiên của
Ngài. Chính
lúc đó mà Ba Ngôi Báu
(Tam Bảo) lần đầu tiên xuất hiện ở thế gian này.
Nhưng
theo cái nhìn
siêu lịch sử thì trong khoảng không gian vô biên và thời gian vô
tận,
không phải chỉ có một đức Phật mà có vô lượng vô số đức Phật;
mỗi đức
Phật lại có đủ ba thân (pháp thân, báo thân, hóa thân), cho nên
số lượng
chư Phật trong mười phương không thể nào dùng trí tưởng của con
người mà
biết được. Đó là Ngôi Báu Thứ Nhất (Phật
Bảo).
Giáo pháp của Phật cũng không phải chỉ có Bốn Sự Thật, Mười
Hai Nhân Duyên,
hay Sáu Phép Qua Bờ (lục
độ), mà
thật rộng lớn như biển cả (pháp hải) – thường được diễn tả bằng
con số
“tám vạn bốn ngàn pháp môn” (nghĩa là rất nhiều pháp môn). Không
phải
chỉ có đức Thích Ca Mâu Ni nói ra giáo pháp ấy mà vô lượng vô số
Phật
trong mười phương cũng đều nói giáo pháp như vậy; cho nên sự
rộng lớn
của Phật pháp cũng không thể dùng trí tưởng của con người mà
biết được.
Đó là Ngôi Báu
Thứ Hai
(Pháp Bảo). Đoàn thể của những người tu học, nguyện cùng
nhau làm
kẻ đồng hành trên đường giác ngộ cũng có rất nhiều: đoàn thể của
các
chúng Bồ-tát,
Duyên-giác, Thanh-văn, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa- di, Sa-di-ni,
Cư-sĩ
v.v... Một đức Phật
làm giáo
chủ của một giáo hội gồm có các chúng như vậy, thì vô lượng vô
số chư
Phật trong mười phương cũng vậy; cho nên số lượng các tăng
thân
cũng không thể nào dùng trí tưởng của con người mà biết được.
Đó là
Ngôi Báu Thứ Ba (Tăng
Bảo).
Như vậy thì sự hiện hữu của Ba Ngôi Báu không phải chỉ hạn hẹp ở
một
quốc độ, một thời kì, mà ở khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trải
khắp
quá khứ, hiện tại, vị lai; không chỗ nào, không thời nào mà
không có sự
hiện hữu của Ba Ngôi Báu.
Thực
ra thì sự phân
biệt có ba ngôi báu khác nhau như trên chỉ nói lên được sự thật
tương
đối mà thôi. Người tu học Phật pháp – nhất là tu theo pháp môn
thiền
quán – cần phải thường xuyên quán chiếu để thấy rằng
PHẬT, PHÁP,
TĂNG chỉ là một. Tất cả mọi loài đều có khả năng giác ngộ
(Phật
tính), vậy Phật và chúng sinh (Tăng) là một. Phật pháp không thể
tách
rời vũ trụ vạn hữu mà có. Giác ngộ là giác ngộ cái chân lí của
vũ trụ
vạn hữu. Nhưng người giác ngộ và chân lí cũng không thể tách
rời nhau,
vì cả hai không phải là hai sự kiện độc lập với nhau, mà chỉ là
một.
Cho nên có Phật tức là có Pháp và Tăng; có Pháp tức là có Phật
và Tăng;
có Tăng thì cùng lúc cũng có Phật và có Pháp. Kinh Niết
Bàn
nói: “Tất cả chúng sinh đều
có Phật tính. Phật, Pháp và Tăng
không có
gì khác biệt”. Vậy thì
Ba Ngôi Báu
không phải tìm cầu ở nơi xa xôi nào mà vốn đã có đầy đủ trong tự
thân
của mỗi người. Nhưng muốn thấy (thực
chứng)
được điều đó, người tu học phải
thường
xuyên sống trong tỉnh thức và tinh cần trong công phu thiền
quán. Trong
nếp sống quên lãng, buông trôi sẽ không thấy được gì cả.
Dù sao thì hình tướng
vẫn
rất cần thiết cho người mới nhập vào nếp sống tu học. Hình tướng
là
phương tiện dẫn dắt bước đầu để Phật tử chúng ta đi dần vào nếp
sống
tỉnh thức. Do đó, một niệm Phật đường, một ngôi chùa, hay một tu
viện sẽ
trở nên rất hữu ích cho chúng ta; vì ở những nơi đó luôn luôn có
đầy đủ
biểu tượng của Ba Ngôi
Báu: Phật được
biểu hiện qua
các ảnh, tượng; Pháp được gói ghém trong các pho kinh,
luật,
luận, sách báo, câu đối, bích chương v.v...; và Tăng là
các chúng
xuất gia và tại gia đang tu học và thực hiện mọi công tác Phật
sự có ích
lợi cho chúng sinh.
BA NƠI QUAY VỀ NƯƠNG TỰA
(tam qui - tam qui y)
Sở
dĩ có sự quay
về là vì từ trước chúng ta đã bị bao nhiêu thứ mê hoặc làm
cho sai
đường, lạc lối. Chúng ta đã quen nếp sống quên lãng, tâm trí cứ
luôn bị
níu kéo về những hình ảnh quá khứ hoặc buông trôi theo những ảo
tưởng
tương lai. Vì vậy, “quay
về”
có nghĩa là ý thức phải được thắp sáng, từ bỏ nếp sống buông
trôi, quên
lãng, để sống trong tỉnh thức, nhìn rõ chân lí của thực tại vạn
hữu.
Muốn quay về thì phải có chỗ để quay về; và cái chỗ để quay về
đó cũng
đồng thời là nơi cho chúng ta nương tựa để sống. Có ba
căn cứ
vô cùng vững chắc để cho chúng ta quay
về
và nương tựa: đó là
Ba
Ngôi Báu (Tam Bảo)
vừa được trình bày ở trên.
1. Quay về nương tựa Phật,
người
đưa đường chỉ lối cho chúng ta trong cuộc đời.
2. Quay về nương tựa Pháp,
con
đường của tình thương và sự hiểu biết.
3. Quay về nương tựa Tăng,
đoàn
thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Nhưng, như trong mục “Ba Ngôi
Báu”
ở trên đã nói, Phật - Pháp - Tăng vốn có đầy đủ nơi tự thân của
mỗi
người, vì vậy, quay về và nương tựa ở đây không có gì khác hơn
là quay
về và nương tựa nơi chính tự tính giác ngộ của
chúng ta.
BA PHÉP QUÁN
(tam quán)
(Xin
xem mục “Một Tâm Ba Phép Quán” ở trước.)
BA THÂN
(tam thân)
Tất cả chư Phật đều có đầy đủ 3
thân:1.
Pháp thân: thân chân thật, thường trú, không biến đổi,
không bị
giới hạn bởi không-thời-gian, không thể nắm bắt được bằng tri
thức và
khái niệm, không bị sinh lão bệnh tử chi phối. Pháp thân cũng
tức là
chân như, là pháp tính, là bản thể. Theo truyền sử thì liền sau
khi
thành đạo và trước khi rời gốc cây bồ đề, đức Thích Ca Mâu Ni,
với chính
pháp thân này, đã cùng với chư vị Đại Bồ-tát đã chứng
giải thoát
môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm.
Tông Pháp Tướng còn gọi pháp thân
Phật là
thân tự tính.
2. Báo thân: hiện thân
chúng sinh
của Phật. Thân này giả hợp, vô thường, bị sinh lão bệnh tử chi
phối như
bao nhiêu thân chúng sinh khác. Đó là cái nhục thân của đức
Thích Ca Mâu
Ni từ khi nhập thai và sinh ra là thái tử Tất Đạt Đa ở thành
Ca-tì-la-vệ, có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp; lớn lên lập gia đình,
xuất
gia tu khổ hạnh; rồi thành đạo, thuyết pháp độ sinh; và cuối
cùng nhập
diệt tại thành Câu-thi-na.
Tông Pháp Tướng còn gọi báo thân
Phật là
thân thọ dụng.
3.
Hóa thân:
cũng gọi là ứng thân
hay ứng hóa thân, là thân hóa hiện của đức Phật. Do tâm
nguyện
cứu độ chúng sinh một cách bình đẳng và bao la, chư Phật thường
tùy
duyên mà ứng hiện làm nhiều loại thân khác nhau của các loài
chúng sinh
khác nhau để dễ dàng hóa độ. Kinh Hoa Nghiêm (phẩm 33)
nói:
“Khắp cả hư không, ở
mỗi
một chỗ bằng đầu sợi lông đều có vô lượng vô số cõi Phật; ở mỗi
một cõi
Phật như vậy, trong mỗi một niệm, Phật ứng hiện vô số hóa thân
nhiều như
bụi để chuyển pháp luân...”.
Tông Pháp Tướng còn gọi hóa thân
Phật là
thân biến hóa.
BA TÍNH
(tam tánh)
Tính chất của nhận thức gồm có 3
loại:
1. Tính thiện (thiện):
những nhận
thức chân chính khiến tạo ra các nghiệp nhân tốt, phù hợp với
chân lí,
có công năng dẫn tới giác ngộ và giải thoát.
2. Tính ác (ác): những
nhận thức
sai lạc khiến tạo nên các nghiệp nhân xấu, có công năng dẫn tới
vô minh
và sinh tử luân hồi.
3. Tính vô kí (vô kí):
những nhận
thức không thiện mà cũng không ác, không có công năng dẫn tới
giải thoát
hay sinh tử luân hồi.
Không những chỉ có nhận thức, mà
tất cả
mọi lời nói, cử chỉ và hành động – nói chung là ba nghiệp – của
con
người cũng đều thể hiện tính chất của một trong ba tính ấy.
Vấn đề “tiêu chuẩn thiện ác”
thật
rất quan trọng đối với việc tu học. Chúng ta có thể
đọc thêm
sách Đạo Phật Ngày Nay (Chương X) của Nhất Hạnh để có
được một
hiểu biết rõ ràng, cụ thể và chính xác về vấn đề này.
BA TỰ TÍNH
(tam tự tính)
“Tự tính”
của thực tại (vạn pháp) tức là bản chất, chân tướng của thực
tại. Tự
tính đó là đối tượng của nhận thức. Vì không sáng suốt, không
tỉnh thức,
chúng ta luôn luôn có những nhận thức sai lạc về thực tại. Cho
nên người
tu học Phật cần phải quán chiếu thường xuyên nhằm “điều chỉnh”
nhận thức
để có được một cái thấy đúng đắn, cái thấy giác ngộ về chân
tướng của
thực tại. Khi nghiên cứu về chân tướng của thực tại, các nhà duy
thức
học đã phân tích có ba tự
tính
như sau:
1.
Tự tính biến kế
sở chấp. Tự tính này vạn pháp vốn không tự có, nhưng
chính vì sự
sai lầm của nhận
thức
mà thực tại phải mang
lấy cái
tự tính đó. Tại vì chúng ta quan niệm vạn pháp có sinh, có diệt,
có
thành, có bại, có thêm, có bớt, có dơ, có sạch, cái này khác cái
kia,
cái kia không phải cái này, cái kia tốt, cái nọ xấu v.v..., cho
nên vạn
pháp mới phải mang lấy những tính chất như vậy. Khi ta đang buồn
thì ta
nhìn cảnh vật cũng thấy buồn; cảnh vật buồn không phải là vì nó
vốn có
bản chất buồn, mà chính là vì nó phải mang lấy cái tâm trạng
buồn của ta
lúc ấy. Bởi vậy, khi còn bị vô minh che phủ, bản chất của nhận
thức về
thực tại của ta vốn là biến kế chấp (tức là vọng tưởng
phân
biệt), đã tạo ra cho thực tại những tính chất mà chúng không tự
có. Cái
tự tính của vạn pháp vốn do nhận thức ngu muội của chúng ta tạo
ra cho
chúng đó, các nhà duy thức học gọi là tự tính biến kế sở
chấp.
2.
Tự tính y tha
khởi. “Y tha khởi”
tức là nương vào cái khác mà có. Đây mới là tự tính của thực
tại. Tự
tính này phát hiện được là do công trình tu học và quán chiếu
lâu dài về
các tính chất vô thường, vô ngã và nhân duyên của vạn pháp nhằm
“điều
chỉnh” những nhận thức sai lạc (biến kế chấp) của chúng
ta. Theo
tự tính này thì mọi sự vật đều nhờ nhau và nương nhau mà sinh
thành, tồn
tại và hủy diệt. Không có hiện tượng nào hiện hữu độc lập với
những
hiện tượng khác. Kinh A Hàm nói: “Cái
này có thì cái kia có; cái này
không thì
cái kia không; cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì
cái kia
diệt.” Nếu chúng ta
quán chiếu
và thấy được tự tính y tha khởi này của sự vật, thì chúng
ta đã
có khả năng chuyển hóa vô minh thành tuệ giác.
3.
Tự tính viên
thành thật. “Viên
thành thật” là tính
chất viên
mãn, thành tựu và chân thật của vạn hữu. Đó chính là bản thân,
thể tính,
hay chân tướng của thực tại; cũng được gọi là pháp tính hay chân
như. Tự
tính viên thành
thật
ngược lại với tự tính biến kế sở chấp – vì nó không do
tâm ý tạo
tác ra, cho nên nó đích thực là tự tính của vạn pháp, trong đó
không có
sinh diệt, không có thành bại, không có thêm bớt, không có dơ
sạch
v.v... Bản thân (hay thể tính) của vạn hữu không thể nhận thức
bằng khái
niệm, không thể diễn tả bằng ngôn từ. Vạn pháp hiện hữu như thế
đó,
trong cách thức của chúng, không qua trung gian nhận thức phân
biệt. Chỉ
khi nào quán chiếu và thấy được tự tính y tha khởi của thực tại
thì
người tu học mới diệt trừ được mọi sai lạc của nhận thức
(biến kế chấp)
về thực tại, và lúc đó tự tính viên thành thật của thực tại mới
hoàn
toàn hiển lộ.
(Những sách có thể dùng để tham
khảo
thêm: Vấn Đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học của Nhất Hạnh - Nẻo
Vào Thiền
Học của Nhất Hạnh - Trái Tim Mặt Trời của Nhất Hạnh.)
BA VÔ TÍNH
(tam vô tính)
Tuy
tự tính y tha
khởi có thể giúp phá vỡ được tính cách “biến kế sở chấp” của
sự vật,
nhưng dù sao thì nó vẫn chỉ được xem là một phương tiện, vì vẫn
còn là
một khái niệm về sự vật, và cuối cùng cũng phải bị quét sạch thì
chân
tướng của thực tại mới hoàn toàn được hiển lộ. Vì lí do đó, sau
khi
thuyết minh “ba tự
tính”
của đối tượng nhận thức, Duy Thức Học lại thành lập thuyết “ba
vô
tính” nhằm triệt tiêu hết mọi khái niệm:
1. Tướng vô tính. Tuy biến
kế
sở chấp là tự tính của thực tại nhưng đó cũng chỉ là một
khái niệm
về sự vật mà thôi, không phải đích thực là chân tướng của thực
tại.
Thực tại là thực tại, không phải là biến kế sở chấp, cũng không
phải là
không biến kế sở chấp.
2. Sinh vô tính (hay vô
tự
nhiên tính). Y tha khởi là tự tính của thực tại,
nhưng đó
cũng chỉ là một khái niệm về sự vật. Sự vật là nhân duyên sinh
(y tha
khởi), và nhân duyên sinh không có thực tính. Bởi vậy, thực
tại là thực tại, không phải là y tha khởi, cũng không phải là
không y
tha khởi.
3. Thắng nghĩa vô tính
(hay
pháp vô tính). “Thắng nghĩa” có nghĩa là tuyệt đối,
là tên
gọi khác của tự tính viên thành thật. Viên thành thật
cũng tức là
chân như, là thực tính của vạn pháp. Dù vậy, cuối cùng thì khái
niệm này
cũng phải được lìa bỏ; vì với tuệ giác vô niệm, thực tại là
thực tại,
không phải là viên thành thật, cũng không phải là không viên
thành thật.
Như vậy, “vô tính” mới
chính thực
là “tự tính”, và thực tại trong trường hợp này chỉ hiển
lộ dưới
tuệ giác vô niệm, vì với bất cứ một khái niệm nào – dù đó
là khái
niệm “viên thành thật” – thực tại cũng chỉ là một mảnh cắt xén
(biến kế)
của vọng tưởng phân biệt, của tà kiến.
GHI CHÚ:
Xin xem thêm các sách đã dẫn ở mục “Ba Tự Tính” ở trên.