Số
5
NĂM CÁI THẤY SAI LẠC
(ngũ kiến - ngũ ác kiến)
“Kiến”
là thấy, là nhận định, là quan điểm. Vì không tu học Phật pháp,
vì không
đủ sáng suốt, người ta thường bị mắc kẹt vào năm quan điểm
sai lầm
trong khi nhìn thực tại. Năm quan điểm sai lầm này cũng là
năm trong
mười loại phiền não gốc rễ (thập căn bản phiền não) –
cũng gọi là
mười động lực sai khiến (thập sử)(1),
đã góp phần mạnh mẽ trong việc tạo khổ đau cho đời sống.
1. Cái thấy sai lạc về ngã
(thân
kiến).
Nhìn thân thể, người ta không
thấy được
đó là thành phẩm của hợp thể ngũ uẩn, không thấy được
tính cách
giả tạm của nó mà lại cho rằng thật có thân, và chính thân này
là ta
(ngã kiến). Từ quan điểm cho rằng “có thân ta” ấy mà
nhìn ra
chung quanh, người ta lại thấy có rất nhiều những người, những
vật khác
là “thuộc về ta” (ngã sở kiến); cái thấy “có
thân ta”
và “thuộc về ta” ấy là cái thấy sai lạc về “ngã” –
tức là
“thân kiến”.
2. Cái thấy cực đoan (biên
kiến).
Do cái thấy sai lạc về ngã
mà sinh
ra cái thấy cực đoan, hoặc cho rằng cái ngã kia sau khi
chết là
mất hẳn (đoạn kiến); hoặc nó sẽ tồn tại vĩnh viễn, nếu là
người
thì muôn kiếp vẫn làm người, con heo con chó thì nghìn đời vẫn
là con
heo con chó (thường kiến). Những quan niệm cho rằng một
là thế
này, hai là thế nọ, như bảo mọi vật là có thật hay mọi vật là
không; đã
thích ai thì cứ cho người đó là hoàn toàn tốt, chỉ theo phục vụ,
ca
tụng, tâng bốc, tuyên truyền cho người đó, và coi những người
khác là
hoàn toàn xấu, đáng khinh khi v.v..., những cái thấy như thế đều
là
cực đoan; từ đó mà người ta hay chia phe, chia đảng, chia
bè, chia
phái để tranh giành lợi lộc, hơn thua, thị phi, rồi sinh ra hận
thù,
ganh ghét, hờn oán, phá hoại.
3. Cái thấy xuyên tạc, không
đúng sự
thật (tà kiến).
Một khi đã có quan điểm cố chấp
về ngã và
về tính cách thường còn hay mất hẳn của ngã thì
người ta
sẽ không thấy được lí duyên sinh, luật nhân quả
cùng là
các tính chất khổ, không, vô thường, vô ngã và bất
tịnh
của vạn vật. Và khi đã không được soi sáng bằng các đạo lí trên
thì cái
thấy sẽ không thể nào đúng với sự thật; vả chăng, đó chỉ là cái
thấy méo
mó, xiêu vẹo, xuyên tạc sự thật. Những quan niệm cho rằng mọi
việc ở
đời đều đã do trời định, đều đã được thượng đế an bài sẵn cả
rồi; vạn
vật trong vũ trụ là do một đấng sáng tạo sinh ra; đau bịnh, hoạn
nạn là
do ông thần này hành, bà thần kia phạt v.v..., đều là tà
kiến.
4. Cố chấp vào những kiến thức
đã có
(kiến thủ kiến).
Đối với ba cái thấy ở trên (thân,
biên
và tà kiến), người có tu học Phật pháp, có thực tập quán
chiếu, chắc
chắn sẽ thấy được tính cách sai lầm của chúng; ngược lại, người
không tu
học Phật pháp sẽ cho đó là những quan điểm chính đáng. Vì cho là
đúng
nên họ khư khư ôm giữ lấy, và suốt đời cứ nhìn sự vật bằng các
quan điểm
ấy; không có gì làm cho sửa đổi được. Nguy hại này còn có thể
lan tràn
nếu họ có ý muốn tuyên truyền để thuyết phục hoặc cưỡng ép người
khác
phải theo quan điểm của họ. Thái độ cố chấp ấy gọi là “kiến
thủ kiến”.
Dĩ nhiên, những người có tu học thực sự thì nhận thức của họ
chắc chắn
sẽ được điều chỉnh, cái thấy của họ không còn sai lạc nữa mà trở
nên
đúng đắn, hợp với giáo pháp. Dù vậy, nếu họ lại tự mãn với những
kiến
thức đó, khư khư ôm giữ lấy, không chịu học hỏi thêm để tiến tới
nữa,
thì những kiến thức ấy, dù là đúng đắn, chính đáng đến đâu, cũng
lại hóa
thành một thứ kiến thủ kiến; bởi vì, khi mà trí tuệ giác
ngộ chưa
đạt được thì mọi kiến thức, dù là chính đáng, đều chưa phải là
chân lí
tuyệt đối, cần phải vượt bỏ để tiếp tục học hỏi và tiến tới nữa.
Như leo
lên bậc cấp, phải bỏ bậc cấp thứ nhất mới bước lên được bậc cấp
thứ hai,
và kế tiếp... Nếu không vượt bỏ kiến thức đã có thì hành giả
phải bị mắc
kẹt vào kiến thủ kiến, và sẽ không tiến thêm được trên
nấc thang
giác ngộ.
5. Cố chấp vào các giới cấm
sai lạc
(giới cấm thủ kiến).
Cũng như chữ “thủ” trong
từ
“kiến thủ” ở trên, chữ “thủ” ở đây có nghĩa là ôm giữ
lấy,
bảo vệ lấy, bị mắc kẹt vào một cái gì. Giới luật, như
chúng ta đã
có dịp đề cập tới trong mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở
trước, là
một trong ba yếu tố tu học căn bản đưa hành giả đến thành quả
giác ngộ.
Nhưng trong thế giới loài người từ xưa đến nay, kể cả trong thế
kỉ trụ
thế của đức Phật, chúng ta thấy nhan nhản những loại giới cấm
sai lầm,
vô lí mà người ta hoặc bị mê hoặc, hoặc bị cưỡng bách phải tuân
giữ. Ví
dụ, có thứ giới cấm bảo rằng, người ta phải tôn kính con bò,
không được
ăn thịt hay đánh đập nó – dù nó có phá làng phá xóm hay húc chết
người
cũng không được đụng đến nó. Hoặc có thứ giáo điều bảo mọi người
phải
tin rằng trái đất hình vuông, hoặc mặt trời quay chung quanh
trái đất,
ai nói khác điều đó là phản loạn, phải bị hành hình! v.v...
Những luật
lệ như vậy đều là sai lạc, không phải là giới luật của người có
trí tuệ.
Mặt khác, có những người tu học Phật pháp, lấy giới luật Phật
chế làm
kim chỉ nam hành động, nhưng vì thiếu sáng suốt hay vì tính cố
chấp,
nông cạn, không thấy được bản chất của giới luật, nên trong lúc
hành trì
có thể gây hậu quả tai hại cho chính bản thân, và còn có khi cho
cả
những người chung quanh. Ví dụ, có người vì muốn hành trì giới “bất
sát” một cách triệt để, đã nhịn ăn uống mà chết, vì nghĩ
rằng, dù ăn
một miếng cơm hay uống một ngụm nước, cũng đã giết hại không
biết bao
nhiêu là sinh mạng! Có người lại cho rằng, tu hành là đừng để
tâm đến
thế sự, rồi cứ ẩn cư thiền tọa, bỏ mặc cuộc đời đói khổ, đau
thương,
quên mất nhiệm vụ độ sinh cao cả của người tu học. Đó đều là
thái độ cố
chấp vào giới luật của những người “y ngữ, bất y nghĩa”,
trái
ngược với ý thức “y nghĩa, bất y ngữ” (một trong “Bốn
Sự Y Cứ”
vừa trình bày ở trước) của người tu học chân chính, có được cái
thấy
sáng suốt về bản chất của giới luật và hành trì một cách thông
minh để
đem lại lợi lạc cho bản thân và cho cả môi trường sống chung
quanh.
CHÚ THÍCH
(1) Xin xem
mục “Mười
Động Lực Sai Khiến” ở sau.
NĂM DỤC VỌNG
(ngũ dục)
Tất cả những gì có sức quyến rũ
con người
trong cõi Dục này, được giáo lí Phật giáo bao gồm trong 5 thứ.
Chúng là
đối tượng ham muốn của con người; và cũng vì lòng tham đắm của
con người
sâu thăm thẳm, rộng không bờ bến, dai dẳng không ngưng nghỉ, bám
chặt
không buông thả, cho nên con người đã trở nên ích kỉ, mù quáng,
ngông
cuồng, hiểm ác, dã man, tàn bạo, để từ đó gây ra không biết bao
nhiêu
cảnh thống khổ, đau thương cho chính đồng loại, và cả đồng bào
hoặc đồng
tộc của mình. Năm thứ dục vọng ấy là:
1. Tiền của (tài): chỉ cho
tất cả
những thứ gì có thể làm thành tài sản vật chất của con người.
2. Sắc dục (sắc): cũng gọi
là ái
dục, tức là đời sống tình dục, lạc thú thể xác của con người do
sự luyến
ái giữa nam nữ đem lại.
3. Danh vị (danh): danh
vọng và
địa vị của con người trong xã hội.
4. Ăn uống (thực): những
gì có thể
nuôi sống thân mạng con người.
5. Ngủ nghỉ (thụy): sự ngủ
nghỉ và
tất cả những gì liên quan đến nó.
Mặt khác, trong kinh Hiền Nhân,
năm thứ dục vọng được kể ra như sau:
1) Các thứ hình sắc tốt
đẹp ở trần
gian (sắc – đối tượng tham dục của mắt).
2) Các thứ âm thanh tuyệt
diệu (thanh
– đối tượng tham dục của tai).
3) Các loại mùi hương thơm
quí (hương
– đối tượng tham dục của mũi).
4) Các thức ngon vị ngọt (vị
– đối tượng tham dục của lưỡi).
5) Các sự chạm xúc êm dịu,
đê mê
của da thịt (xúc – đối tượng tham dục của thân).
NĂM KHẢ NĂNG và NĂM SỨC MẠNH
(ngũ căn, ngũ lực)
“Căn” là gốc rễ (như trong từ
“căn bản”),
là điểm tựa (như trong từ “căn cứ”). “Ngũ căn” là năm nền tảng,
năm điểm
tựa, từ đó các pháp lành được phát sinh; hay nói cách khác, đó
là năm
khả năng phát sinh và nuôi lớn các thiện pháp. Năm khả năng đó
là:
1. Lòng tin tưởng sâu đậm
vào Ba
Ngôi Báu (tín căn).
2. Chí kiên trì tu học và
hành đạo
(tinh tấn căn).
3. Thường trực sống trong tỉnh
thức
(niệm căn).
4. Tâm ý tập trung, tĩnh lặng
(định
căn).
5. Quán chiếu để thấy rõ
chân lí
(tuệ căn).
Khi “năm khả năng” (ngũ
căn)
trở nên lớn mạnh thì chúng sẽ là “năm sức mạnh” (ngũ
lực)
có thể đánh tan mọi phiền não, chướng ngại. Vì vậy, năm khả
năng và
năm sức mạnh bao giờ cũng liên quan mật thiết với nhau. Có
được năm khả năng là có được năm sức mạnh:
1. Khi lòng tin tưởng vào
Ba Ngôi
Báu trở nên lớn mạnh (tín lực) thì có thể đánh tan được
mọi tin
tưởng sai lầm.
2. Khi chí kiên trì tu học
và hành
đạo trở nên lớn mạnh (tinh tấn lực) thì có thể đánh tan
tính lười
biếng, buông lung, hôn trầm của bản thân.
3. Khi nếp sống tỉnh thức
đã
trở nên lớn mạnh (niệm lực) thì không còn những tư tưởng sai
quấy,
không nghĩ đến những điều vô ích.
4. Khi sự tập trung của tâm ý
trở nên
lớn mạnh (định lực) thì mọi loạn tưởng sẽ tan biến hết.
5. Khi trí tuệ quán chiếu trở
nên lớn
mạnh (tuệ lực) thì mọi phiền não, kiến chấp, vô minh đều bị
bật hết
gốc rễ.
Do tính chất đó, năm khả năng
và năm
sức mạnh đã trở thành những trợ lực quan trọng cho hành giả
trên
tiến trình giác ngộ.
NĂM GIỚI
(ngũ giới)
Ý nghĩa của “giới”
đã được
đề cập tới trong mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước. Năm
giới
sau đây được dành riêng cho chúng tại gia. Dù vậy, chẳng những
chúng làm
căn bản đức hạnh cho chúng tại gia mà còn làm căn bản đức hạnh
cho cả
chúng xuất gia.
1. Không sát hại (bất sát
sinh).
Không được giết hại sinh mạng,
không được
tán thành sự chém giết. Phải tìm mọi cách có thể để bảo vệ sinh
mạng.
Phải chọn một nghề nghiệp không gây tàn hại cho con người, muôn
vật và
thiên nhiên.
2. Không trộm cướp (bất đạo).
Không được lấy làm tư hữu những
tiền bạc
và của cải không phải do mình tạo ra, hoặc do người khác biếu
tặng. Phải
biết ngăn ngừa những kẻ tích trữ và làm giàu bất lương không kể
gì đến
sự đau khổ của những kẻ bị áp bức và thua thiệt.
3. Không tà dâm (bất tà dâm).
Không được ăn nằm với những người
không
phải là vợ hay chồng mình. Phải ý thức được những đau khổ mà
mình có thể
gây ra cho kẻ khác vì hành động bất chính của mình. Muốn bảo vệ
hạnh
phúc của mình và của người khác thì phải biết tôn trọng những
cam kết
của mình và của người khác.
4. Không vọng ngữ (bất vọng
ngữ).
Không được nói những điều sai với
sự
thật. Không được nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Không
được loan
truyền những tin tức mà không biết chắc là có thật. Không được
phê bình
và lên án những điều mình không biết chắc. Không được nói những
điều có
thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể, những
điều có
thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể. Phải nói những lời chân
thật và có
giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
5. Không uống rượu và dùng các
chất ma
túy (bất ẩm tửu).
Không được uống rượu và dùng các
chất ma
túy. Phải ý thức được rằng thân thể mình là do tổ tiên và dòng
họ trao
truyền lại, và tàn hại thân thể mình bằng rượu và các chất ma
túy là một
tội bất hiếu đối với tổ tiên và dòng họ.
NĂM PHÉP QUÁN
(ngũ quán)
Có ba pháp số về “Năm Phép
Quán”:
A. Năm Phép Quán Ngưng Loạn Tưởng
(ngũ đình tâm quán).
Năm phép quán niệm này có công
năng chận
đứng loạn tưởng, dập tắt phiền não, làm cho tâm ý được định
tĩnh, sáng
suốt, là bước đầu của tiến trình tu định.
1. Quán niệm thân thể và vạn vật
đều là
nhiễm ô, không trong sạch (bất tịnh quán), do đó mà chận
đứng
được tâm tham dục.
2. Quán niệm để thấy mọi người và
mọi
loài đang phải sống khổ đau vì vô minh, do đó phát khởi tình
thương
rộng lớn (từ bi quán), và nhờ vậy mà dứt bỏ được tâm sân
hận, oán
thù.
3. Quán niệm về đạo lí duyên
khởi
trong quá trình sinh diệt của vạn hữu (nhân duyên quán)
để thấy
rõ chân tướng của thực tại, nhờ đó mà dứt bỏ được tâm ngu si,
tà
kiến, cố chấp.
4. Quán niệm về 6 nguyên tố
(lục
đại: rắn chắc, lưu nhuận, viêm nhiệt, chuyển động, trống
rỗng, tâm
thức) tạo thành bản thân, hoặc về 18 khu vực (thập bát
giới) của
thân (6 căn), cảnh (6 trần), và nhận thức
(6 thức).
Sự phân tích này giúp ta thấy được sự giả hợp của thân tâm mà ta
thường
cho đó là cái “ta”, nhằm đánh tan tâm chấp ngã (ngã
kiến).
Danh từ Phật học Hán Việt gọi phép quán niệm này là “giới
phân biệt
quán”. (“Giới” nghĩa là khu vực.)
5. Quán niệm hơi thở bằng cách đếm
hơi
thở vô, hơi thở ra (sổ tức quán), nhằm “cột” tâm lại,
không
để giây phút nào bị tán loạn, xao lãng.
Có chỗ lại cho rằng, vì phép quán
niệm
thứ tư (giới phân biệt quán) có cùng tính chất với phép
quán niệm
thứ ba (nhân duyên quán), nên gom lại thành một – chỉ có nhân
duyên quán; và phép quán niệm thứ tư được thay bằng Phật
quán,
tức là quán niệm về thân tướng trang nghiêm, thanh tịnh và các
đức tính
cao thượng của đức Phật, từ đó mà bao nhiêu phiền não, nghiệp
chướng đều
bị tiêu trừ.
B. Năm Phép Quán Trước Khi Ăn
(thực thời ngũ quán).
Ăn cơm có quán niệm là ăn cơm
trong chánh
niệm, ăn cơm trong tỉnh thức, ăn cơm trong an lạc. Quán niệm như
sau:
1. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về
những nguồn lực đã làm cho có bát cơm, như: bác nông phu,
con trâu,
cái cày, hạt giống, đất, nước, ánh sáng, nhà máy xay lúa, phương
tiện
chuyên chở v.v... Quán niệm như vậy để thấy rằng, bát cơm đến
với ta
không phải là chuyện giản dị; không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc
là có
được bát cơm. Sự hiện hữu của bát cơm trước mặt ta đồng thời là
sự hiện
hữu của cả vũ trụ, trong đó có sự hiện hữu của ta. Bát cơm nuôi
sống ta,
đồng thời bảo cho ta biết là ta đang mang một nguồn ơn nghĩa vô
tận mà
ta có nhiệm vụ phải đáp đền.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có
thể
quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Thức ăn này là
tặng
phẩm của đất trời và công phu lao tác.”
2. Nhìn bát cơm, hãy quán niệm về
bản
thân ta, xem có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm ấy không. Ta
nên lặp
lại câu nói ở trên: “không phải chỉ cần bỏ ra đồng bạc là có
được bát
cơm.” Có những người giàu có tiền muôn bạc triệu nhưng không
có tư
cách xứng đáng để ăn bát cơm, hoặc có lúc không có được bát cơm
để ăn.
Trong thiền môn có câu châm ngôn : “Bất tác bất thực”
(không làm
thì không ăn). Ý nghĩa của câu châm ngôn này là chính ta phải
bỏ công
sức ra để góp phần vào việc làm cho có bát cơm, để ta không phải
hổ thẹn
khi bưng bát cơm lên đưa vào miệng. Bưng bát cơm lên mà không
thấy hổ
thẹn tức là ta được ăn cơm trong an lạc. Như trên vừa nói, sự
hiện hữu
của bát cơm trước mặt ta cũng đồng thời là sự hiện hữu của cả vũ
trụ, vì
vậy, không cứ gì phải trực tiếp cày cấy, xay lúa giã gạo mới là
đóng góp
công sức vào bát cơm, mà ta có thể cống hiến bất cứ khả năng nào
mà ta
có, cùng với thì giờ và tâm lực cho cuộc đời, là ta đã góp phần
vào việc
làm cho có bát cơm rồi vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có
thể
quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nguyện
sống xứng
đáng để thọ nhận thức ăn này.”
3. Nhìn bát cơm, dù ta đã quán
niệm và tự
biết mình có tư cách xứng đáng để ăn bát cơm, nhưng không vì thế
mà cho
rằng “ta có quyền ăn cho thỏa thích!” Ta nên tiếp tục quán niệm
để biết
xót thương những người đang chịu đói khát ở khắp nơi trên thế
giới. Quán
niệm như thế ta sẽ bỏ được tính tham lam và phát triển
tình
thương trong ta, để một ngày nào đó, có thể lắm, ta sẽ làm được
một cái
gì để góp phần vào việc thay đổi tình trạng bất công của cuộc
sống hiện
nay.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có
thể
quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Xin nhớ ngăn
ngừa
những tật xấu, nhất là tật tham lam.”
4. Ngồi trước bát cơm mà lòng
tham đã bị
dập tắt thì hành giả sẽ thấy được rằng, bát cơm quả thật là phương
thuốc mầu nhiệm để nuôi dưỡng và trị bệnh gầy yếu cho cơ
thể. Khi đã
thấy rõ như vậy, hành giả sẽ biết quí trọng thức ăn, và càng cẩn
trọng
trong việc chọn lựa thức ăn – nghĩa là chỉ ăn
những thức
ăn nào có tính chất nuôi dưỡng mà không gây tật bệnh cho cơ thể.
Cẩn
trọng như thế là vì hành giả luôn luôn có ý thức rằng, nếu hành
giả khỏe
mạnh, an vui thì những người liên hệ chung quanh cũng khỏe mạnh,
an vui;
nếu hành giả bệnh tật, đau khổ thì họ cũng bị ảnh hưởng y như
vậy.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có
thể
quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Chỉ xin ăn
những thức
ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.”
5. Nếu sự đam mê ăn uống không
làm cho
hành giả tu học và hành đạo được thì đói khát cũng không thể nào
làm cho
hành giả tu học và hành đạo được. Cho nên, khi nhìn bát cơm để
trước
mặt, hành giả hãy quán niệm để thấy đó là nguồn năng mầu
nhiệm để
nuôi sống và bảo vệ thân mạng. Thân mạng có được bảo vệ thì đạo
nghiệp
mới viên thành. Không riêng gì cho hành giả, mà bát cơm cũng
còn là
nguồn năng mầu nhiệm để nuôi sống và bảo vệ thân mạng của bao
nhiêu
triệu người đang bị đói khổ trên thế giới, cũng như của muôn
loài chúng
sinh khác. Bệnh đói là một chứng bệnh vô cùng thê thảm trong đời
sống
nhân loại và mọi loài chúng sinh! Nếu ngồi trước bát cơm mà thấy
được
điều đó thì hành giả sẽ phát khởi tình thương rộng lớn và tâm
nguyện vì
đời phụng sự, đem khả năng và tâm lực giúp người cứu vật, cho
đến khi
thành tựu đạo nghiệp.
Khi đã thực tập thuần thục, ta có
thể
quán niệm điều này bằng một ý tưởng ngắn gọn: “Vì muốn thành
tựu đạo
nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.”
C. Năm Phép Quán của Bồ Tát
Quán Thế
Âm (Quán Âm ngũ
quán).
Sở dĩ được gọi là “năm phép
quán của
Bồ Tát Quán Thế Âm” là vì năm phép quán niệm này được ghi
trong kinh
Pháp Hoa (phẩm “Phổ Môn”), khi đức Phật tán dương
hạnh
nguyện độ sinh của đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
1. Chân quán: Quán chiếu
về tính
không của vạn hữu để trừ khử mọi kiến chấp và tư
tưởng sai
lạc, từ đó thấy rõ thật tướng bình đẳng của vạn hữu.
2. Thanh tịnh quán: Quán
chiếu về
tính giả của vạn hữu để diệt trừ tận gốc rễ mọi
phiền não,
dù là những loại phiền não vi tế nằm trong sâu thẳm tận cùng của
tàng
thức (a-lại-da), nhờ đó mà tâm thức hoàn toàn thanh tịnh.
3. Trí tuệ quán: Khi mọi
gốc rễ
thâm sâu của vô minh đã bị bật tung hết rồi, khi mà mọi chủng tử
ô nhiễm
đã chuyển hóa sang trạng thái thanh tịnh hết rồi, thì tuệ giác
bừng
sáng, chiếu rọi mười phương, diệu dụng tự tại vô ngại.
4. Bi quán: Do tâm nguyện
độ sinh,
Bồ-tát dùng ba phép quán ở trên quán chiếu mọi khổ não của chúng
sinh để
giúp họ diệt khổ.
5. Từ quán: Do tâm nguyện
độ sinh,
Bồ-tát dùng ba phép quán ở trên quán chiếu mọi khổ não của chúng
sinh để
đem niềm an vui đến cho họ.
Nếu đem so sánh, ta thấy ba phép
quán đầu
của năm phép quán này có phần phù hợp với ba phép quán của tông
Thiên
Thai(1):
- chân quán - - - - - - - - - - -
- - - -
- không quán
- thanh tịnh quán - - - - - - - -
- - -
- giả quán
- trí tuệ quán - - - - - - - - - -
- - -
- - trung quán
Nhưng khác nhau ở chỗ, ba phép
quán
của tông Thiên Thai chỉ đề cập đến thành quả giác ngộ mà
không đề
cập đến hạnh nguyện độ sinh như ở năm phép quán của Bồ Tát
Quán Thế
Âm.
Mặt khác, nếu so sánh với bốn
trí tuệ
của bậc giác ngộ(2),
ta có thể coi chân quán là bình đẳng tánh trí, thanh
tịnh quán là đại viên cảnh trí, trí tuệ quán là
diệu quan sát trí, và bi quán cùng với từ quán là thành
sở
tác trí.
CHÚ THÍCH
(1) Xin xem lại mục “Một Tâm Ba
Phép
Quán” ở trước.
(2) Xin xem lại mục “Bốn Trí Tuệ”
ở
trước.
NĂM UẨN
(ngũ uẩn)
“Uẩn”(1)
là nhóm, là tích tụ. Năm uẩn là năm yếu tố kết hợp tạo
nên bản
thân con người, gồm có:
1. Sắc (sắc uẩn), là tất
cả các bộ
phận sinh lí, nói chung là thân thể của con người.
2. Thọ (thọ uẩn), là cảm
giác sinh
lí sinh ra khi các giác quan của thân thể tiếp xúc với đối tượng
của
chúng. Cảm giác có thể là dễ chịu (lạc thọ), khó chịu
(khổ
thọ), hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu (xả thọ).
3. Tưởng (tưởng uẩn), là
tri giác,
tức là sự nhận biết đối tượng của nhận thức con người. Ví dụ,
nhìn tượng
Phật thì biết là tượng Phật, nghe tiếng chuông thì biết là tiếng
chuông,
ngửi mùi nhang thì biết là mùi nhang v.v...
4.
Hành (hành
uẩn), là chỉ chung cho
tất cả
mọi hiện tượng, mọi sự vật được hình thành do nhân và duyên,
tức
là vạn pháp trong vũ trụ (ở cả ba lĩnh vực: tâm, sinh, và vật
lí). Riêng
hành uẩn ở đây là chỉ cho “tâm hành”, tức
là tất cả
những hiện tượng tâm lí của con người. Duy Thức Học nói, có cả
thảy 51
hiện tượng tâm lí – gọi là 51 tâm sở, trong đó có hai uẩn
thọ và tưởng ở trên; nhưng vì phạm vi hoạt
động
của thọ và tưởng quá quan trọng – gần như suốt
ngày,
lúc nào ta cũng sống với thọ và tưởng – nên ở
đây
hai hành này được tách riêng thành ra hai uẩn, và 49 hành
còn lại thì được gộp chung trong một uẩn là “hành
uẩn”.
5. Thức (thức uẩn), là tâm
thức,
nói tổng quát, đó là căn bản thức (Duy Thức Học
gọi là
thức a-lại-da), và nói chi tiết thì đó là tám thức: nhãn,
nhĩ,
tị, thiệt, thân, ý, mạt-na và a-lại-da – Duy Thức Học gọi
chúng là
tâm vương, các kinh luận thường gọi một cách tổng
quát là
tâm, ý hay thức. Sở dĩ thức
được gọi
là “tâm vương” là vì ta nhìn thức ở phương diện
căn bản,
trong khi đó, nếu nhìn thức ở phương diện hành tướng, hiện khởi
hay hoạt
động thì ta có những hiện tượng tâm lí mà Duy Thức Học gọi là tâm
sở
– tức là nội dung của tâm vương. Tâm vương cũng giống như
đại
dương, còn tâm sở cũng giống như những ngọn sóng trên mặt đại
dương. Ba
uẩn trên kia: thọ, tưởng và hành, là thuộc về “tâm
sở”.
Năm yếu tố kết hợp thành bản thân
con
người như trên chỉ là cách phân chia cho dễ thấy. Trong năm yếu
tố đó
thì yếu tố đầu (sắc) là vật chất, còn cả bốn yếu tố
sau
đều là tinh thần; vì vậy mà có chỗ chỉ phân chia con người làm
hai phần,
là danh (tinh thần, gồm cả 4 uẩn: thọ, tưởng, hành
và
thức) và sắc (thể xác, là sắc uẩn). Hai phần đó,
nói theo
cách thông thường tức là thân (sắc) và tâm
(danh). Lại nữa, theo tinh thần Duy Thức Học thì thức
(tức là
tàng thức hay a-lại-da thức) là nơi sinh khởi ra mọi
hiện
tượng; cho nên rốt cuộc, năm uẩn cũng chỉ là một
uẩn
duy nhất mà thôi: đó là THỨC.
Mặt khác, khi ta nói về “bốn
nguyên
tố” (tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong) cấu thành thân thể con
người,
thì cả bốn nguyên tố này đều thuộc về “sắc uẩn”.
Khi ta
nói đến “sáu nguyên tố” (lục đại) tạo thành bản thân con
người
thì 5 nguyên tố đầu (địa, thủy, hỏa, phong, không) thuộc
về
sắc uẩn, còn nguyên tố thứ sáu (thức) thì bao
gồm cả
4 uẩn là thọ, tưởng, hành và thức.
CHÚ THÍCH
(1) “Uẩn” cũng còn được gọi là
“ấm”,
nghĩa là ngăn che, tức là năm yếu tố này làm cho con người không
thể
thấy được thực tướng của vạn hữu.