HÌNH TƯỢNG BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM NGHÌN TAY NGHÌN MẮT
(từ Tín Ngưỡng Dân Gian đến Đỉnh Cao của Nền Mỹ Thuật Phật Giáo Việt Nam)
Chúng ta
nhìn thấy trên đây bức hình của pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay
Nghìn Mắt bằng gỗ sơn son thiếp vàng, cao 3 mét 60 đang được tôn trí tại
Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà Nội, Việt Nam. Pho tượng nầy đã được phục
chế theo mẫu của pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang được
trân quý và giữ gìn tại Chùa Ninh Phúc còn gọi là Chùa Bút Tháp tại tỉnh
Bắc Ninh, Việt Nam. Những đường nét tinh tế, điêu luyện và sự bố cục
cân đối trong tư thế ngồi rất hùng tráng của pho tượng đã đạt đến đỉnh
cao mỹ thuật của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ 17. Đã nhiều lần,
pho tượng đã được đem đi ra ngoại quốc để triển lãm.
Hiện
nay, pho tượng nầy đã được dùng làm tượng mẫu để điêu khắc hàng nghìn
pho tượng lớn nhỏ khác nhau bởi nhiều điêu khắc gia tài ba lỗi lạc đã
được thỉnh về tôn trí rất nhiều nơi trong nước cũng như rất nhiều chùa
viện tại hải ngoại. (Hình trên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn
Mắt (cao 3.60 mét) đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật, Hà
Nội).
Quan
Thế Âm hay Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) là biểu
tượng tuyệt vời nhất của tư tưởng trí tuệ, từ bi, giác ngộ giải thoát
của Phật Giáo Đại Thừa.
Tại
Việt Nam, tín ngưỡng tôn thờ tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm bằng gỗ,
bằng đất nung và bằng đá hiện còn tồn tại xuất phát từ đời nhà Mạc, cuối
thế kỷ thứ 16 (1527-1592). Tượng hình Quan Thế Âm Bồ Tát với tư thế
ngồi toà sen rất được phổ biến từ thời đại nầy trở đi. Trong thời đại
Nhà Mạc, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là pho tượng
đặc trưng cho đỉnh cao của nền Mỹ thuật tượng hình của Phật Giáo Việt
Nam.
Tại
Việt Nam, tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt có một
chiều dài lịch sử phát triển đặc biệt cần được tìm hiểu một cách nghiêm
túc. Một cách đại cương, pho tượng đã được phát nguồn từ tín ngưỡng trì
tụng Thần Chú Đại Bi (Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni
hay tiếng phạn đọc là Aryavalokitesvaraya Bodhisattvaya Mahasattvaya
dharni), trở nên rất phổ thông và nổi tiếng không những chỉ trong giới
tu sĩ xuất gia mà còn đối với giới cư sĩ tại gia. Trong đời nhà Lý đã
có hàng ngàn tu sĩ trì tụng thần chú đại bi nầy, trong số đó có một vị
thiền sư nổi tiếng là ngài Từ Đạo Hạnh (? -1117), hằng ngày phát nguyện
trì tụng hàng trăm biến thần chú đại bi. Theo truyền thuyết được truyền
tụng tại Chùa Thầy, tỉnh Hà Tây, ngài Từ Đạo Hạnh đã chứng đắc thần
thông diệu dụng do sự nhiệm mầu và trì lực của Bồ Tát Quan Thế Âm Nghìn
Tay Nghìn Mắt.
Kể
từ thế kỷ thứ 13 trở đi, Bồ tát Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt được
truyền tụng trong khắp dân gian, rất nhiều pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm
được điêu khắc để phụng thờ tại rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Tuy vậy,
rất ít ngôi chùa tại miền Bắc Việt Nam còn giữ được những pho tượng của
giai đoạn lịch sử nầy. Cùng lúc đó, ngôi Chùa Đại Bi đã được xây cất
trong. Cái tên gọi của chùa cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng sâu đậm tín
ngưỡng trì tụng Thần Chú Đại Bi và sự linh hiển nhiệm mầu của Bồ Tát
Đại Bi Quan Thế Âm.
Mặc
dù Phật giáo tại Việt Nam vào thế kỷ thứ 15 dường như bị mai một, nhưng
tượng hình Bồ Tát Quan Thế Âm vẫn còn được tiếp tục điêu khắc chạm trổ
để lễ bái phụng thờ. Sự kiện nầy cho thấy tín ngưỡng Quan Âm vẫn còn
đóng một vài trò rất quan trọng trong hoàn cảnh dù thịnh đạt hay suy
vi. Khi Phật giáo Việt Nam được phục hưng vào thế kỷ thứ 16, hình tượng
Bồ Tát Quan Thế Âm lấy lại được vị trí nổi tiếng của nó với hình tượng
có nhiều cánh tay đã được điêu khắc chạm trổ để tôn thờ tại nhiều chùa
viện khắp cả nước. Trong số hình tượng nầy, có hình tượng Quan Âm Toạ
Sơn, Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Tống Tử…
Quan
Âm Tống Tử, hay Quan Âm Đồng Tử trong truyền thống tín ngưỡng hình
tượng còn được biết với danh hiệu Quan Âm Thị Kính. Cả hai đều phát
nguồn từ một câu chuyện trong truyền thuyết dân gian. Hình ảnh pho
tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín
ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 và đã trở nên nổi tiếng
vào thế kỷ thứ 18. Tượng hình xuất hiện với thân người nữ, đặc biệt là
người nữ không có con trai để nối dõi tông đường, hoặc những người phụ
nữ không có gia đình. Bồ Tát Quan Âm hoá hiện với hình ảnh chú bé con
sinh ra trong gia đình của người phụ nữ nầy như là sự linh ứng nhiệm mầu
do sự cầu nguyện Quan Âm để cho người phụ nữ nầy làm tròn sứ mạng hiếu
để trong gia tộc theo truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Rất
nhiều người Việt trong chúng ta (đặc biệt là những cụ già) biết rõ về
câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Trong quá khứ cũng như hiện nay câu chuyện
về Quan Âm Thị Kính còn được trình diễn trong các tuồng cải lương, hát
chèo và văn học chữ Nôm. Câu chuyện được kể rằng, có một người phụ nữ
đạo hạnh và rất xinh đẹp tên là Thị Kính thuộc con nhà họ Mãng, có chồng
tên là Thiện Sĩ. Chồng nàng là một bạch diện thư sinh. Thị Kính vốn là
người vợ có công dung ngôn hạnh vẹn toàn thương yêu và tôn thờ chồng hết
mực. Nàng hy sinh tất cả thì giờ của mình để chăm sóc cho chàng ăn học
mong sao cho chàng có đầy đủ thì giờ để học bài để thi cử đỗ đạt nên
danh phận.
Vào
một đêm khuya, trong khi Thiện Sĩ đang học bài bên cạnh Thị Kính ngồi
đan áo cho chồng mình. Vì quá mệt mỏi do vì thức khuya để học bài,
Thiện Sĩ ngủ gục trên bàn. Lúc ấy, Thị Kính nhìn thấy một sợi râu lạ
mọc ngược trên cổ của Thiện Sĩ. Thị Kính nghĩ rằng sợi râu mọc ngược
như vậy là không tốt, bèn dùng kéo để xắp bỏ sợi râu ấy. Bất hạnh thay,
ngay trong lúc đó Thị Kính làm đụng cái kéo vào cổ của Thiện Sĩ khiến
cho Thiện Sĩ bị thức giấc. Chàng ta hoảng sợ và kêu la cầu cứu vì tưởng
rằng vợ mình là Thị Kính muốn giết mình. Mẹ chàng Thiện Sĩ chạy đến và
kết tội oan cho Thị Kính là cố ý giết chồng. Do vậy, Thị Kính đã bị mẹ
chồng đuổi về quê cha mẹ ruột của mình.
Vì
quá đau khổ cho nỗi oan của mình, Thị Kính lại nghĩ rằng nếu mình quay
về nhà cha mẹ ruột thì có thể mang lây tiếng xấu cho cha mẹ, do vậy,
nàng trốn chạy khỏi nhà chồng ra đi lang thang, cuối cùng nàng bèn giả
gái thành trai để tìm đến chốn thiền môn xuất gia đầu Phật, ngày đêm
kinh kệ tu niệm. Sau được Sư Cụ Trù Trì một ngôi chùa tế độ cho xuất gia
tu học và đặt cho pháp hiệu là Kính Tâm. Và kể từ đó Thị Kính được gọi
là Kính Tâm (chú tiểu Kính Tâm).
Thế
nhưng chẳng bao lâu, một tai nạn khác lại giáng xuống đầu chú tiểu Kính
Tâm. Có một cô con gái tên là Thị Mầu, vốn con nhà giàu sang phú quý,
trâm anh thế phiệt. Thị Mầu thường lui tới cửa Phật và đã lụy tình vì
chú tiểu Kính Tâm. Chú tiểu Kính Tâm vốn là nàng con gái Thị Kính giả
trai làm sao có tình yêu với Thị Mầu. Không được đáp ứng tiếng gọi của
ái tình, do vậy Thị Mầu mới đem tâm chọc ghẹo tìm cách báo thù.
Thị
Mầu bèn giao du với chàng trai vốn là người làm công phục vụ trong nhà
cho nên đã có bầu mang thai. Vì chưa cưới chồng mà đã có thai nên Thị
Mầu bị người hàng xóm láng giềng tra khảo gạn hỏi. Thị Mầu bảo rằng nàng
ta đã bị chú tiểu Kính Tâm quyến rũ và tác giả đứa bé trong bụng của
Thị Mầu chính là chú tiểu Kính Tâm.
Do
vậy, chú tiểu Kính Tâm bị đưa ra trước công đường xử phạt nặng nề vì
tội quan hệ trai gái không chính đáng. Mặc dù bị xử oan, nhưng Kính Tâm
vẫn không để lộ tông tích của mình là gái giả trai. Vì lòng từ bi vô
hạn, Sư Cụ Viện Chủ ngôi chùa phải trả tiền thế chân tại ngoại với giá
rất đắt để chú tiểu Kính Tâm về chùa tiếp tục tu niệm. Tuy nhiên, Kính
Tâm không được ở trong nội viện mà phải ăn ở ngoài tháp chuông chùa gần
nơi lối ra vào cổng tam quan.
Sau
khi Thị Mầu hạ sinh đứa con trai, Thị Mầu mới đem bỏ trước cổng tam
quan của chùa. Với tình yêu thương vô bờ sẵn có của một người phụ nữ,
Kính Tâm nhận đứa con trai nầy làm con nuôi. Hằng ngày Kính Tâm đi xin
sữa và thức ăn quanh xóm để nuôi chú bé vốn là đứa con của Thị Mầu. Sự
kiện nầy khiến Kính Tâm lại càng bị người hàng xóm láng giềng dèm pha sỉ
nhục. Kính Tâm chăm sóc cậu bé ròng rã 3 năm và phải sống trong hoàn
cảnh thiếu thốn, Kính Tâm phát bệnh nặng. Ngại rằng mình phải bị chết
vì cơn bạo bệnh đang hoành hành, Thị Kính (chú tiểu Kính Tâm) mới viết
thư gởi cho cha mẹ ruột của mình để xin song thân phụ mẫu đem chú bé
giao cho Sư Cụ Viện Chủ ngôi chùa mà Kính Tâm đang ở, trước khi Kính Tâm
nhắm mắt lìa trần.
Sau
khi Kính Tâm chết, người dân trong làng tắm rửa tẩm liệm Kính Tâm, họ
mới phát hiện ra rằng chú tiểu Kính Tâm vốn là gái giả trai vào chùa tu
niệm, mới nhận chân được lòng từ vô hạn của Thị Kính cũng như nỗi đau
khổ nhọc nhằn vì bị bạc đãi bởi bên nhà chồng và dân chúng trong làng.
Tất cả mọi người dân làng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với Thị Kính đã cử
hành tang lễ cầu siêu vô cùng trang nghiêm và trọng thể để giải oan cho
nàng.
Thật
là linh hiển nhiệm mầu, trong giữa lúc cử hành tang lễ có một mùi hương
thơm ngào ngạt toả khắp không gian, mọi người đang tham dự tang lễ
ngước nhìn lên trời mới thấy Thị Kính xuất hiện với hình dáng Mẹ Hiền
Quan Thế Âm đang đứng giữa mây trời với năm sắc hào quang sáng ngời.
Qua
câu chuyện nầy chúng ta thấy Bồ Tát Quan Thế Âm xuất hiện với thân
tướng người nữ trong hoá kiếp cuối cùng của ngài. Kỳ thực, trong câu
chuyện Quan Âm Thị Kính vừa kể trên đây của Việt Nam, ngài không có xuất
hiện với nghìn tay nghìn mắt như pho tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan
Thế Âm nổi tiếng tại Chùa Bút Tháp, tỉnh Bắc Ninh Việt Nam. Tuy vậy,
câu chuyện Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Tống Tử rất gần gủi với hình ảnh
người bình dân là Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay của Ngài.
Đối
với người đàn bà mà không sinh được con trai để nối dõi tông đường muốn
cầu được sinh con trai ngỏ hầu tránh khỏi tiếng dèm pha chế nhạo của
tiếng đời. Điều nầy không những chỉ xuất hiện trong văn hoá của Phật
Giáo Việt Nam mà đã có gốc rễ từ các nước trong vùng Đông Nam Châu Á như
Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn. Tất cả đều bắt nguồn từ Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, phẩm Phổ Môn..
Có
một đoạn kinh trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa liên hệ trực tiếp
đến sự linh thiêng mầu nhiệm khi người phụ nữ cầu xin được sinh con trai
hay con gái như sau,“Nhược hữu nữ nhơn, thiết dục cầu nam, lễ bái cúng
dường, Quan Thế Âm Bồ tát tiện sanh phước, đức trí huệ chi nam, thiết
dục cầu nữ, lễ bái cúng dường, Quan Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức,
trí tuệ chi nữ”(Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng
dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử
muốn cầu con gái, bèn sanh con gái hình tướng xinh đẹp, trước đã trồng
gốc phước đức, mọi người đều kính mến).
Mặc
dù trong văn bản kinh Pháp Hoa tiếng Phạn cũng như những văn bản phiên
dịch tiếng Anh thì Quan Thế Âm không có phân biệt Nam thân hay nữ tướng.
Nhưng trong truyền thống của Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam, thì Bồ
Tát Quan Thế Âm được biết với thân tướng người nữ. Qua hai câu chuyện
Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Tống Tử đến tích truyện Quan Âm Thị Kính đã
được truyền tụng trong dân gian, chúng ta thấy rõ rằng Quan Âm tại Việt
Nam xuất hiện với hình tướng người nữ.
(Hình
bên là pho tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt (cao 2.80 mét) đang
được tôn trí tại Tiền Đường của Chùa Trúc Lâm, Chicago, USA.)
Quan
Âm Thị Kính có cùng một nguồn gốc với Quan Âm Đồng Tử, rất được phổ
biến trong dân gian hầu hết đạo hữu Phật tử Việt Nam đều biết. Tuy
nhiên cũng có một số thanh thiếu niên chưa có cơ hội tìm hiểu cho nên
chúng tôi xin được trình bày về chi tiết truyện tích Quan Âm Thị Kính.
Hình tượng Mẹ Hiền Quan Âm bồng con hay Quan Âm có đồng tử theo hầu xuất
hiện lần đầu tiên ở Việt Nam
Ngoài
hình ảnh Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Thị Kính, trong dân gian Việt còn có
hình ảnh Quan Âm Diệu Thiện. Kỳ thực Quan Âm Diệu Thiện có gốc rễ trong
tín ngưỡng dân gian của Phật Giáo Trung Hoa bắt đầu vào thế kỷ thứ
XI.
Câu
chuyện về Quan Âm Diệu Thiện được truyền tụng vào thế kỷ XI kể rằng có
một vị vua không có con trai để nối truyền ngôi vị. Sau nhiều ngày cầu
khẩn tha thiết lễ bái cầu nguyện, thay vì sinh được con trai thì hoàng
hậu hạ sinh 3 người con gái tướng đẹp kiều diễm thướt tha. Hai người chị
gái có chồng, riêng người thứ ba có tên là Diệu Thiện quyết định không
có chồng để đi tu trở thành một ni cô. Diệu Thiện cầu nguyện nương nhờ
thần lực của Ngọc Hoàng và xuống địa ngục tầng thứ 18 mà cứu vớt vô số
chúng sinh đang bị chìm đắm khổ đau trong chốn địa ngục. Sau đó, Diệu
Thiện đến núi Hương Cao và toạ thiền ở đó suốt chín năm và chứng đắc
thần thông pháp lực nhiệm mầu. Với thần thông diệu lực nầy Diệu Thiện
đã biến hoá mình thành một bác sĩ để điều trị cơn bệnh ngặt nghèo của
vua cha bằng cách xả bỏ tay chân và mắt mũi cuả mình. Cuối cùng Diệu
Thiện biến hiện thành Bồ Tát Quan Thế Âm có Nghìn Tay Nghìn Mắt và hướng
dẫn gia đình hoàng tộc của Diệu Thiện trở về con đường chân lý gỉai
thoát giác ngộ.
Thật
khó mà biết được câu chuyện kể trên từ Trung Hoa được truyền sang Việt
Nam vào giai đoạn nào. Vào khoảng thế kỷ thứ 16, Diệu Thiện trở thành
một danh hiệu khác là Quan Thế Âm. Trong một văn bia đời nhà Mạc, năm
1578 một học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)
cho biết rằng pho tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại Chùa Cao Dương. Văn
bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ
bi trong đạo Phật. Mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 17 vào đầu thế kỷ thứ 18,
trong văn học chữ Nôm có vài văn bản về chuyện tích về Diệu Thiện và
Quan Âm Nam Hải đã được phiên dịch trong văn Học chữ Nôm.
Quan
Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực
tập trì chú Đại Bi Tâm Đà La Ni. Dần dần đã trở nên một biểu tượng rất
lớn trong chùa viện Phật giáo. Câu chuyện Quan Âm Diệu Thiện gíup cho
chúng ta lý giải về hình tượng đặc thù của Bồ Tát với nghìn tay nghìn
mắt. Tích chuyện nầy cũng gắn liền với tư tưởng hiếu nghĩa của dân gian,
đặc biệt đối với người đàn bà không có con trai để nối dõi tông đường.
Trên thực tế, chỉ có những ngôi chùa lớn và những đại thí chủ giàu có
tiền bạc mới có đủ phương tiện để phát tâm cúng dường điêu khắc chạm trổ
pho tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt với kích cỡ và giá trị như pho
tượng Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt đang tôn trí tại toà nhà chính của
Chùa Bút Tháp.
Cho
dù Quan Âm Bồ Tát hoá hiện nhiều thân tướng khác nhau trong truyền
thống tín ngưỡng tôn thờ của Phật giáo Việt Nam, ngày nay, hình tượng
Quan Thế Âm trong tín ngưỡng Tịnh Độ Tông được biết như là vị Bồ Tát trợ
tá cho Đức Phật A Di Đà trên cõi Tây Phương Tịnh Độ để tiếp dẫn hương
linh vãng sinh Cực Lạc, như là hình ảnh tuyệt vời đang ngồi trên đỉnh
núi cao và hướng về Biển Nam Hải để cứu vớt thuyền bè nạn nhân vốn là
thương nhân đang lâm nạn trên biển cả.
Đúng
vậy, trên đường vượt biển tìm tự do của hàng triệu người Việt, đã có sự
cứu vớt linh hiển nhiệm mầu của Mẹ Hiền Quan Thế Âm. Do vậy, Quan Thế
Âm Bồ Tát cần có Nghìn Tay Nghìn Mắt là để nhìn và để thấy cũng như cứu
vớt tất cả vạn loại chúng sinh đang chìm đắm trong sông mê biển khổ.
Hơn thế nữa, với lòng từ bi cứu tế vô hạn, Quan Thế Âm Bồ Tát còn hiện
hữu trong nhiều tầng của địa ngục để cứu độ sinh linh…
Triết
lý từ bi trí tuệ, tư tưởng giải thoát giác ngộ vô cùng sâu thẳm của
Phật giáo Đại thừa đã thấm nhuần vào trong từng làn da thớ thịt, trong
từng hơi thở và nụ cười của chúng ta kể từ thuở bình minh của Phật
giáo. Hình tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt là biểu tượng tuyệt
vời nói lên được những ý nghĩa sâu thẳm đó.
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Chùa Trúc Lâm, Chicago, Chủ Nhật, 29 tháng 04 năm 2007
(Ngày Lễ An Vị Tôn Tượng Quan Thế Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt)