Giới thiệu
Tôi muốn đặt khái niệm xã hội dân sự ra ngay đầu bài để làm phương tiện
giúp chúng ta có thể đánh giá đúng hơn về Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản.
Xã hội dân sự thường được hiểu như là vũ đài chung tồn tại giữa nhà
nước và thị trường dành cho người dân để “tranh luận về những vấn đề lợi
ích chung” và “đóng góp lợi ích chung” (Hardacre 2004, tr. 391).
Điều này cho thấy, tiêu chuẩn chủ đạo của xã hội dân sự là đạo đức -
tức là, xã hội dân sự quan tâm đến cách hành xử có đạo đức và có lợi ích
giữa con người với nhau, do đó khái niệm đức tính công dân là nền tảng
của xã hội dân sự.
Điều này tương đồng với khái niệm xã hội dân sự mà những người Hy Lạp
và La Mã đã hiểu: “Một xã hội được cai trị bằng luật, trong đó luật
được xem là sự biểu hiện đạo đức chung,… và trong đó những người cai trị
đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân” (Anheier, Glasius và Kaldor
2001, tr. 12).
Tuy nhiên khái niệm này không chỉ giới hạn nơi người Hy Lạp và phương
Tây. Đúng hơn, tôi nghĩ khái niệm “bất di dịch” về xã hội dân sự này
được tìm thấy trong mọi nền văn minh nhân loại, ở đó phạm vi xã hội hàm
chỉ một lãnh vực quan hệ con người được hướng dẫn bằng những chuẩn tắc
đạo đức.
Khái niệm xã hội dân sự bất di dịch này vốn dĩ được nối kết với những
tổ chức tôn giáo, mà xuyên suốt lịch sử, dù tốt xấu thế nào, đã tìm
cách thiết lập những cộng đồng tín ngưỡng dựa trên những lời dạy đạo đức
của giáo chủ của họ. Mặc dù xã hội dân sự hiện đại cho thấy có sự khác
biệt bởi bản chất thế tục của nó, thì nó vẫn nhấn mạnh những loại đạo
đức hành xử, ủng hộ những khái niệm thế tục và hiện đại như dân chủ và
nhân quyền.
Về phương diện lịch sử, những gốc rễ của xã hội dân sự hiện đại ở Tây
phương dường như đã bắt đầu với sự cải cách của Tin Lành và những nỗ
lực theo sau đó của những giáo phái Thiên chúa giáo mới khác nhau nhằm
tạo nên những cộng đồng dân chúng thật sự có đạo đức và ngoạn đạo.
Cuộc đấu tranh tạo nên xã hội dân sự hiện đại ở Tây phương là một nỗ
lực nhằm tái tạo lại những quan hệ đạo đức cộng đồng đang bị tan rã do
những thay đổi nhanh chống gây ra bởi công nghệ và khoa học hiện đại, sự
phát triển của những khối dân chúng đô thị, và sự sụp đổ hoàn toàn hệ
thống thần học của Giáo hội Thiên Chúa giáo (David Loy 2002).
Nhiều học giả khác nhau, như Toshimaro Ama của Đại học Meiji Gakuin,
đã đặt câu hỏi rằng liệu Nhật Bản hiện đại có thực là một xã hội dân sự
như những xã hội ở châu Âu hay ở Nam Mỹ hay không. Mặc dù người Nhật có
thể thực sự thiếu một hiểu biết vững vàng đối với khái niệm hiện đại về
xã hội dân sự như là một lãnh vực xã hội tách ra khỏi nhà nước và thị
trường, tôi cho rằng họ vẫn có ý thức đối với một khái niệm bất di dịch
về xã hội dân sự.
Rõ ràng, Tịnh Độ hay Nhật Liên tông cấp tiến của triều đại Kumakura
(1192-1333) đã cho thấy một kiểu mẫu phong trào xã hội dân sự khi tạo ra
những giáo phái được đặt căn bản trên những chuẩn mực tôn giáo mà chúng
có giá trị trên cả những cộng đồng xã hội lớn hơn.
Vào triều đại Muromacchi sau đó (1333-1573), những giáo phái này đã
làm nền tảng cho toàn thể dân chúng thuộc Tịnh Độ tông (Ikko-ikki) và
những tín đồ Nhật Liên tông (Hokke-ikki) đứng lên khởi nghĩa.
Trong tiếng Nhật, thuật ngữ chỉ xã hội dân sự là Shimin-shakai (市民社会).
Những ký tự gộp thành shimin có nghĩa đen là “thành thị” (市) và “dân
chúng” (民). Điều này cho thấy rằng khái niệm của người Nhật về xã hội
dân sự là một kết quả tự nhiên của văn hoá đô thị cận đại.
Tuy nhiên Ama lưu ý rằng khái niệm này vẫn chưa được hầu hết những
người Nhật, những người có khuynh hướng xem xã hội giới hạn trong thuật
ngữ seken (世間) mà nó có nghĩa đen là “thế gian” hay “công chúng”, hiểu
một cách đầy đủ.
Khác với việc hiểu xã hội dân sự đề cập đến một lãnh vực công chúng
tách biệt khỏi nhà nước và thị trường, seken đối với người Nhật thì bao
quát hơn và hàm chỉ cho điều mà người ta không cố gắng thay đổi nhưng cố
gắng điều chỉnh cho phù hợp.
Sự phát triển xã hội dân sự hiện đại ở Nhật đã bị làm chậm lại bởi sự
kiểm soát quan liêu của nhà nước và quyền lực của nó để tái tạo những
thùng chứa cho quần chúng thành thị (Hardcare, tr 394-395).
Tuy nhiên, việc xâm nhập thường xuyên những quan kiến thế giới từ sự
hiện đại hoá bắt đầu vào triều đại Minh Trị (1868-1912) đã dần phá vỡ
những khái niệm truyền thống của dân chúng Nhật. Điều này có thể trực
tiếp nhìn thấy trong lãnh vực tôn giáo, đặc biệt ở trong những phong
trào tôn giáo mới (shin-shukyo) của thập niên 20 và làn sống thứ hai của
những tôn giáo mới (shin shin-shukyo) của thập niên 80 thế kỷ XX.
Những nhóm này đã tìm cách nói lên sự bất mãn đang gia tăng của người
Nhật thành thị, trôi nổi trong một cộng đồng thế giới luôn thay đổi và
những giá trị đạo đức không minh bạch.
Vai trò trung tâm của những chuẩn mực luân lý đạo đức, mà chúng thông
thường được đặt nền tảng nơi tôn giáo và làm cơ sở cho việc tạo nên xã
hội dân sự, có thể giúp chúng ta hiểu được những hoạt động xã hội của
các tổ chức Phật giáo ở xã hội Nhật Bản đương thời và để đánh giá phạm
vi của một phong trào Phật giáo nhập thế đích thực.
Theo đó, những vấn đề lần lượt được đặt ra ở bài viết này là: một
phong trào hay một nhóm người đống góp lợi ích cho xã hội Nhật về mặt
đạo đức là bao nhiêu? Và một câu hỏi có lẽ còn quan trọng hơn: mục đích
của các tổ chức hay những cá nhân là tập trung đống góp phúc lợi cho xã
hội dân sự - tức là cho công chúng nói chung - hay còn có những vấn đề
khác bao gồm trong những hoạt động này?
Câu hỏi cuối cùng cần lưu ý là: những tổ chức Phật giáo này thành
công đến đâu khi tiếp nối và biểu thị một mô hình xã hội dân sự bản địa
thật sự bắt nguồn từ những chuẩn mực tôn giáo và đạo đức thuộc truyền
thống Phật giáo của họ, chứ không phải từ chủ nghĩa nhân văn ảnh hưởng
Thiên chúa giáo của xã hội dân sự phương Tây?
Một hệ thống Phật giáo nhập thế
Với những vấn đề được đặt ra ở trên, tôi muốn thực hiện một sự đánh
giá thật khái quát về những kiểu mẫu hoạt động xã hội mà những Phật tử
Nhật đã tham gia. Tôi nghĩ chúng ta nên thận trọng ở đây để không cố gán
cho một tổ chức như là chỉ thích hợp với kiểu mẫu này hay kiểu mẫu nọ,
mà đúng hơn nên xem những kiểu mẫu khác nhau này như là những mô thức
hành động mà ở đó một tổ chức riêng lẻ có thể ảnh hưởng tất cả, hoặc một
vài hoặc không ảnh hưởng đến ai cả.
Do đó, chúng ta có thể sử dụng hệ thống này để hiểu sâu hơn tính phức
tạp của các hành động của một nhóm, hơn là việc sử dụng nó như là một
phương sách để phân loại chúng.
1. Cứu tế
Đây là những hoạt động truyền thống của các tổ chức tôn giáo trong
vai trò đương nhiên của chúng như là những trung tâm của xã hội dân sự
truyền thống. Ví dụ, ở Nhật Bản thời tiền hiện đại, đặc biệt trong suốt
thời kỳ Edo hay Tokugawa (1600-1868), ta có thể tìm thấy chùa chiền
trong mọi ngôi làng và tăng sĩ luôn tham gia vào mọi loại hoạt động khác
nhau để hộ trợ cộng đồng, chẳng hạn như điều hành trường học (terakoya
寺子屋) hay hỗ trợ những đề án hạ tầng của cộng đồng.
Trong suốt thời kỳ hiện đại hoá bắt đầu với triều đại Minh Trị, sự
xâm nhập tư tưởng phương Tây cùng với việc phát triển các tổ chức hiện
đại và thế tục đã tạo nên mối đe dọa đối với vai trò xã hội truyền thống
của tăng sĩ và tự viện.
Đương đầu với những khủng hoảng này, những tăng sĩ Phật giáo bắt đầu
nhìn ra các nước khác, không chỉ ở phương Tây mà cả ở những quốc gia
Phật giáo khu vực châu Á, và họ đã phát triển những mô thức hoạt động
phúc lợi xã hội hiện đại và mới hơn, như các trung tâm và trường mẫu
giáo ngày hôm nay, trong suốt thời kỳ Taisho (1912-1926).
Một ví dụ nổi bật là công việc của vị tăng sĩ thuộc Tịnh Độ tông
Shiio Benkyo (1876-1971). Ông đã hình thành nên phong trào Kyosei
(kyosei-kai 共生会) bên trong Tịnh Độ tông. Kyosei đại khái được dịch là
Hội Cộng Sinh, và Benkyo đã đặt ý tưởng này trên học thuyết duyên khởi
(pratitya-Samutpada) của Phật giáo.
Ông đã giải thích học thuyết duyên khởi trên nền tảng xã hội loài
người và nhấn mạnh rằng người ta cần nên nhận biết sự cứu độ của Phật
A-di-đà là ở trong xã hội và đời sống hàng ngày. Phong trào này đã khiến
nhiều tăng sĩ thuộc Tịnh độ tông thiết lập những trung tâm bảo dưỡng và
trường học ngay bên trong chùa hoặc ở trong vườn chùa của họ, hoặc tham
gia vào những hoạt động công ích xã hội khác.
Điều này cho thấy rằng những bước quan trọng ban đầu trong việc tiến
hành phát triển xã hội dân sự đã được đặt trên những khái niệm Phật giáo
bản địa. Sự phát triển những đề tài phổ quát như vậy được kết hợp với
việc tu tập trong đời sống hàng ngày như là một phương tiện cho sự
chuyển hoá nội tâm và sự chuyển đổi xã hội thì cũng được các trường Phật
học mới xuất hiện trong kỷ nguyên này cũng như những tổ chức Tịnh Độ
tông thực hiện (Stone 2003).
Tuy nhiên, những phong trào như thế này không trở thành những hoạt
động chính thức được các giáo phái xúc tiến như là những hoạt động “phúc
lợi xã hội” (shakai fukushi 社会福祉) mãi cho đến sau chiến tranh, và như
vậy đã hạn chế sáng kiến riêng của những tăng sĩ.
Thêm nữa, ở đây cho thấy bản chất đạo đức và tư tưởng hệ của những
hoạt động này có một vài hạn chế bởi vì chúng không hề được phát triển
thành một phong trào thách thức chủ nghĩa dân tộc đang lớn mạnh của
chính quyền và xã hội.
Mặc dù Benkyo ban đầu cho thấy là chống chiến tranh, nhưng rồi ông
vẫn là một thành viên của Nghị viện và là một lãnh đạo tôn giáo ủng hộ
chiến tranh mãi cho đến khi nó kết thúc (Eisawa 2002).
Do đó, tôi quy cho lĩnh vực đầu tiên này là “cứu tế”, bởi vì bản chất
hành động xã hội không đưa đến chiều hướng thách thức cấu trúc xã hội
hiện hành, đặc biệt về mặt chính trị, mà duy trì nó bằng cách cứu tế hay
trợ giúp dân chúng.
Trong chừng mực nào đó, những hoạt động này có thể được xem như là
một phần của xã hội dân sự, bởi vì chúng tập trung đặt tác dụng vào cá
nhân để hành động một cách tích cực và có đạo đức trong lĩnh vực xã hội.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, chúng ta không thể xem chúng là những
hoạt động xã hội dân sự đích thực bởi vì bằng việc nhấn mạnh vào tác
dụng cá nhân chúng thường bỏ qua những bất công, theo đó trở thành công
khai thoả hiệp với quyền lực áp bức (Stone 2003).
Điều này thấy rõ ràng qua việc Tokugawa Shogunate đã sử dụng chùa
chiền để giám sát dân chúng Nhật thông qua hệ thống đăng ký chùa bắt
buộc (danka seido); và ở trong kỷ nguyên hiện đại, thấy rõ nơi quy định
dành cho những những tổ chức tôn giáo thông qua việc thành lập những tập
đoàn công ích tôn giáo (shukyo koeki hojin 公益法人), mà vị trí pháp lý của
chúng có thể bị chính phủ huỷ bỏ (Hardacre, tr. 395).
Kỷ nguyên Taisho, chủ nghĩa tích cực của những tăng sĩ Phật giáo phần
nào hấp thụ khái niệm phục vụ công ích, mà nó cũng là một phương thức
còn sót lại của những Phật tử truyền thống nhằm duy trì vị trí của họ
trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nguy hiểm của Nhật Bản thời
đầu hiện đại với sự thế tục và những tình cảm Thần Đạo (Shinto) của nó,
cũng như sự sanh khởi của những giáo phái Phật giáo mới.
Do đó, nhưng mô hình hoạt động này thật sự không theo kịp tư tưởng xã
hội dân sự bởi vì chúng không đưa ra được một sự lựa chọn nào khác
ngoài quyền lực nhà nước.
Trong những trường hợp tồi tệ nhất, chúng có thể làm méo mó ý nghĩa
chân thực của xã hội dân sự khi duy trì hệ tư tưởng nhà nước xem đó như
là hiện thân đầy đủ của xã hội dân sự và bằng việc dọn sạch những cuộc
biểu tình chống áp bức và bất công do một nhà nước áp bức tạo ra thông
qua những hoạt động cứu tế của họ.
2. Truyền giáo
Những hoạt động này là công việc mà mọi tổ chức tôn giáo đều làm, là
phần việc xây dựng tổ chức thành một phong trào quần chúng. Theo truyền
thống, những hoạt động như vậy là gửi những phái đoàn truyền giáo đến
những địa phương mới để truyền bá giáo lý và sau đó xây dựng chùa chiền
tại nơi ấy.
Trong thời hiện đại, đặc biệt trong số những tổ chức Phật giáo mới
của Nhật, điều này đã được mở rộng thêm bao gồm việc thành lập chính
thức những đoàn thể hoàn toàn mới bên trong xã hội Nhật bằng việc xây
dựng trường học, các đại học và bệnh viện .v.v…
Những hoạt động này đã tìm cách cung ứng và quan tâm không chỉ nhu
cầu tinh thần của cộng đồng mà còn cả những nhu cầu vật chất. Như vậy,
những hoạt động phổ biến này và những công tác cứu trợ mới mẽ được đề
cập ở trước đã thể hiện xu hướng hiện đại đặc thù trong việc tập trung
tiêu điểm vào lợi ích vật chất của dân chúng cũng như lợi ích tinh thần
của họ.
Tôi quy cho những hoạt động này là “truyền giáo”, bởi vì cho dù có thể
có mục đích đạo đức là làm điều tốt cho người khác, thì ở đó có động lực
“vị kỷ” nằm sau những hoạt động là nhằm xây dựng mục tiêu, sức mạnh và
uy tín của tổ chức.
Do đó, không thể quy cho những hoạt động này là những hoạt động xã
hội dân sự đích thực được bởi vì quyền ưu tiên là lợi ích của tổ chức và
sự phát triển chỉ ở bên trong nhóm tín đồ, thay vì vào xã hội lớn hơn
như một tổng thế.
Như vậy, chúng ta có thể nhận ra hoạt động cứu tế qua việc xây dựng
một trường mẫu giáo do một ngôi chùa truyền thống thực hiện và hoạt động
truyền giáo qua việc xây dựng một ngôi trường trung học do một tổ chức
Phật giáo mới tiến hành có một sự khác biệt cơ bản trong động cơ, tức mô
hình trước dùng biện pháp phòng thủ nhằm duy trì vị trí trong xã hội,
trong khi mô hình sau thì có cách thức tấn công để đạt lấy vị thế ở
trong xã hội.
Bản chất “tấn công” của những hoạt động này cũng có thể biểu hiện
chính nó như là một sự thách thức đối với xã hội hiện hành, và trong
trường hợp những tổ chức Phật giáo mới, dĩ nhiên là một sự thách thức
đối với quyền lực hỗ tương của những giáo phái Phật giáo truyền thống và
chính quyền nhà nước. Từ lập trường tư tưởng hệ, những tổ chức này có
thể viện đến các giáo lý trong tín ngưỡng của mình khi vượt qua những
luật lệ thế tục của nhà nước.
Việc viện đến điều như vậy là một đặc điểm dễ thấy trong lời giảng
của ngài Nhật Liên (Nichiren), người đã ứng dụng triết học kinh Pháp Hoa
trong khi sử dụng vai trò tu sĩ của mình thách thức nhà nước và tổ chức
Phật giáo.
Dường như rất trùng hợp rằng, hầu hết những tổ chức Phật giáo nổi
tiếng nhất của Nhật Bản hiện đại đều phát xuất từ dòng chảy Nhật Liên,
như Soka Gakkai, Reiyukai, Rissho Koseikai và Nipponzam Myohoji.
Về phương diện xã hội dân sự, những tổ chức Phật giáo mới, dễ thấy nhất
là Soka Gakkai, đã đề xuất một kiểu mẫu khác về trật tự xã hội, một loại
chủ nghĩa cải cách xã hội, khác cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, và được đặt cơ sở trên khát vọng của quần chúng thứ yếu trong suốt
thời kỳ hiện đại hoá và gia tăng kinh tế.
Trong thời kỳ chuyển đổi xã hội nhanh chống hậu chiến tranh, dân
chúng đô thị phát triển cần một vài điểm tựa tinh thần và sự hỗ trợ xã
hội, và Soka Gakkai đặt nền tảng trên Phật giáo rõ ràng đã đáp ứng được
những nhu cầu của họ. Đây rõ ràng là một loại xã hội dân sự không bị nhà
nước kiểm soát, mà nó phần nào nhằm sắp xếp lại phạm vi công chúng
thông qua cơ cấu đại diện chính trị.
Do đó Soka Gakkai đã thành lập đảng Komei vào năm 1964, chủ trương
tính minh bạch và phúc lợi, mà cả hai đang thiếu vắng trong thời kỳ phát
triển kinh tế vượt bậc này. Do đó, cái nhìn về một trật tự tâm linh-xã
hội mới bởi những tổ chức Phật giáo mới như vậy có thể đại diện cho tinh
thần chân thực của xã hội dân sự khi đưa ra một cơ sở quyền lực khác
cho quyền lực cố thủ.
Tuy nhiên, hoạt động truyền giáo và khả năng “tấn công” của những tổ
chức như vậy thường có thể tạo ra những hình thái thoả hiệp mới với
những hình thái quyền lực phi dân sự khác, chẳng hạn như quyền lực thị
trường, đối cực khác mà xã hội dân sự được cho là đưa ra một sự thay
thế.
Trong môi trường hết sức tư bản của Nhật sau chiến tranh, sự phát
triển công nghệ tang lễ do các nhóm Phật giáo truyền thống thực hiện,
những hoạt động tiếp thị và xây dựng quần chúng của những nhóm Phật giáo
mới đã khiến cho Phật giáo đi đến thoả hiệp với quyền lực tài chính.
Như vậy, rất khó để gọi những hoạt động này là hoạt động xã hội dân
sự đích thực khi mục tiêu cốt yếu của chúng không phải là phát triển đạo
đức xã hội mà là sự phát triển tài chính cho chính tổ chức của họ.
3. Cải cách
Những hoạt động này phù hợp với điều mà tôi gọi là những hoạt động xã
hội dân sự được phát triển hoàn thiện và đầy đủ, và cũng là điều tôi
gọi là một phong trào Phật giáo nhập thế trưởng thành. Cùng với cứu tế
và truyền giáo, đây là một mô thức khuôn mẫu mà nó không thể thực hiện
được trọn vẹn bất cứ nơi đâu ngoại trừ ở những tổ chức Phật giáo bao gồm
mọi tầng lớp khác nhau. Có hai đặc điểm chủ chốt của loại phong trào
này.
1. Thứ nhất là một sự phê bình tư tưởng về hệ thống quyền lực trong
xã hội hiện hành. Một sự phê bình như vậy sẽ thiết lập tổ chức vững chắc
như là một phần của phong trào xã hội dân sự đích thực, mà nó đưa ra
một cái nhìn khác về xã hội ở bên ngoài nhà nước và những tiêu chuẩn
thương mại. Đây là một yếu tố then chốt ở những phong trào Phật giáo
nhập thế tại những khu vực khác của châu Á.
Ở Thái Lan và Sri Lanka, sự phê bình này triệt để tập trung vào vấn
đề bạo lực và sự phá sản đạo đức của thời kỳ phát triển hiện đại, khi
chủ trương một kiểu mẫu Phật giáo đặc biệt cho sự phát triển, chẳng hạn
như phong trào “Thức tỉnh tất cả” của Sarvodaya ở Sri Lanka và khái niệm
“Chủ nghĩa xã hội theo Pháp/Dhamma” được đề ra bởi vị Tỳ-kheo người
Thái Buddhadasa (Queen và King, 1996).
2. Đặc điểm thứ hai là một sự kết ghép việc phê bình ý thức hệ này
với một phong trào hành động xã hội tiến bộ; điều thấy được ở Sri Lanka
qua phong trào phát triển nông thôn quy mô của Sarvodaya và công việc
của các Tỳ-kheo ở Thái Lan.
Điểm chủ chốt khi chỉ định cho lĩnh vực này là “cải cách” vì rằng
thành phần tư tưởng hệ và hành động xã hội ảnh hưởng lẫn nhau một cách
sâu sắc và tạo ra một sức ép biện chứng ngăn cản một trong hai đi đến
thay đổi.
Theo quan điểm Phật giáo, chúng ta có thể hiểu hai đặc tính này như
là những cách thức biện chứng giữa trí tuệ và từ bi. Trí tuệ mà thiếu từ
bi có thể lạnh lùng và là công cụ, trong khi từ bi mà thiếu trí tuệ có
thể làm kiệt quệ chính nó trong việc ứng dụng không sáng suốt.
Ví dụ, một phong trào mà nó tập trúng nhiều vào tư tưởng hệ có thể
làm mất đi sự tiếp cận của nó ở những hoạt động phục lợi xã hội căn bản
mà thông qua đó nó đưa ra những tình cảm đạo đức. Một sự phê bình tư
tưởng hệ mà đánh mất sự tiếp cận như vậy có thể trở nên quá mắc míu với
việc phê bình quyền lực của nó và sự ràng buộc của nó với quyền lực,
theo đó dễ bị ảnh hưởng bởi những lôi cuốn tương tự đối với quyền lực
phê bình.
Theo hướng vô hại, điều này biểu hiện chính nó ở nơi những tổ chức
Phật giáo mà chúng đề cập đến phục vụ xã hội bởi vì quyền ưu tiên cao
của chúng được trao cho để phát triển quyền lực tổ chức mà đích đến là
ưu đãi phục vụ nhóm tín đồ của chúng. Theo hướng có hại, sự phê bình tư
tưởng hệ sẽ trở thành một phong trào chính trị gây chia rẽ mà rốt cuộc
chính nó có thể dính mắc với “những thay đổi chính thể” nơi quyền lực
nhà nước và thương mại.
Điều này thấy rõ ở Sri Lanka, nơi mà phong trào Tăng già tái xác định
lại chính nó để chống lại những mối đe dọa của chủ nghĩa hiện đại
phương Tây, đã biến nó thành một hình thức chủ nghĩa dân tộc được đặt cơ
sở trên sự hợp nhất của nhà nước, tôn giáo và dân chúng.
Về phía Nhật Bản, xu hướng này có thể được dẫn chứng thêm một lần nữa
ở phong trào Nhật Liên. Chính Nhật Liên đã thực hiện một sự phân tích
tư tưởng sâu sắc về nhà nước chính trị Nhật bản trong tác phẩm nổi tiếng
của mình Luận giải về việc thiết lập quốc gia đúng đắn và an toàn
(Rissho Ankoku-ron). Tuy nhiên, trong thời kỳ tiền chiến tranh, phê bình
nhà nước của Nhật Liên đã bị biến dạng thành một sự hợp nhất tư tưởng
tôn giáo của ông với nhà nước để ủng hộ chủ nghĩa đế quốc của Nhật.
Điều này có tên gọi là Nichiren-shuti (chủ nghĩa Nhật Liên) và trước
đó đã được vị tăng sĩ tiền bối của Nhật Liên là Tanaka Chigaku
(1861-1939) đã nói. Tanaka Chigaku là người đã thành lập tổ chức thế tục
Rissho Ankoku-kai để ủng hộ Nichiren-shuti (Stone 2003). Ngày nay, Soka
Gakkai phục vụ hết sức khó hiểu trong lĩnh vực này.
Trong khi ủng hộ hoà bình thế giới bằng vô số những hoạt động quốc
tế, thì trên mặt trận nội địa, họ hình thành nên trụ cột tư tưởng hệ của
đảng Komei đầy quyền lực và bảo thủ mà hiện thời nó đứng về phía Nhật
ủng hộ sự can thiệp của Mỹ vào Trung Đông.
Chính sách này được liên kết với phong trào gửi quân đội ra nước
ngoài và sửa đổi hiến pháp hoà bình của Nhật, một hiến pháp mà nhà lãnh
đạo của Soka Gakkai là Daisaku Ikeda đã tuyên bố là làm cho Nhật Bản
“hoàn toàn có đủ tư cách là người tiên phong huy động tất cả những lực
lượng hoà bình thế giới, nắm lấy cương vị lãnh đạo, và đánh thức dư luận
thế giới thông qua Liên Hiệp Quốc (Stone 2003, tr 86).
Sự vắng mặt tiếp tục của Soka Gakkai trong những sáng kiến xã hội dân
sự và hoà bình liên Phật giáo và liên tôn giáo bên trong Nhật Bản đã
củng cố thêm những mối nghi này, và cho thấy phù hợp với triết lý chung
của họ về việc không hợp tác với những nhóm tôn giáo khác, dù Phật giáo
hay không Phật giáo.
Mặt khác, một phong trào mà thiếu đi sự phê bình ý thức hệ và chỉ tập
trung vào hành động xã hội thì có khuynh hướng giống với hoạt động cứu
tế của nhiều tổ chức Phật giáo. Điều này rõ ràng có mặt ở trong hầu hết
những tổ chức Phật giáo mà chúng đảm trách công việc xã hội ở Nhật Bản
ngày nay. Một bộ phận lớn trong những nhóm này dốc hết tâm trí vào
“những hoạt động hợp tác quốc tế”, bao gồm nhiều hình thức cứu tế khác
nhau đến châu Phi, Trung Đông, Nam và Đông Nam châu Á.
Cũng có một số lớn chuyên bàn suông về hoà bình. Tôi sử dụng từ “bàn
suông” bởi vì hầu hết mọi hoạt động đều là thiết lập hội thảo, xuất bản
ấn phẩm và tuyên ngôn, trong khi hầu như không có sự phê bình nào về sự
thoả hiệp kinh tế và chính trị của Nhật với tình trạng xung đột khắp nơi
trên thế giới.
Dân chúng Nhật luôn được dạy dỗ để đổ lỗi những vấn đề này cho Hoa
Kỳ, thay vì nghiên cứu xem những nhu cầu của họ về dầu lửa và năng lượng
dưới lòng đất cũng như lối sống tiêu thụ của họ đống vai trò quan trọng
trong việc duy trì quyền bá chủ của Mỹ trên thế giới như thế nào.
Từ một điểm nhìn Phật giáo, Miến Điện có thể là một ví dụ rõ ràng
nhất về sự thoả hiệp và thiếu tính phân tích xã hội này của Nhật. Miến
Điện, một quốc mà Phật giáo là chính yếu, đã chịu một chế độ quân sự độc
tài hà khắc trên bốn mươi năm.
Tuy thế những tổ chức Phật giáo ở Nhật đã không thực thi nỗ lực có hệ
thống để giáo dục quần chúng về vấn đề này và để đưa đến một cuộc vận
động nhất quyết chống lại những hoạt động thương mại của Nhật và việc
viện trợ nước ngoài của Nhật mà nó yểm trợ cho chính quyền đó.
Trong khi một vài tạp chí Phật giáo ở Nhật quảng cáo việc chào bán gỗ
tếch của Miến Điện sử dụng cho việc xây dựng lại chùa chiền, thì Thiên
chúa giáo Tây phương tiếp tục là người lãnh đạo trong việc cứu trợ và
thương mại đã tẩy chay tập đoàn quân nhân Miến Điện.
Cần nên nhớ rằng các Phật tử ở Nam và Đông Nam châu Á cũng không thể
thay đổi được quan điểm của chính phủ họ về Miến Điện. Tuy nhiên, Nhật
bản rõ ràng khác với họ trong mức độ phát triển kinh tế và trách nhiệm
dân chủ mà nó ngang tầm với Tây phương.
Kết Luận I
Chính vì điểm này mà tôi đặt ra vấn đề là tại sao các Phật tử Nhật
cần phải phát triển sự phê bình ý thức hệ mạnh mẽ của chính mình được
đặt cơ sở trên những lời dạy của Phật giáo mà nó hài hoà với loại hoạt
động xã hội ủng hộ một xã hội dân sự đích thực như là lãnh vực đạo đức
chung tách rời khỏi nhà nước và quyền lực thương mại.
Người ta có thể giải thích rằng bởi vì Nhật Bản không bị chủ nghĩa
thực dân Tây phương đô hộ, nên nó không bao giờ phải tìm kiếm và phát
triển những giá trị bản địa, như Phật giáo, làm vai trò cho một cuộc đấu
tranh dành độc lập.
Tuy nhiên, Thái Lan cũng không bị thuộc địa như Nhật, nhưng đã phát
triển thành một trong những hình ảnh Phật giáo nhập thế phong phú nhất
như là một lựa chọn thay cho quyền lực của chủ nghĩa hiện đại Tây
phương. Giải thích khác có thể là vai trò lâu dài của Phật giáo trong ý
thức hệ lập quốc từ sự khởi đầu của nó ở Nhật Bản.
Như chúng ta thấy ở mục những hoạt động “cứu tế”, Phật giáo Nhật Bản
luôn thắt chặt với nhà nước. Theo đó, những mối liên hệ mật thiết của
Phật giáo với Tokugawa Shogunate đã đóng một vai trò then chốt trong
việc tự gạt bỏ nó trong suốt thời kỳ đầu hiện đại hoá của triều đại Minh
Trị.
Giáo sư Jun Nishikawa của đại học Waseda đã đưa ra giải thích rằng cả
thời kỳ đầu hiện đại hoá và thời kỳ hậu chiến tranh đã đánh dấu một sự
biến hoá đa dạng những hệ thống giá trị của dân chúng Nhật. Bởi vậy,
Nhật Bản đã phát triển một mô hình hiện đại hoá nặng màu thế tục hơn khi
so sanh với những xã hội Phật giáo ở Nam và Đông Nam Á.
Lâu sau đó, khi các quốc gia này bước vào thời kỳ hiện đại hoá, đã
nói lên rằng Phật giáo đã sống lại vững mãnh hơn như là một hệ tư tưởng
bản địa phục vụ nhu cầu của những nhà cải cách địa phương.
Cũng cần lưu ý rằng, bản chất môn phái của Phật giáo Nhật đã đưa ra
một cái nhìn thiếu hệ tư tưởng đồng nhất về xã hội so với truyền thống
hoà hợp của Theravada phổ biến ở Nam và Đông Nam châu Á.
Do đó, xã hội dân sự Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc khái niệm thế
tục (chủ nghĩa nhân đạo) và duy vật (chủ nghĩa xã hội) của Tây phương.
Vì thế, Phật giáo thường không được xem như là một đối lực mà là một
nguồn an ủi.
Nhân đây tôi xin kể một câu chuyện đặc biệt về một người bạn cũ mà nó
đã tác động đến tôi. Cô ấy đã làm việc tích cực nhiều năm cho một tổ
chức phi chính phủ và trong những hoạt động xã hội dân sự, và cũng là
một Phật tử nhiệt tâm thuộc Nhật Liên tông. Tổ chức này thực hiện các đề
án về phát triển và những giải pháp hoà bình. Tổ chức này cũng như
nhiều tổ chức phi chính phủ nhiệt tình tích cực khác của Nhật, đã có một
căn bản Mác-xít cho hệ tư tưởng của mình.
Rốt cuộc là cô ấy đã thấy mình không thể làm việc cho họ được nữa bởi
vì thỉnh thoảng sự kỳ thị công khai đã bóp nghét niềm tin và thực tập
của cô ấy. Riêng cá nhân tôi, trong khi làm việc nhiều năm ở Thái Lan
cho một tổ chức Phật giáo phi chính phủ lớn, tôi luôn cảm nhận được một
sự thân thiết vô cùng từ dân chúng khi họ hiểu được công việc của tôi.
Trong khi đó, tôi nhận thấy sự việc hầu như trái ngược ở Nhật Bản,
nơi dân chúng thường nghi ngờ rằng tôi đang hợp tác với một nhóm cúng
bái, ngay cả khi có sự hiện diện của một giáo phái Phật giáo lớn như
Tịnh Độ tông.
Sự nhận thức chung này về Phật giáo và xã hội Nhật Bản hiện đại đã có
một ảnh hưởng lớn lao trong việc làm chậm lại sự phát triển một Phật
giáo nhập thế mạnh mẽ ở Nhật. Sự thế tục hoá toàn diện và tư nhân hoá
thực hành Phật giáo ở Nhật Bản hiện đại cũng đã làm chậm đi sự phát
triển những sáng kiến của các tăng sĩ quan tâm đến xã hội, họ luôn gặp
khó khăn khi thuyết phục tín đồ của mình về những hành động mà họ mong
đảm nhận cho xã hội.
Hơn nữa, khi văn hoá thế tục, đặc biệt ở trong giáo dục, đã đi nhanh
hơn văn hoá truyền thống Phật giáo, thì các tăng sĩ hiếm khi được nhìn
nhận như là những nhà lãnh đạo trí thức trong xã hội. Sự lựa chọn một
lối sống thế tục bởi các tăng sĩ Nhật, điều đáng chú ý ở Phật giáo Nhật,
cũng đã cướp đi của họ quyền lực đạo đức mà một tăng sĩ đạt đạo có ở
trong quá khứ (Tomatsu, 1995).
Các tăng sĩ Phật giáo và một vài tín đồ nhiệt tâm thường vẫn còn tham
gia vào những hoạt động xã hội dân sự, nhưng vẫn luôn “ở trong căn
phòng nhỏ” Phật giáo của họ.
Điều này đã tạo ra tình trạng về một loại phong trào Phật giáo nhập
thế kín, nơi mà nhiều cá nhân cố gắng tạo ra những hoạt động xã hội dân
chủ và quốc tế vẫn rất ít thấu hiểu lẫn nhau. Để tìm phương thuốc cho
tình trạng này mà mạng lưới Phật giáo phi chính phủ đã được hình thành
vào năm 2002.
(còn nữa)
Nguyên Hiệp dịch
Theo: hoangphap.info