Úc (Australia) là một quốc gia nằm ở Nam bán cầu trong vùng
ranh giới của Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là một bộ phận nằm trong Khối
Thịnh Vượng Chung thuộc Anh. Thủ đô: Canberra; diện tích 7,6 triệu km2; dân số:
18 triệu người (thống kê năm 1997); mật độ dân cư: 2,2/km2; dân số dưới 15
tuổi: 22,2%; tuổi thọ trung bình: 76,6 tuổi; tử xuất trẻ em: 7,5%; trình độ văn
hoá cấp II: 99%; thể chế chính trị: quân chủ đại nghị; thu nhập bình quân đầu
người: 17.450 đô la. Phật giáo là một trong bốn tôn giáo chính ở Úc, bao gồm
Gia Tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo.
Phật giáo chính thức được truyền đến
Úc vào năm 1848 của thế kỷ thứ 19, khi người Trung Hoa đổ xô đi tìm vàng ở một
vùng phía Đông của nước Úc. Trong nhóm người này có một số là tín đồ của đạo
Phật nên họ đã dựng một ngôi chùa nhỏ tại đó với những vật liệu tạm thời, nay
ngôi chùa này tuy không còn nhưng những pho tượng còn sót lại giúp ta khẳng
định được niên đại Phật giáo đã du nhập vào đất Úc.
Đến tháng 11 năm 1882, số lượng Phật
tử được gia tăng nhờ có nhóm người Tích Lan đến Úc để làm việc trên những đồn
điền mía đường ở vùng Mackay, phía bắc bang Queensland và các sở công nghiệp
ngọc trai ở trên đảo Thursday (bang Queensland). Đầu những năm 1890, dân số
Phật tử trên đảo Thursday, lên đến 500 người Tích Lan. Hai cây Bồ đề được cộng
đồng này trồng lúc ấy đến nay vẫn còn. Một ngôi chùa cũng đã được người Tích
Lan xây dựng trên đảo Thursday này.
Cuối thế kỷ thứ 19, ở phương Tây nổi
lên phong trào nghiên cứu và học hỏi tôn giáo và văn hóa Á châu. Ở Úc cũng đã
ảnh hưởng không khí đó. Vào năm 1891, ông Henry Steel Olcott, người có công xây
dựng nền tảng cho Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã dành 5 tháng để đi diễn thuyết Phật
pháp trên khắp nước Úc. Những bài giảng và cuốn sách "Phật pháp vấn
đáp" (Buddhist Catechism) của ông đã gây ảnh hưởng rộng lớn trong giới trí
thức Úc. Một người trong số đó là ông Alfred Deakin, người về sau ba lần được
bầu làm Thủ tướng của nước Úc. Ông có viết một cuốn sách về chuyến viếng thăm
Ấn Độ và Tích Lan của ông, trong đó ông dành 3 chương viết về Đức Phật và giáo
pháp của Ngài. Trong thời gian đó tổ chức của ông Olcott đóng vai trò quan
trọng trong việc truyền bá Phật giáo tại Úc, Hội của ông đã cung cấp kinh sách
và giới thiệu nhiều Pháp sư đến giảng dạy tại Úc. Một trong những người này là
ông F. L. Woodward, đến Úc vào năm 1919 sau 16 năm làm Hiệu trưởng Trường Đại
học Mahinda ở Galla, Tích Lan. Ông Woodward đã lưu trú tại tiểu bang Tasmania
trong 33 năm, ông dành thời gian này để đi giảng dạy giáo lý và dịch kinh Phật
từ Pali ra Anh ngữ cho Hội Kinh Điển Pali (Pali Text Society) ở Luân Đôn. Một
trong những quyển sách của ông là tuyển tập "Những lời Phật dạy" ấn
hành lần đầu tiên vào năm 1925, là quyển sách được nhiều người Úc biết đến. Cũng
vào thời điểm ấy, Tiến sĩ Worthing đã thành lập nhóm "Những nhà nghiên cứu
Chân lý" (Students of Truths), phần lớn thành viên của nhóm này là tín đồ
Gia Tô giáo. Nhóm này có chi nhánh ở Melbourne, Sydney và Tasmania.
Đoàn Tăng sĩ truyền Pháp đầu tiên
đến Úc vào năm 1915 là năm vị Tỳ Kheo người Đức, năm vị này được phái đến hoằng
pháp từ Tích Lan (Sri Lanka). Một trong năm vị này là Đại Đức Nyanatiloka
(1878-1957), một học giả, dịch giả, tác giả của nhiều tác phẩm Phật học quan
trọng, và ngài cũng là một người tiên phong trong phong trào lìa bỏ thế tục để
trở thành tu sĩ Phật giáo ở xã hội phương Tây.
Hội Phật giáo đầu tiên tại Úc là
"Little Circle of Dharma" (Tiểu Pháp Luân) do đạo hữu David Maurice
khởi xướng cùng với Max Tyler và Max Dunn vào năm 1925 tại bang Melbourne.
David Maurice sinh năm 1899 tại New South Wales (NSW), ông biết đến với đạo
Phật năm 12 tuổi nhờ đọc được Kinh Trường Bộ (Digha-nikàya) từ bản dịch tiếng
Anh của giáo sư Rhys Davids. Sau 2 năm học ngành y ở Đại học Sydney ông bỏ
ngang và trở thành nhà văn. Trong giới văn nghệ sĩ Úc, ông phát hiện nhiều
người thích nghiên cứu Phật giáo và thế là họ cùng nhau thành lập hội trên. Hội
của ông chịu ảnh hưởng của truyền thống Phật giáo Nam truyền. Đến năm 1950, ông
cho xuất bản tờ "The Light of The Dharma" (Ánh sáng của Chánh Pháp),
đây là tờ báo Phật giáo tiếng Anh tại Úc được phát hành đi khắp thế giới, và
đến năm 1962, ông cho in tuyển tập các bài viết của ông, quyển "The Lion's
Roar" (Tiếng rống của Sư tử). Có thể nói Davids Maurice và các thành viên của
ông là những người có công lớn trong việc phát triển Phật giáo tại Úc và cũng
chính họ đã làm cho thế giới biết Phật giáo tại xứ sở này trong thời gian nhóm
này còn hoạt động.
Năm 1938, một số Phật tử khác cũng
thành lập Nhóm Nghiên cứu Phật học (The Buddhist Study Group) do một kiến trúc
sư người Melbourne, ông Len Bullen làm nhóm trưởng. Nguyện vọng của nhóm này là
làm cho mọi người hiểu rằng Đạo Phật như là một ngành tâm lý học ứng dụng, có
thể giúp cho con người giải quyết được mọi bế tắc của thời đại. Tiếc thay, nhóm
này hoạt động được một năm thì tan rã, vì Thế chiến thứ hai đã bùng nổ vào năm
1939.
Người phụ nữ cũng đóng một vai trò
phát triển Phật giáo tại Úc. Một trong những người phải được kể đến là bà Marie
Byles, một nữ luật sư đầu tiên ở quốc gia này và bà được nhiều người biết đến
lúc đó như là một người hòa giải, đối thoại và là người tranh đấu quyền bình
đẳng cho phụ nữ. Bà đã viết nhiều sách và báo về Phật giáo trong những năm bốn
mươi và năm mươi. Quyển sách nổi tiếng nhất của bà là "Những dấu chân của
Đức Phật Cồ Đàm" (Footprints of Gautama Buddha), xuất bản năm 1951, đến
nay sách vẫn còn tái bản. Bà đã đi diễn thuyết Phật pháp nhiều nơi ở Úc cũng
như thường nói chuyện trên đài phát thanh ở Sydney. Điểm đặc biệt, trong khuôn
viên nhà bà ở Sydney, một thời từng là địa điểm tu học cho các khóa tu ngắn
ngày. Bà đã lập một thư viện Phật giáo với hàng ngàn kinh sách cho Phật tử Úc
đọc.
Năm 1952, một nữ tu Phật giáo đầu
tiên viếng thăm Úc, đó là Ni sư Dhammadinna (1881-1967), người Mỹ. Sau ba mươi
năm tu học tại Tích Lan, bà được Tiến sĩ Malasekera (vị Chủ tịch đầu tiên của
Hội Liên Hữu Phật giáo Thế giới) mời đến Úc để hoằng pháp. Mặc dù đã 70 tuổi,
Ni sư đã đi thuyết giảng nhiều nơi trên khắp nước Úc. Mười một tháng hoằng pháp
của Ni sư tại Úc đã làm niềm tin Chánh pháp của tín đồ tại xứ sở này gia tăng
không kể xiết
Đến năm 1953, Hội Phật Giáo NSW
(Buddhist Society of New South Wales) ra đời do ông Leo Berkeley, một thương
gia người Sydney lãnh đạo. Hội đặt trụ sở tại Sydney, nhưng có chi nhánh ở
Melbourne, Queensland và Tasmania. Kết hợp với với Hội này, bà Natasha Jackson,
một người Úc gốc Nga, là đệ tử của Ni sư Dhammadinna, đã cho xuất bản nguyệt
san Metta (Từ Bi), là tiếng nói của Phật giáo Úc từ năm 1955 đến năm 1971. Sau
đó tờ báo này được đổi tên là "Buddhism Today" (Đạo Phật ngày nay),
đây là tờ báo có tuổi đời lâu nhất của Phật giáo Úc. Hiện nay Hội này hoạt động
đều đặn, do ông Graeme Lyall (là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Ni sư
Dhammadinna) làm Hội trưởng. Hội đã tổ chức thời khóa tu học hàng tuần và có mở
một trang web (địa chỉ: http://www.zip.com.au/~lyallg/) để phổ biến giáo lý Phật Đà.
Năm 1953, Hội Phật giáo Queensland
và Hội Phật giáo Victoria ra đời. Đến đầu thập niên 60, Phật giáo Nam truyền
phát triển mạnh và tập trung ở Sydney. Trong khi ở Melbourne, Phật giáo Bắc
Truyền bắt đầu cắm rễ nhờ công của Thiền sư Tuyên Hóa, người Hoa (năm 1962,
ngài đến hoằng Pháp ở Hoa Kỳ). Đặc biệt là Phật giáo Thiền của Nhật Bản, do nỗ
lực hoằng Pháp của Hội Phật Giáo Thiền Tào Động (The Soto Zen Buddhist Society)
. Dòng thiền này đã phát triển mạnh và gây ảnh hưởng lớn ở những tiểu bang khác
tại Úc. Năm 1972, Hội Phật giáo Hoa Tông ở Úc ra đời tại Sydney do thương gia
Eric Liao lãnh đạo, người đến Úc từ năm 1961.
Năm 1974, giáo sư Jayasuriya cùng
một số đạo hữu thành lập Hội Phật Giáo Tây Úc (Buddhist Society of Western
Australia) tại thành phố Perth, bang Tây Úc. Ông Jayasuriya là người Tích Lan
và là giáo sư Tâm Lý Học tại Ðại học Tây Úc. Thành viên đầu tiên của Hội này
gồm một số người Úc, người Hoa và người Thái Lan theo truyền thống Theravada.
Năm 1981, Hội đã cung thỉnh hai vị sư người Úc là đại đức Jagaro và đại đức
Purisso, về hoằng pháp từ Thái Lan. Nhờ sự xuất hiện của hai vị tăng sĩ này mà
nhiều người Úc đã phát tâm hướng về đạo. Sự lớn mạnh đã đưa Hội đến quyết định
mua một thửa đất rừng, rộng khoảng 40 hécta trong huyện Serpentine, 70 km về
phía nam thành phố Perth, để xây dựng Tu viện Bodhinyana (Giác Minh) vào năm
1983. Do nhu cầu tu học ngày càng đông của người bản xứ, đến năm 1987, Hội lại
xây dựng tiếp một Trung tâm Phật Giáo tại thành phố Perth, lấy tên là Trung Tâm
Dhammaloka (Pháp Quang), rộng khoảng 5000 mét vuông, bao gồm trụ sở văn phòng,
thư viện, nhà khách, hội trường, và một điện Phật rộng lớn để hành lễ, tụng
kinh, thuyết pháp và hành thiền. Hiện tại, Hội Phật giáoTây Úc, được xem là một
trong những Hội Phật giáo tại Úc phát triển và hoạt động hoằng pháp đều đặn.
Tăng đoàn tại Tu viện Bodhinyana hiện gồm có 20 vị tỳ kheo. Thêm vào đó, vào
năm 1998, hội cũng có mua một thửa đất rừng khác, rộng khoảng 240 hecta, để xúc
tiến thành lập Ni viện Dhammasara (Pháp Chất) do Sư cô Vayama, người Úc, trụ
trì. Hội do Thượng tọa Ajahn Brahmavamso, người gốc Anh, lãnh đạo tinh thần. Hội
trưởng trong nhiệm kỳ 1998-1999 là một người Việt, đó là Tiến sĩ Bình
Anson, một người đã định cư tại Úc hơn hai mươi năm qua. Ông đã tham gia sinh
hoạt với Hội này từ khi mới đặt chân đến Úc. Ông cũng là người chủ trương trang
web Phật Giáo BuddhaSasana (tiếng Việt và tiếng Anh), thành lập từ năm 1996, để
phổ biến giáo lý Phật Đà. Địa chỉ truy cập là: http://www.buddhanet.net/budsas và http://www.budsas.org .
Thập niên 1970 là giai đoạn chuyển
mình và phát triển của Phật giáo Úc, đặc biệt là giới trẻ tìm về với Phật giáo.
Trong khoảng thời gian này, ước lượng có trên 300 người Úc tham gia các khóa tu
ở Ấn Độ và Népal do Thượng tọa Thubten Yeshe và Thượng tọa Zopa Rinpoche hướng
dẫn. Và có hơn 200 người Úc đến tu học tại Thái Lan, Miến Điện và Tích Lan. Một
số ít trong nhóm này về sau đã xuất gia, ông Paul Boston đạo hiệu là S.
Dhammika, xuất gia theo Phật giáo Tích Lan và đã trở thành một tăng sĩ người Úc
nổi tiếng hiện nay, ông đã viết rất nhiều sách và đi giảng nhiều nơi ở Úc. Một
vị tăng sĩ người gốc Anh khác, Thượng tọa Pannyavaro, hiện được xem là một
người tiền phong trong phong trào truyền bá lời Phật dạy qua hệ thống Internet.
Ngài từng đến tu học tại Tích Lan, Thái Lan và Miến Điện. Đầu năm 1992, ngài
sang Úc và bắt đầu mở một thiền đường tại thành phố Sydney để dạy hành thiền
cho người Úc. Để cập nhật hóa với những phát triển của ngành tin học hiện đại,
Thượng tọa Pannayavaro đã mở một tờ báo Phật giáo điện tử "Buddhanet"
(địa chỉ trang web: http://www.buddhanet.net), để truyền bá lời Phật dạy, một
phương tiện hoằng pháp nhanh và thu hút rất nhiều độc giả đến với Phật giáo.
Đây là một trong những trang web Phật giáo nổi tiếng nhất trên thế giới, theo
ước tính có gần 10.000 người trên khắp thế giới vào xem mỗi ngày.
Cũng trong thời gian cuối những năm
70, một số lớn di dân và người tị nạn đến từ châu Á và phần lớn họ đều là Phật
tử, đó là lý do ra đời hàng loạt tự viện ở Úc. Đại đức Somaloka, một tăng sĩ
đến từ Tích Lan năm 1971, ông cùng với Hội Phật giáo NSW tiến hành xây dựng một
ngôi chùa ở vùng núi Blue Mountain thuộc phía Tây, bang NSW. Năm 1973, Thượng
tọa Khantipalo, một Tăng sĩ người Anh đến Sydney từ Thái Lan, ông cùng Phật tử
địa phương xây dựng chùa Buddharangsee (Phật Quang). Năm 1978, một sư cô người
Đức, Ayya Khema, thành lập chùa Buddha Dharma trong một khu rừng ở phía Bắc
Sydney. Hình thức ngôi chùa này giống như một Trung tâm hành thiền hay một trại
tu dưỡng hơn là ngôi chùa.
Đến năm 1979, Trung tâm Thảo luận
Phật học (Buddhist Discussion Center) ra đời tại Upwey, bang Melbourne, do giáo
sư người Úc John. D. Hughes sáng lập và làm Hội trưởng. Đây là một tổ chức của
một số lớn trí thức Úc muốn nghiên cứu Phật pháp và tu Thiền theo hướng kết hợp
theo cả hai truyền thống Nam và Bắc truyền. Hội này cũng cho xuất bản một tờ
báo phát hành hàng tháng cho Phật tử Úc đọc. Đến nay tổ chức này vẫn hoạt động
mạnh. Cuối năm 1998, Hội này đã mở một trang web để phổ biến chủ trương và sinh
hoạt của Hội cũng như giáo lý. Địa chỉ vào xem là: http://www.bdcu.org.au .
Đầu năm 1980, nhiều Hội Phật giáo
khác như Hội Phật Giáo Lãnh Thỗ Miền Bắc ở bang Darwin, Hội Phật Giáo Tasmania,
Hội Phật Giáo Người Hoa, Hội Phật giáo Tây Tạng... được thành lập và có nhiều
hoạt động hoằng pháp mạnh mẽ để đưa Chánh Pháp đi vào cuộc đời.
Trong hai thập niên 80 và 90, với
chính sách đa văn hóa của chính phủ Úc, nên nhiều sắc tộc khác như Việt Nam,
Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Hoa, Tây Tạng... đến định cư tại Úc và Phật
giáo vào thời điểm này phát triển mạnh nhất trong lịch sử của Phật giáo Úc.
Trong đó, đáng kể nhất là Phật giáo Việt Nam, Trung Hoa,Tây Tạng, Lào,
Campuchia, Thái lan, Tích Lan…Riêng Phật giáo Tích Lan, hiện nay có khoảng
150.000 người Sri Lanka định cư tại Úc, có khoảng 15 ngôi chùa và 12 Tăng sĩ
trên toàn Úc châu, đáng chú ý là Thượng Tọa Kott Santhindriya, viện chủ Thiện
Viện Daham Niketanaya (Melbourne), có công lớn trong việc phát triển Phật giáo
Therevada ở Úc. Năm 1997, Thượng tọa cũng đã mở một trang web (http://techno.net.au/daham) để truyền bá giáo lý. Đặc biệt, Phật giáo Úc châu đã thật
sự chuyển mình và dân chúng Úc càng chú ý và nghiên cứu học hỏi giáo lý nhà
Phật nhiều hơn qua ba lần (1982, 1992 và 1996) viếng thăm nước Úc của Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 14, nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của dân tộc Tây Tạng.
Theo chương trình trù liệu, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ ghé thăm và thuyết pháp tại Úc
châu vào tháng 4 hoặc tháng 5 năm 2002.
PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TẠI ÚC
Người Việt t nạn đến tại Úc vào cuối
những năm của thập niên 1970, tính đến nay có khoảng 200 ngàn người Việt định
cư tại xứ sở này. Có khoảng 12 tờ tuần báo, 10 chương phát thanh tiếng Việt, và
2 chương trình truyền hình tiếng Việt để phục vụ cho cộng đồng. Về tình hình
Phật giáoVN thì có bốn giáo hội khác nhau có mặt tại Úc, bao gồm Giáo Hội Phật
Giáo Linh Sơn Thế Giới (chi nhánh của HT. Thích Huyền Vi, Pháp quốc); Giáo Hội
Phật giáoVN Trên Thế Giới (chi nhánh của HT. Thích Tâm Châu, Canada); Giáo Hội
Phật Giáo Tăng Già Khất sĩ (chi nhánh của HT. Thích Giác Nhiên, Hoa Kỳ); đặc
biệt là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, thành
lập vào năm 1981 do công của HT. Thích Phước Huệ, HT. Thích Huyền Tôn, HT.
Thích Như Huệ và TT. Thích Bảo Lạc, là những Tăng sĩ VN đầu tiên định cư tại Úc
Châu.
Giáo hội này đã trải qua nhiều thăng
trầm, lúc thịnh lúc suy và hoạt động trong vòng 15 năm trong mục đích thiết lập
nền tảng và phát triển Chánh Pháp tại xứ sở Nam bán cầu này. Những tưởng Giáo
Hội vẫn hòa hợp để làm việc, nhưng đến tháng 12 năm 1995, thì do lủng củng nội
bộ nên Giáo Hội đã ngưng hoạt động. Đến tháng 9 năm 1999, phần lớn chư Tôn đức
của Giáo hội này đã tổ chức Đại Hội Khoáng Đại tại Chùa Pháp Bảo, tiểu bang New
South Wales, để phục hoạt lại Giáo Hội sau ba năm ngưng trệ. Đại hội đã tổ chức
trong ba ngày 10, 11 và 12 tháng 9 năm 1999, quy tụ đa số Tăng Ni, Phật tử VN
và hơn 23 tự viện khắp Úc châu và Tân Tây Lan đồng về tham dự. Đại Hội đã nhất
trí đổi danh xưng của Giáo hội mới là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Hải Ngoại Tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan. Theo các giới quan sát thì đại hội đã
thành công viên mãn với sự ủng hộ nồng nhiệt của mọi giới đồng hương Phật tử
tại Úc và Tân Tây Lan. Hy vọng rằng Giáo Hội mới này sẽ có những hoạt động
thiết thực để đóng góp cho Đạo Pháp, dân tộc và hòa bình của thế giới. (Muốn
biết thêm chi tiết về Giáo Hội này xin độc giả vào xem trang web tại địa chỉ: http://www.quangduc.com/giaohoi/index.htm)
Nhìn chung, Phật giáoVN đang từng
bước hòa nhập và phát triển tại Úc. Tính đến nay, có khoảng bảy mươi tăng ni
người Việt và trên ba mươi tự viện VN trên khắp Úc Châu và Tân Tây Lan. Theo
cái nhìn của người bản xứ là Phật giáoVN rất khác biệt và phong phú hơn so với
các Hội Phật giáo Sắc Tộc khác có mặt tại Úc. Đó là hòa hợp độc đáo giữa ba
tông phái khác nhau là Mahayana, Theravada và Khất sĩ, cũng như Thiền tông và
Tịnh Độ tông. Một nét đặc thù khác của Phật giáoVN tại Úc, là mỗi chùa đều có
tổ chức Gia đình Phật tử, (hiện có 13 GÐPT, và khoảng 1000 huynh trưởng và đoàn
sinh trên khắp nước Úc) và mở trường Bồ Đề dạy Việt ngữ, giúp cho thế hệ trẻ VN
sanh tại Úc biết rõ và duy trì ngôn ngữ và nền văn hóa của mình.
SỐ
LƯỢNG TỰ VIỆN, TĂNG NI VÀ PHẬT TỬ TẠI ÚC
Về Tự viện, Tịnh Thất, Niệm Phật
Đường tại Úc hiện có trên 250 ngôi, trong đó Phật giáo Bắc truyền có 100 chùa,
Phật giáo Nam truyền có 59 chùa, Phật giáo Tây Tạng có 37 chùa, Phật giáo Úc và
các tông phái khác có 34 chùa.
Về Tăng Ni, thật khó mà biết con số
chính xác về số lượng Tăng Ni hiện nay ở Úc là bao nhiêu, nhưng theo thống kê
sơ bộ gần đây của Bộ Di Trú Úc cho biết hiện có khoảng 200 Tăng Ni tại Úc.
Về số lượng tín đồ Phật giáo cũng do
Chính phủ Úc thống kê cho biết có khoảng 200.000 Phật tử tại Úc, trong đó phần
lớn là người Việt, Mã Lai, Cam Bốt, Lào, Trung Hoa, Tích Lan, Nhật Bản,
Singapore, Miến Điện...
ẢNH
HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG VĂN HỌC VÀ NGHỆ THUẬT TẠI ÚC
Có một số thi sĩ và họa sĩ người Úc
đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng và triết lý đạo Phật. Đó là các họa sĩ
Godfrey Miller, Ian Fairweather, John Olsen, Brett Whiteley và Margaret Preston
và các thi sĩ như Harold Stewart, Max Dunn, Colin Johnson và Robert Gray, các
vị này đã có những tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng Phật giáo, đặc biệt là tư
tưởng Thiền. Cũng có một số khác vừa làm thơ vừa vẽ tranh như Les Oaten, một
người từng đến tu Thiền ở Nhật Bản, và đã cùng với Len Henderson thành lập một
Hội Phật giáo ở Victoria vào năm 1953. Và hiện nay có Adrian Snodgrass, một
giảng viên ở khoa kiến trúc thuộc Đại học Sydney, thơ và tranh của ông cũng ảnh
hưởng nhiều về Thiền và Tịnh độ của Phật giáo. Trong những năm gần đây đã có
nhiều tác phẩm nghệ thuật của ông được ấn hành.
TƯƠNG
LAI CỦA PHẬT GIÁO TẠI ÚC
Lịch sử Phật giáo Úc đã trải qua
nhiều giai đoạn, từ lúc du nhập cho đến đầu những năm 60, Phật giáo tuy không
phát triển mạnh nhưng vẫn được duy trì trong các cộng đồng của người Á lẫn
người Á châu. Nhưng với sự gia tăng của làn sóng người di dân đến Úc từ các
quốc gia Á châu vào những năm 79 và 80 của thế kỷ này, Phật giáo Úc đã lật qua
một trang sử mới và phát triển rất nhanh. Số lượng tín đồ Phật giáo Úc đứng ở
hàng thứ ba sau Ky Tô Giáo và Hồi Giáo.
Trong thực tế, sự có mặt của Phật
giáo tại xã hội Úc là điều cần thiết. Các nhà xã hội học cho rằng hầu hết giới
trẻ từ các gia đình theo Phật giáo đều có nền tảng về đời sống tâm linh và ít
phạm pháp. Do đó, rất cần thiết để lập một chương trình giáo dục Phật giáo cho
các cộng đồng sắc tộc tại Úc. Đành rằng, giáo dục tôn giáo là nhiệm vụ của nền
giáo dục phổ cập của quốc gia. Tuy nhiêm sự hướng dẫn đời sống văn hóa và đạo
đức này sẽ tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới trẻ nếu các tổ chức Phật giáo
đứng ra đảm trách.
Số lượng người Úc ngày càng nhiều
trở về với Phật giáo, đây là một tin vui. Tuy nhiên, họ đã gặp khó khăn trong
việc học hỏi và thực hành giáo lý nhà Phật, do bất đồng về ngôn ngữ và va chạm
hàng rào văn hóa giữa các sắc tộc. Do vậy, các hội đoàn Phật giáo tại Úc, nhất
là của người Úc phải chủ động phối hợp với các hội đoàn Phật giáo thuộc các sắc
tộc khác để cùng nhau giải quyết những khó khăn, bế tắc trong quá trình truyền
bá. Đó là nỗi trăn trở không phải của riêng ai, mà chính các nhà lãnh đạo Phật
giáo Úc phải suy nghĩ, phải tìm cách để phát huy và truyền bá lời Phật dạy rộng
rãi cho các cộng đồng khác nhiều hơn là chỉ khu biệt trong nội bộ sắc tộc của
mình.
Thích Nguyên Tạng
Tu viện Quảng Ðức
Melbourne, Úc Châu 2001
Tổng hợp
từ các tài liệu:
- Paul
Croucher, Buddhism in Australia 1048-1988, NSW, 1989
- Kerry Trembath, Newsletter of The Buddhist Council of NSW, 11/1996
- Enid Adam & H. Philip, The Buddhists in Australia, Canberra, 1996
- Exploring Religion, Oxford University Press, NSW, Australia, 1998
- SBS World Guide: The complete fact file on every country, Victoria 1999
- Quang Duc website (http://www.quangduc.com), Victoria 12/2000