Cách nay đã lâu lắm tại Ấn Độ, nơi đã cho
ra đời nhiều nhà tư tưởng và học giả cao thâm, con người không còn tìm
cách sùng bái các nhân vật siêu nhiên nữa mà ngược lại chỉ dồn mọi nỗ
lực tìm kiếm các phương pháp giúp mình tìm hiểu thế nào là sự sinh, sự
già nua, bệnh tật và cái chết, và cả các phương pháp giúp loại trừ sự
thèm muốn, hận thù và vô minh. Chính những cố gắng truy tầm ấy đã đưa
đến sự ra đời của Phật Giáo, một phương pháp thực dụng do Đức Phật khám
phá ra nhằm loại bỏ khổ đau và chấm dứt hoàn toàn mọi sự sợ hãi của con
người.
"Phật Giáo" có nghĩa là "Giáo Huấn của
một Con Người Giác Ngộ". Mỗi vị Phật là một con người "Giác Ngộ", một
con người đã thấu hiểu được sự thật về các sự vật, vị ấy hiểu được một
cách chính xác bản chất đích thật của tất cả mọi sự vật và nhờ đấy mà vị
ấy biết ứng xử thích nghi với tất cả mọi cảnh huống xảy ra. Phật Giáo
là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết.
Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân
mang lại khổ đau. Tất cả mọi hình thức tôn thờ hướng vào các vật thể
thiêng liêng bằng lễ lạc, nghi thức cúng bái hay sự cầu xin đều chẳng có
gì gọi là Phật Giáo cả. Đức Phật gạt ra ngoài các nhân vật ngụ ở trên
trời mà một số giáo phái xem đấy là các vị sáng tạo ra mọi sự vật, và
cũng gạt bỏ cả các vị thần linh mà người ta nghĩ rằng trú xứ của họ là
các vì sao. Trái lại, người ta cho biết là Đức Phật từng khuyên rằng: "Sự
hiểu biết, khôn khéo và tài năng là những gì sẽ mang lại thành công và
những hậu quả lợi ích; tự chúng là những điều tốt, hoàn toàn không liên
hệ gì với sự chuyển động của các vật thể trên trời. Nhờ vào những điều
xứng đáng đạt được từ các phẩm tính ấy, một cá thể có thể vượt xa hơn
gấp bội so với những người dại dột chỉ biết ngồi yên để lo chuyện bói
toán". Đức Phật lại còn nói thêm: "Nếu nước sông, chẳng hạn như
nước của con sông Hằng này, thật sự có thể rửa hết tội lỗi và tẩy xóa
hết khổ đau, thì các con rùa, con cua, con cá và sò ốc sống trong các
con sông thiêng liêng tất phải được tẩy xóa hết mọi tội lỗi và khổ đau
chứ". Ngài cũng đã nói thêm như sau: "Nếu một người nào đó có
thể loại được khổ đau của mình bằng cách cúng dường, bằng sự tôn kính và
cầu nguyện, thì sẽ chẳng còn ai trong thế gian này phải gánh chịu khổ
đau cả, bởi vì có ai mà lại chẳng biết bày tỏ sự tôn kính và cầu nguyện.
Dù cho họ có tỏ ra thật ngoan ngoãn, biết tôn kính và thực thi nghi lễ
đều đặn, thế nhưng trên thực tế thì họ vẫn cứ phải gánh chịu khổ đau, vì
thế thật hết sức hiển nhiên là những thứ ấy nhất định không phải là
giải pháp hữu hiệu giúp họ tìm thấy sự giải thoát khỏi những khổ đau của
chính họ".
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước
hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu
quán nhận được bản chất đích thật của chúng, và sau đó thì căn cứ vào sự
hiểu biết ấy mà ứng xử một cách thích nghi. Đấy chính là căn bản giáo
huấn của Phật Giáo, và đấy cũng là những gì mà chúng ta phải tìm hiểu và
ghi khắc trong tâm... Phật giáo không chủ trương tìm hiểu các giả
thuyết hay các định đề mà ngược lại chỉ khuyến khích chúng ta phải hành
động như thế nào cho phù hợp với trực giác sâu kín trong mỗi con người
của chúng ta. Đấy không phải là cách chấp nhận mù quáng tất cả những gì
được nghe thấy. Nếu có một người nào đó quả quyết về một điều gì, thì ta
phải lắng nghe và xét đoán quan điểm của người ấy với một cách hết sức
khách quan. Nếu nhận thấy quan điểm ấy hợp lý thì ta có thể tạm thời
chấp nhận và sau đó thì tìm cách để kiểm chứng lại. Chính đấy là một
trong các đặc điểm của Phật Giáo, và đấy cũng là những gì cho thấy Phật
Giáo khác hơn với các tôn giáo khác trên thế giới.
Tôn giáo nào cũng đều hàm chứa nhiều khía
cạnh khác nhau và do đó cũng mang nhiều sắc thái khác nhau, chẳng qua
đấy là do các góc nhìn khác nhau mà ra. Nhiều người nhìn tôn giáo qua
những góc cạnh sai lầm và Phật giáo không phải là một ngoại lệ. Phật
giáo cũng là một tôn giáo như các tôn giáo khác, và vì thế cũng đã được
nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau, do đó cũng hiện ra dưới nhiều thể
dạng thật khác biệt nhau. Lý do là vì mỗi người trong chúng ta đều có
một quan điểm riêng, sự thật của mình phù hợp với sự hiểu biết và quan
điểm riêng của mình. Tóm lại là "sự thật" thay đổi tùy theo từng người.
Chúng ta quán xét các vấn đề theo các cấp bậc hiểu biết chênh lệch nhau,
bằng các phương tiện khác nhau và qua các mức độ thông minh khác nhau.
Do đó rất khó cho chúng ta chấp nhận là đúng những gì vượt cao hơn trí
thông minh, kiến thức và sự hiểu biết của mình. Ngay cả trường hợp mà
chúng ta có vẻ như chấp nhận ý kiến của người khác đi nữa, thế nhưng
chúng ta cũng cứ tiếp tục nghĩ rằng đấy không phải cái "sự thật" theo
đúng như chúng ta đã nghĩ. Quan niệm về sự thật của chúng ta sẽ được cải
thiện phù hợp với cấp bậc thăng tiến tuần tự của trí thông minh, với
kiến thức và khả năng hiểu biết của mình, để rồi đến một lúc nào đó thì
chúng ta sẽ đạt được "sự thật tối hậu".
Như đã nói đến trên đây, Phật Giáo là một
phương pháp thực dụng nhằm mục đích giải thoát chúng ta khỏi mọi khổ
đau bằng cách giúp chúng ta nhìn thấy bản chất đích thật của mọi sự vật,
và đấy cũng là những gì mà chính Đức Phật đã thực hiện cho mình. Tất cả
kinh sách của các tôn giáo đều không tránh khỏi sự thêm thắt, Tam Tạng
Kinh (Tripitaka) của chúng ta cũng không phải là một ngoại lệ.
Theo dòng thời gian, nhiều đoạn được thêm vào để thích nghi với các trào
lưu tư tưởng đương thời, hoặc vì muốn chinh phục lòng tin của quảng đại
quần chúng mạnh mẽ hơn, hoặc chỉ vì lòng nhiệt tâm quá đáng đối với tôn
giáo của mình. Tiếc thay, lễ lạc và nghi thức được phát triển thêm và
ngày nay thì tất cả các thứ ấy lại được xem là Phật Giáo. Người ta lập
ra nghi lễ cúng dường, hiến dâng bánh trái, hoa quả lên "hương linh" của
Đức Phật giống như là hiến dâng thực phẩm cho các vị tỳ kheo đang còn
sống, làm như thế quả thật không phù hợp chút nào với giáo lý Phật Giáo.
Thế nhưng một số người lại xem đấy là cách tu tập Phật Giáo đích thật,
rồi cứ đúng như thế mà mang ra thuyết giảng và tu tập
Các nghi thức và lễ lạc đại loại như vừa
kể đã phát triển rất mạnh và làm che khuất đi căn bản Phật Giáo đích
thật và cả mục đích nguyên thủy của Phật Giáo. Hãy nêu lên một thí dụ,
chẳng hạn như lễ đưa tiễn một người vào chùa lại biến thành một nghi lễ
tặng quà cho vị tân tỳ kheo. Khách khứa được mời thì mang theo thực phẩm
để cùng tham gia vào cảnh vui nhộn của buổi lễ, có khi buổi lễ chấm dứt
với cảnh náo nhiệt và mọi người đều say khướt. Quang cảnh lễ lạc như
thế chẳng những xảy ra ở chùa mà còn cả tại nhà nữa! Về phần người tân
tỳ kheo thì vài hôm sau lễ xuất gia cũng có thể sẽ rời bỏ tăng đoàn và
lại còn có thể trở thành một người chán ghét chùa chiền hơn trước nữa.
Chúng ta nên nhớ rằng những chuyện như thế không hề xảy ra trong thời kỳ
của Đức Phật; các buổi lễ lạc như thế chỉ phát triển về sau này mà
thôi. Vào thời kỳ của Đức Phật, xuất gia chỉ có nghĩa là từ bỏ tổ ấm và
gia đình với sự đồng ý của cha mẹ. Đấy là cách đánh dấu sự chấm dứt cái
quá khứ của mình trong gia đình để trước hết bước theo chân của Đức Phật
và tăng đoàn gồm các vị tỳ kheo, và sau đó khi thuận tiện thì xin thụ
phong và rất có thể sẽ không còn dịp nào quay về để gặp lại gia đình
nữa. Trong vài trường hợp hiếm hoi, vài vị có thể trở về thăm cha mẹ,
thế nhưng đấy là các trường hợp ngoại lệ. Trong giới luật có một điều
khoản cho phép người tỳ kheo được về thăm nhà nếu có một lý do chính
đáng, thế nhưng vào thời kỳ của Đức Phật thì điều khoản này không mấy
khi được áp dụng. Tóm lại, vào thời bấy giờ người tu tập được thụ phong
tỳ kheo không cần phải có cha mẹ chứng kiến, cũng không cần đến lễ lạc,
và người tỳ kheo sau khi được thụ phong cũng không rời bỏ tăng đoàn vài
ngày sau đó.
Tiếc thay, ngày nay các hình thức "Tân Phật giáo" như trên đây đang bành trướng trên toàn cầu. Đạo Pháp (Dhamma),
tức căn bản giáo huấn đích thật và tối thượng của thời xưa giờ đây đã
phải đảm đang thêm cái gánh nặng của lễ lạc, khiến cho chủ đích của Phật
Giáo bị che khuất đi, bị đánh đổi hay biến dạng đi. Việc xuất gia đã
trở thành một phương tiện giúp cứu vãn danh dự cho một thanh niên bị
người ta chê trách chẳng hạn, hoặc để giúp mình dễ tìm vợ hơn, bởi vì
khi đã xuất gia thì được xem như đã trở thành một người chín chắn. Đối
với một số người khác thì đấy còn là một cơ hội để gom góp tiền bạc -
luôn luôn có người tình nguyện đứng ra đảm trách công việc này - tức có
nghĩa là để làm giàu. Chuyện như thế mà cũng cứ gọi đấy là "Phật Giáo",
và nếu có ai phản đối thì sẽ bị gán ngay là người ngu dốt chẳng biết tí
gì, hoặc là người chống báng tôn giáo!
Việc hiến dâng vải vóc trong dịp lễ Kiết
Hạ (Kathina) cũng lại cho thấy thêm một sự thoái hóa khác nữa. Mục tiêu
ban đầu của Đức Phật trong việc hiến dâng vải vóc là vừa tập cho tăng
đoàn biết sống tập thể và cũng để giúp cho họ may mặc. Đấy là cách tạo
dịp cho các vị tỳ kheo họp lại với nhau để cùng cắt may hầu khỏi phí
phạm thì giờ lắt nhắt. Trong trường hợp nếu chỉ đủ vải để may được một
chiếc áo duy nhất thì không nhất thiết sẽ dành riêng chiếc áo ấy cho vị
có tuổi đạo cao nhất, mà phải dành cho vị nào xứng đáng nhất hoặc vị nào
cần đến nhất (vì áo của người này đã rách nát chẳng hạn), và chiếc áo
ấy thì phải được hiến dâng với danh nghĩa của toàn thể tăng đoàn. Ý định
của Đức Phật là tinh thần tập thể đó sẽ giúp cho các vị tu hành không
tự đánh giá mình quá cao. Vào thời bấy giờ, dù tuổi đạo nhiều hay ít thì
vị nào cũng phải giữ sự khiêm tốn, tất cả đều ngang hàng nhau và cùng
nhau họp lại để may cắt, giặt, nhuộm - bằng cách nấu các loại cây cỏ cho
ra màu - và cả các việc linh tinh khác nữa với mục đích là phải hoàn
tất việc may mặc trong vòng một ngày. Đấy là cách giúp cho người tỳ kheo
ý thức được sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau, chính đấy là chủ đích mà
Đức Phật mong muốn, tức có nghĩa là người tu hành không được hoàn toàn
nhờ vả vào người thế tục. Ngày nay, người ta lợi dụng dịp này để bày
thêm ra đủ mọi thứ, nào là nghi lễ, các trò vui chơi, để tạo dịp mà cười
nói ồn ào. Tệ hại hơn nữa là đối với một số người thì đấy còn là một cơ
hội để kiếm thêm tiền. Người ta xem đấy là một dịp để cùng ăn uống
ngoài trời với nhau, thế rồi những gì gọi là tốt lành và công đức mà
đáng lý ra mỗi người sẽ được hưởng, thì lại chẳng tìm thấy đâu cả.
Sự thoái hóa ấy cũng chẳng khác gì những
thứ ung nhọt hoành hành trong cơ thể của Phật Giáo, mang lại những tàn
phá không nhỏ. Các thứ ung nhọt ấy hiện ra dưới hàng trăm thể dạng khác
nhau, không sao kể hết được. Đấy là những loại ung bướu độc hại và nguy
hiểm dần dần che lấp và phủ kín nền tảng tinh khiết của Phật Giáo và
những gì thật sự Phật giáo, khiến cho Phật Giáo phải bị biến dạng đi.
Một trong số các hậu quả mang lại là sự xuất hiện của vô số giáo phái
lớn nhỏ đủ loại, mà một số còn dính líu cả với vấn đề dâm ô! Thật hết
sức quan trọng phải phân biệt cho được đâu là Phật Giáo nguyên thủy và
đâu là các thứ hình thức lệch lạc như vừa kể. Chúng ta không nên bám víu
một cách ngu xuẩn vào cái vỏ bọc bên ngoài ấy tức là các thứ nghi thức
và lễ lạc ấy đến độ có thể đánh mất đi mục tiêu đích thật của Phật Giáo.
Đối với Phật Giáo thì chủ đích của việc
tu tập đích thật là tinh khiết hóa cách hành xử của mình liên quan đến
thân xác và ngôn từ, và tiếp theo đó là tinh khiết hóa tâm thức, và khi
tâm thức đã được tinh khiết hóa thì nó sẽ mang lại một sự quán nhận sâu
xa và một sự nhận thức đúng đắn. Không bao giờ nên nghĩ rằng nếu là Phật
Giáo thì phải như thế này hay như thế kia, bằng cách viện cớ là tất cả
mọi người đều bảo như thế. Đấy cũng là một sự sai lầm mà những người
theo các tôn giáo khác thường hay phạm vào khi họ cho rằng các thứ ung
nhọt đáng hổ thẹn ấy là Phật Giáo; quả thật là không đúng như thế vì đấy
chỉ là những thứ ung bướu của Phật Giáo mà thôi. Những ai trong chúng
ta vì lợi ích cho riêng mình và cho người khác mà quyết tâm quảng bá
Phật Giáo, thì cũng nên hiểu rằng chính mình cần phải nắm vững phần tinh
anh đích thật của Phật Giáo và không nên bám víu vào những thứ dư thừa
không mang một ý nghĩa nào cả.
Đến đây chúng ta hãy tìm hiểu xem tại sao
tính cách đa dạng của Phật Giáo, kể cả đối với căn bản Phật Giáo đích
thật, lại có thể đưa đến một sự hiểu biết sai lầm. Thí dụ như qua góc
nhìn của một triết gia về đạo đức thì Phật Giáo sẽ hiện ra như là một
tôn giáo của "luân lý", vì người ta sẽ thấy đề cập đến các vấn đề liên
quan đến những gì xứng đáng và những gì thiếu đạo đức, đến cái tốt và
cái xấu, đến sự lương thiện, lòng biết ơn, sự hài hòa, lòng ngay thật,
v.v... Tam Tạng Kinh đầy ắp những lời giáo huấn trong lãnh vực luân lý
ấy. Những người mới khởi sự tu tập thường nhìn Phật Giáo qua góc cạnh
này, có nghĩa là họ thường bị thu hút bởi những gì thuộc về đạo
đức.
Nếu nhìn Phật giáo dưới khía cạnh của sự
thật, thì chúng ta sẽ nhận thấy hiển hiện ra một thể dạng sâu xa hơn,
đấy là một thứ sự thật bị vùi lấp thật sâu mà người thường không thể
nhận thấy được. Khi nào nhận ra được sự thật đó thì cũng có nghĩa là đã
hiểu được bằng lý luận về tính cách hư ảo của tất cả mọi sự vật, biểu
trưng bởi hiện tượng vô thường, sự bất toại nguyện và tính cách vô-ngã;
và cũng có nghĩa là đã hiểu được bằng trí thức bản chất của khổ đau, sự
loại bỏ hoàn toàn khổ đau; và sau hết cũng có nghĩa là nhận thức được
tất cả những thứ ấy dưới khía cạnh của sự thật tuyệt đối, một sự thật
không bao giờ thay đổi mà tất cả chúng ta phải nắm vững. Đấy là Phật
Giáo nhìn dưới khía cạnh của sự thật.
Nếu nhìn Phật Giáo dưới khía cạnh một tôn
giáo thì Phật Giáo sẽ cho thấy là một phương pháp thực dụng, được xây
dựng trên đạo đức, sự tập trung tâm thần và sự hiểu biết, và đỉnh cao
nhất của phương pháp này là mở ra một sự quán thấy sâu xa mang tính cách
trực giác. Nếu tu tập đúng theo phương pháp đó một cách tích cực và đến
cùng thì sẽ nó sẽ giúp giải thoát khỏi mọi khổ đau. Đấy là Phật Giáo
nhìn dưới khía cạnh của tôn giáo.
Sau đó là cách nhìn Phật Giáo như là một
ngành tâm lý học, đúng với những gì được trình bày trong phần thứ ba của
Tam Tạng Kinh, và trong phần này thì bản chất của tâm thức được mô tả
một cách vô cùng chính xác. Kể cả ngày nay, tâm lý học Phật Giáo vẫn còn
là một nguồn cung ứng những hiểu biết lợi ích và kỳ thú cho những nhà
nghiên cứu về tâm thần, bởi vì tâm lý học Phật Giáo sâu xa hơn rất nhiều
so với những hiểu biết do ngành tâm lý học hiện đại mang lại.
Thế nhưng lại vẫn còn một khía cạnh khác
nữa để nhìn vào Phật Giáo, ấy là khía cạnh triết học. Đối với triết học,
sự hiểu biết có thể đạt được được bằng lý luận và bằng sự hợp lý (lôgic),
thế nhưng sự hiểu biết này không thể chứng nghiệm được bằng các phương
pháp thực nghiệm. Sự hiểu biết ấy đi ngược lại với khoa học bởi vì sự
hiểu biết khoa học được khám phá ra nhờ vào cách quan sát bằng mắt, bằng
các thí nghiệm vật lý và bằng các thử nghiệm, kể cả cách "nhìn vào bên
trong" nhờ vào trực giác. Thí dụ một khái niệm thuộc loại thật sâu xa
chẳng hạn như "tánh không" (vô thường) sẽ chỉ là một thứ triết
học đối với những người chưa đủ sức lắng sâu vào sự thực, thế nhưng lại
là một thứ khoa học đối với những người đã hiểu thấu được nó, tức là
những người đã đạt được sự hoàn thiện và được gọi là A-la-hán, đấy là
những người đã nhìn thấy tánh không một cách minh bạch và bằng trực
giác.
Rất nhiều khía cạnh của Phật Giáo, nhất là Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Điệu Đế),
tỏ ra thật hết sức khoa học bởi vì những Sự Thật ấy có thể kiểm chứng
được bằng các kết quả thử nghiệm minh bạch nhờ vào phương pháp nội quán (instrospection).
Bất cứ ai có khả năng quan sát và hằng quan tâm đến việc nghiên cứu và
tìm tòi đều có thể nhận thấy tính cách có thể kiểm chứng được về mối
tương quan giữa nguyên nhân và hậu quả, tương tự như trong lãnh vực khoa
học. Thật thế, Phật Giáo không phải là một thứ gì mơ hồ và tối tăm,
cũng không phải là một ngành triết học đơn thuần tương tự như những
ngành triết học khác do con người sáng chế.
Một vài người khác xem Phật Giáo như một
thứ văn hóa. Thật vậy, một số chuyên gia uyên bác tìm thấy trong Phật
Giáo một số khía cạnh phản ảnh chung cho tất cả các nền văn hóa, thế
nhưng cũng có những khía cạnh đặc thù chỉ có trong Phật Giáo mà thôi.
Dù sao thì trong số tất cả các khía cạnh
thật đa dạng trên đây của Phật Giáo vẫn có một khía cạnh mà người Phật
tử chân chính phải xem trọng hơn cả, đấy là khía cạnh tôn giáo của Phật
Giáo. Phải hiểu rằng trước hết Phật Giáo là một phương pháp thực dụng và
trực tiếp, giúp đạt được sự hiểu biết về bản chất đích thật của mọi sự
vật, một sự hiểu biết giúp từ bỏ tất cả mọi hình thức của sự ham muốn,
bám víu, vô minh và bế tắc, nhằm giúp mình tìm thấy sự tự do. Đấy cũng
chính là cách giúp chúng ta đi sâu vào tâm điểm của Phật Giáo. Phật giáo
nhìn dưới khía cạnh đó sẽ tỏ ra hữu ích hơn nhiều so với các cách nhìn
Phật Giáo như một hệ thống luân lý đơn thuần, hoặc như là một sự thật
giới hạn bằng một sự hiểu biết sâu xa nhưng chỉ mang tính cách lý
thuyết; và cũng sẽ ích lợi hơn nhiều so với cách nhìn Phật giáo như một
triết học, vì đấy cũng chỉ là một cách tự biện và lý luận, không giúp
cho tâm thức tẩy xóa được mọi thứ ô nhiễm; và nhất định cũng sẽ ích lợi
hơn nhiều so với cách nhìn Phật Giáo như một truyền thống văn hóa, tức
một thứ sinh hoạt ngoạn mục chỉ lôi kéo được sự quan tâm của các nhà xã
hội học.
Ít nhất thì cũng nên xem Phật Giáo như là
một nghệ thuật, một thứ nghệ thuật sống. Thật vậy, Phật Giáo tượng
trưng cho một tiềm năng và một sự sáng suốt giúp một cá thể biết hành xử
với tư cách con người và biết sống thật gương mẫu, đáng kính và vượt
cao hơn những người chung quanh, khiến cho mọi người phải kính phục
mình. Những gì cần phải làm là trau dồi "ba đức tính": trước nhất là giữ
gìn đạo đức thật nghiêm túc (tu giới), sau đó là mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức hầu giúp cho nó hoạt động một cách hữu hiệu hơn (tu định), và sau cùng là làm phát sinh một trí tuệ phong phú và một sự quán thấy minh bạch về bản chất đích thật của mọi sự vật (tu tuệ),
khiến cho chúng không còn khả năng nào gây ra khổ đau được nữa. Những
ai đã thực hiện được ba đức tính ấy để soi sáng cuộc đời mình thì cũng
có nghĩa là họ đã đạt được điểm cao nhất của nghệ thuật sống. Người Tây
phương quan tâm và nghiên cứu hăng say nhất về khía cạnh này của Phật
Giáo. Thật thế đấy là khía cạnh giúp cho ta thâm nhập thật sâu vào điểm
tinh anh và đích thật nhất của Phật giáo để biến nó trở thành một thứ
kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời mình, hầu mang lại cho mình niềm hân
hoan, lòng thành kính, giúp mình loại bỏ được mọi thứ lo buồn và ảo
giác. Nó còn giúp đánh tan mọi sự sợ hãi, kể cả sự sợ hãi phải lìa bỏ
những gì làm cho tâm thức bị ô nhiễm, (là sự thèm muốn, tiêu cực và u mê)
bởi vì nếu thiếu những thứ ấy thì sẽ khiến cho cuộc sống này trở nên tẻ
nhạt, vô vị, không còn gì hấp dẫn nữa, hoặc cái sợ phải hoàn toàn từ bỏ
tất cả sẽ ngăn chận mọi sự vận hành của tư duy và các hành động tích
cực. Thế nhưng trên thực tế thì lại không hẳn như thế vì những ai biết
xây dựng cuộc đời mình dựa vào nghệ thuật sống của Phật Giáo thì họ sẽ
khắc phục được dễ dàng những gì xảy ra chung quanh họ. Bất cứ gì dù đấy
là súc vật, con người, của cải vật chất hay những gì khác, nếu chúng tìm
cách thâm nhập vào tri thức của họ qua các cửa ngõ như thị giác, thính
giác, khứu giác, vị giác, xúc giác hay tư duy, thì nhất định chúng sẽ bị
đánh bại và không thể nào làm cho tâm thức họ bị u mê được, không thể
đánh lừa họ được và làm cho họ bị dao động. Chiến thắng được tất cả
những thứ ấy sẽ mang lại một niềm hân hoan trong sáng.
Những ai hằng quan tâm đến "Đạo-Pháp của Đức Phật" (Buddha-Dhamma)
thì đến một lúc nào đó sẽ nhận thấy tâm thức mình bừng tỉnh dậy. Vì thế
Đạo Pháp của Đức Phật cũng có thể xem như là một thứ thực phẩm thật cần
thiết. Thật vậy, những người bị các thứ ô nhiễm tâm thần chi phối thì
luôn luôn tìm cách nuôi dưỡng mình bằng những thứ thực phẩm mang lại từ
mắt, tai, mũi, lưỡi và thân xác, tuy thế nơi họ cũng vẫn có một thứ gì
khác sâu xa hơn, không thúc dục họ chạy theo các loại thực phẩm ấy: đấy
là cái thể dạng tinh khiết và phóng khoáng của tâm hồn họ, cái thể dạng
đó hướng họ vào những gì hân hoan và ngọt ngào mang lại từ những món ăn
tinh thần, và trước hết là từ những món thơm ngon của đạo đức tinh
khiết. Những món ăn tinh thần ấy mang lại sự toại nguyện cho những ai
đạt được sự tỉnh thức, tạo được cho mình một sự tĩnh lặng nội tâm cao
độ, hóa giải được tác động của những thứ ô nhiễm thường làm cho tâm thức
bị u mê, giúp họ đạt được một sự quán thấy minh bạch về bản thể đích
thật của mọi vật thể, khiến họ không còn bám víu vào chúng nữa. Đấy là
những sinh linh biết dừng lại, không còn chạy ngược chạy xuôi giống như
những người mà Đức Phật ví như những "đám khói của ban đêm và ngọn lửa
của ban ngày".
"Đám khói của ban đêm" có nghĩa là mất
ngủ, bồn chồn, những ai vướng vào căn bệnh ấy thì đêm đêm cứ vắt tay lên
trán mà lo nghĩ đến những gì phải làm, suy nghĩ tìm cách nào tốt nhất
để trở nên giàu có hầu cung ứng tất cả những gì mà mình ước mong. Tâm
thức họ dầy đặc những "đám khói". Thế rồi nào họ có biết làm gì khác hơn
là nằm thẳng cẳng cho đến sáng, để rồi lại phải đứng lên tiếp tục chạy
ngược xuôi tìm cách thỏa mãn những dục vọng của "đám khói" mà họ ấp ủ
suốt đêm hôm qua - Đức Phật gọi sự sinh hoạt cuồng nhiệt đó là "ngọn lửa
của ban ngày". Các triệu chứng ấy cho thấy một tâm thức bất an, thiếu
hẳn những món ăn tinh thần, một tâm thức phải chịu đựng những cái đói và
cái khát bệnh hoạn phát sinh từ sự thèm muốn. Suốt đêm, những nạn nhân
đáng thương ấy ấp ủ cẩn thận các "đám khói" để giữ hơi nóng, chờ đến
sáng hôm sau sẽ làm cho chúng bùng lên thành ngọn lửa để đốt cháy mình
trong suốt ngày hôm ấy. Nếu trọn đời, ta chỉ biết ban đêm thì ủ khói,
ban ngày thì làm cho nó bùng cháy lên, thì làm thế nào mà ta có thể tìm
thấy được sự trong sáng và an bình? Cứ thử nghĩ lại xem có đáng buồn hay
không nếu suốt đời từ lúc mới sinh cho đến lúc cái chết xảy đến, chúng
ta phải chịu đựng cái cảnh đọa đày và khổ sở ấy, đơn giản chỉ vì không
biết phát huy một sự quán thấy sâu xa giúp dập tắt đi các "đám khói" và
các "ngọn lửa" ấy. Nếu muốn chữa trị chứng bệnh ấy thì phải cần đến sự
hiểu biết - tức là những "phương thuốc" - mà Đức Phật đã ban cho chúng
ta. Khói và lửa sẽ giảm bớt đi khi các mức độ hiểu biết về bản chất đích
thật của mọi sự vật gia tăng.
Như chúng ta đã thấy, Phật giáo gồm có
nhiều khía cạnh hay thể dạng khác nhau. Một quả núi sẽ hiện ra dưới
những hình thù khác nhau tùy theo các hướng nhìn khác nhau, đối với Phật
Giáo cũng thế, tùy theo cách nhìn của chúng ta mà Phật Giáo sẽ mang lại
những lợi ích khác nhau. Phật Giáo nào có khác gì với các tôn giáo
khác, cũng sinh ra từ sự sợ hãi của con người - thế nhưng không phải từ
sự sợ hãi của những kẻ ngu đần chỉ biết quỳ lạy dưới chân các vị thần
thánh hay các hiện tượng thiêng liêng - mà đúng hơn đấy là một thứ sợ
hãi thật tinh tế, sợ hãi phải mãi mãi bị trói buộc trong sinh, lão,
bệnh, tử, sợ hãi không đủ sức vượt lên được những khổ đau đang phơi bày
ra trước mặt. Căn bản Phật Giáo đích thật không nằm trong các trang
sách, không ẩn chứa trong những lời tụng niệm bất tận, hoặc những gì
được ghi chép trong Tam Tạng Kinh, lại càng không phải là những gì phản
ảnh từ các nghi thức và lễ lạc. Giáo lý của Đức Phật đích thật là một
phép tu tập giúp tẩy sạch những thứ "ô nhiễm" thường mượn các cửa ngõ
của thân xác, ngôn từ và tư duy để thâm nhập vào tâm trí và làm cho nó
bị u mê. Phép tu tập đó không cần đến kinh điển hay các tập sách chỉ
dẫn, cũng không cần đến nghi lễ hay bất cứ thứ gì từ bên ngoài, kể cả
thần thánh và các vị thiên nhân trên trời, mà nhất thiết chỉ cần trực
tiếp tập trung và canh chừng những gì phát sinh từ thân xác, ngôn từ và
tư duy; nói một cách khác là phải cố gắng và kiên trì loại bỏ những gì
có thể làm cho tâm thức bị u mê, hầu giúp cho sự quán thấy minh bạch và
sâu xa có thể hiển hiện. Khi thực hiện được điều đó thì đương nhiên
chúng ta sẽ có đủ khả năng để hành động một cách thích nghi trong bất cứ
một bối cảnh nào. Và từ đấy cho đến cuối cuộc đời, chúng ta cũng sẽ tự
giải thoát cho mình khỏi mọi khổ đau. Đấy là căn bản Phật Giáo Đích Thật
mà chúng ta phải học hỏi.