Quyển Một
Phẩm 1:
Nhân Duyên
Kính lễ Đức Thế tôn, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri,
"Giới, Định, Trí huệ,
Vô thượng giải thoát,
Tùy giác thử pháp,
Hữu xứng Cồ-đàm."
Người muốn thoát các khó khăn, muốn cởi
được mọi ràng buộc, muốn thành tựu tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về
sanh, già, chết, muốn vui giải thoát đạt tới
Niết-bàn còn khó đến, thì phải
rộng hiểu thấu đáo Kinh tạng, Luận tạng, Luật
tạng. Đó là con đường Giải
Thoát Đạo mà tôi sắp nói. Hãy lắng
nghe kỹ.
Hỏi: Giới là gì?
Đáp: Giới là nghiã uy nghi.
Định là chẳng loạn động.
Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lià khỏi các dây ràng
buộc. Vô thượng là vô lậu, dứt hết các phiền não. Tùy giác
là trí hiểu được. Thử pháp là
Tứ Thánh pháp (Tứ Diệu đế). Cồ-đàm
là họ của Đức Phật Thích-ca.
Hữu xứng là nói đến Thế tôn đã
dùng giới, định, huệ, giải thoát
tạo nên công đức thù thắng mới
xứng danh cao tột.
Hỏi: Giải thoát đạo nghiã là
gì?
Đáp: Giải thoát đạo gồm có năm:
(1) phục giải thoát, (2) bỉ phần giải thoát, (3)
đoạn giải thoát, (4) khinh
an giải thoát, (5) ly giải thoát.
Hỏi: Phục giải thoát là gì?
Đáp: Phục giải thoát là hiện tu hành Sơ thiền
điều phục được các triền cái. Bỉ
phần giải thoát là hiện tu đạt được một
phần định, khiến tri kiến được
giải thoát. Đoạn giải thoát là tu xuất thế gian, diệt trừ
được các kết sử. Khinh an giải
thoát như tâm vui của người chứng đắc
được quả vị thì an ổn. Ly giải thoát là cõi Vô dư Niết-bàn.
Con đường nầy đưa đến sự giải thoát hoàn
toàn, qua Giới, Định, Huệ, nên
được gọi là Giải thoát
đạo.
Giờ đây, tôi xin giảng về Giải
thoát đạo.
Hỏi: Giảng Giải thoát đạo
với dụng ý gì?
Đáp: Có người kia muốn được
giải thoát, nhưng chẳng được nghe về giải thoát, chẳng
được hiểu, hoặc hiểu sai về giải
thoát, kẻ ấy như người mù lang thang một mình nơi
đất nước xa lạ, chịu mọi khổ sở. Kẻ ấy muốn
được giải thoát mà chẳng có nhân duyên (= ở
đây, có nghiã là phương tiện). Tại sao
vậy? Giải thoát chính là nhân duyên
đó. Như Đức Phật có nói: "Chúng
sanh trần lao khổ nhọc, chẳng được nghe pháp,
nên rốt cuộc phải chịu thoái chuyển." Lại như lời Phật: "Nầy
chư Tỳ-kheo, có hai nhân, hai duyên, khiến sanh ra Chánh kiến. Hai là
những gì? Một là nghe kẻ khác nói. Hai là tự mình có Chánh niệm."
Vì lẽ đó, giảng Giải thoát
đạo cho kẻ chưa nhận biết về
giải thoát khiến cho y sanh ra chán ghét sự ham muốn; cho kẻ
đã nghe lầm về giải thoát,
khiến cho y trừ được con đường bất chánh, mà
đắc được thiền giải thoát. Giảng
Giải thoát đạo cũng như người
đi xa gặp được kẻ khéo dẫn đường.
Người theo Phục giải thoát đạo
thành tựu được ba ấm
(= ba nhóm). Ba ấm là những gì?
Đó là Giới ấm, Định ấm,
và Huệ ấm.
Hỏi: Giới ấm là gì?
Đáp: Là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, và các
loại hành động tương tợ, hoặc là khối
công đức của mọi giới hạnh khác đem lại
Hỏi: Định ấm là gì?
Đáp: Là chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định, và các loại hành
động tương tợ, hoặc là khối công
đức của mọi hình thức
định đem lại.
Hỏi: Huệ ấm là gì?
Đáp: Là chánh kiến, chánh tư duy, và các hành
động tương tợ, hoặc là khối công
đức của mọi hình thức huệ
đem lại
Đấy là sự thành tựu đầy đủ
ba ấm.
Kẻ theo Phục giải thoát đạo
cần học kỹ ba học, đó là
tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học,
tăng thượng huệ học. (Tăng
thượng = thêm hơn) Có giới học, có tăng
thượng giới học. Có định tâm học, có tăng thượng tâm định học. Có huệ học,
có tăng thượng huệ học.
Lại nữa, có giới về giới học, có giới về tăng
thượng giới học. Có định tâm học, có định học về tăng thượng tâm học. Có
huệ học, có huệ học về tăng thượng huệ học.
Hỏi: Giới học là gì?
Đáp: Khi nói tướng giới, đó là
tên của giới học. Khi nói đạt được phần giới,
đó là tăng thượng giới học. Lại nữa,
giới của phàm phu là giới học; thánh giới là tăng
thượng giới học.
Hỏi: Tâm học là gì?
Đáp: Tâm học là định
thuộc về cõi dục giới.
Hỏi: Tăng thượng tâm học là gì?
Đáp: Định thuộc về cõi Sắc giới và cõi Vô sắc giới
là tăng thượng tâm học. Lại
nữa, khi có tướng định tâm học mà
đạt được phần định và
đạo định, đó là tăng
thượng tâm học.
Hỏi: Huệ học là gì?
Đáp: Học Thế gian trí là huệ học. Học Tứ Diệu
đế, Tương tự trí và
Đạo trí là tăng
thượng huệ học.
Như Thế tôn vì người độn căn (= kém
thông minh) giảng về tăng thượng giới học;
vì người trung căn (= thông
minh vừa vừa) giảng về tăng thượng tâm
học; vì người lợi căn
(thông minh nhiều) giảng về tăng thượng
huệ học.
Hỏi: Học nghiã là sao?
Đáp: Học là học khả học (= học
điều cần phải học), học tăng
thượng học (= học cao hơn điều cần
phải học) và học vô học (= học vượt lên trên hai cấp học
trước), có được như vậy mới gọi là
như thị học. Học trọn vẹn ba cấp đó thì
gọi là theo Phục giải thoát đạo.
Học xong ba học thì thành tựu được
ba thanh tịnh, nghiã là
giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến thanh tịnh.
Như thế, Giới là giới thanh tịnh,
Định là tâm thanh tịnh, Huệ là tri kiến thanh tịnh.
Giới tẩy trừ các sự cấu nhiễm của việc phạm giới.
Định trừ
được các triền cấu, khiến cho tâm thanh tịnh.
Huệ trừ được vô tri cấu, khiến
cho tri kiến được thanh tịnh.
Lại nữa, giới trừ ác nghiệp,
định trừ triền cấu, huệ trừ kết sử. Như thế, xuyên qua
ba thanh tịnh nầy là theo Phục giải thoát
đạo.
Lại do ba điều lành
nầy mà theo Phục giải thoát đạo.
Lấy Giới làm sơ thiện (= điều lành
đầu tiên), lấy
Định làm trung thiện (= ở
giữa), lấy Huệ làm hậu thiện (=
điều lành ở sau).
Hỏi: Thế nào là Giới làm sơ thiện?
Đáp: Có người tinh tấn tu hành
được đến mức chẳng lùi sụt, do được
chẳng lùi sụt nên sanh mừng; do mừng nên sanh nhảy nhót; do nhảy
nhót nên thân sanh khích động; do thân khích
động nên sanh vui, do vui nên sanh
định. Đó là sơ thiện. Do
định, nên sanh tri kiến như thật,
đó là trung thiện.
Huệ sanh ra là hậu thiện. Do tri kiến như thật sanh ra nhàm
chán sự lo lắng, do nhàm chán sự lo lắng sanh lià xa các ham muốn, do lià
xa các ham muốn mà được giải thoát, do được
giải thoát mà biết chính mình được
giải thoát. Như thế, thành tựu được
ba đường lành.
Do theo Phục giải thoát đạo
mà đắc được ba niềm vui:
đó là vô quá lạc, tịch diệt
lạc và chánh giác lạc. Do giới mà
được niềm vui vô quá lạc (= vui vì biết mình chẳng lỗi lầm).
Do định mà
được niềm vui tịch diệt lạc (=
vui yên tịnh). Do huệ mà được niềm vui
chánh giác lạc (= vui hiểu biết chơn chánh). Như thế, thành tựu
được ba niềm vui.
Người biết theo Phục giải thoát đạo
lià xa nhị biên (= hai cực đoan)
theo được trọn vẹn con đường
Trung Đạo. Người ấy lấy
điều lành về giới mà trừ các ham
muốn còn đang ràng buộc, do nơi
niềm vui thấy mình chẳng lầm lỗi mà sanh lòng mừng vui. Lấy
định nơi niềm vui tĩnh lặng
để trừ sự mỏi mệt của thân
thể và tăng thêm niềm vui an lành.
Lấy huệ phân biệt được Tứ Đế,
Trung Đạo đầy đủ, để hưởng niềm vui chánh giác mà lòng hằng
ôm ấp. Như thế là lià xa được nhị
biên mà đắc Trung
Đạo
đầy đủ.
Người biết theo Phục giải thoát đạo
lấy giới trừ được các đường dữ ác, lấy
định trừ được cõi dục
giới, lấy huệ trừ được tất cả cảnh tái
sanh.
Nếu tu nhiều nơi giới mà định,
huệ lại ít hơn, thì chứng được quả
Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm. Nếu tu
nhiều nơi giới và định
mà huệ ít hơn, thì chứng quả A-na-hàm. Nếu tu
đầy đủ cả ba loại, thì chứng thành quả
A-la-hán, được giải thoát cao tột.
-ooOoo-