PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm Hiểu
Phẩm 11:
Năm Phương
tiện.
Chi 1: Ấm,
Nhập, Giới, Nhân duyên
Phương tiện.
Chuyển tiếp: Trong Phẩm 10: Phân biệt Huệ, Luận văn
trình bày các hình thức của Trí Huệ Bát-nhã.
Đến Phẩm 11 nầy, Luận văn nêu ra Năm
Phương tiện để khởi lên
Trí Huệ Bát-nhã đó. Năm Phương tiện gồm
có: Ấm phương tiện, Nhập phương tiện, Giới phương tiện, Nhân
duyên phương tiện và Thánh đế phương tiện.
Trong Chi 1 của Phẩm 11, Luận văn bàn
đến bốn phương tiện đầu: ấm, nhập,
giới, và nhân duyên phương tiện. Chi 2 sẽ nói nốt về Thánh
đế phương tiện.
083. Dàn bài chi tiết của Chi 1, Phẩm 11.
I. Nhập đề: Muốn thoát
sự mê mờ che lấp các nguyên nhân gây ra cảnh sanh, già, bịnh, chết,
người toạ thiền cần khởi lên năm phương
tiện: ấm, nhập, giới, nhân duyên và Thánh
đế phương tiện.
II. Thân bài: Chi 1 của Phẩm 11 có bốn phần rõ rệt:
(1) Ấm phương tiện, (2) Nhập phương tiện, (3) Giới phương
tiện, (4) Nhân duyên phương tiện.
21. Ấm Phương tiện: Năm ấm (=
uẩn): (a) sắc ấm, (b) thọ ấm, (c) tưởng ấm,
(d) hành ấm và (e) thức ấm.
A. Sắc ấm: bốn đại
và sắc chất (= sắc và vật chất do bốn
đại tạo thành)
1) Điạ giới, thủy giới, hoả giới và
phong giới.
2) Quán sát sơ lược và rộng rãi (Xem lại Chi 5, Ph.8 về Hành môn,
các trang 197, 198)
3) Ba mươi loại sắc chất: 26 sắc chất và 4
đại:
31. Năm nhập:
Nhãn nhập: mắt, nhãn thức, và sắc chất thanh tịnh
Nhĩ nhập: tai, nhĩ thức và sắc chất thanh tịnh;
Tị nhập: mũi, tị thức, và sắc chất thanh tịnh;
Thiệt nhập: lưỡi, thiệt thức và sắc chất thanh tịnh;
Thân nhập: thân, thân thức và sắc chất thanh tịnh
32. Sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;
33. Mạng căn, nam căn,
nữ căn;
34. Thân tác và khẩu tác;
35. Sắc khinh, sắc nhuyễn, sắc kham;
36. Sắc tụ, sắc tương tục, sắc sanh, sắc lão, sắc vô thường;
37. Đoàn thực, giới và xứ
sắc.
4) Bốn đại và các sắc chất khác
nhau thế nào?
5) Năm cách tìm biết rõ ràng về
sắc chất:
51. Do khởi lên
52. Do hội tụ
53. Do sanh ra
54. Do chủng loại
55. Do đồng nhứt.
B. Thọ ấm: Cảm thọ là những tình cảm mà tâm
đang thể nghiệm. Nếu phân
biệt theo:
1. tướng: thì chỉ có một loại cảm thọ.
2. xứ: có hai loại cảm thọ: thân thọ và ý thọ;
3. tự tánh: có ba loại: cảm thọ vui, cảm thọ khổ, và cảm
thọ chẳng vui chẳng khổ (=cảm thọ vô ký)
4. pháp: có bốn loại: cảm thọ thiện, chẳng thiện, cảm thọ báo
đáp và cảm thọ về sự việc.
5. căn: có năm
loại: lạc căn, khổ căn, hỉ
căn, ưu căn và xả căn;
6. trắng đen: có
sáu loại: cảm thọ vui hữu lậu và vui vô lậu, cảm thọ khổ hữu lậu
và vô lậu, và cảm thọ chẳng khổ chẳng vui hữu lậu và vô lậu;
7. cửa vào: có bảy loại: cảm thọ tại các môn (=
cửa) như là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý giới và ý thức giới;
8. Còn nếu phân biệt thật rộng rãi, có 108 cảm thọ:
- sáu cảm thọ theo sự ái
- sáu cảm thọ theo sự xuất ly;
- sáu cảm thọ theo sự ái ưu;
- sáu cảm thọ theo sự ly ái;
- sáu cảm thọ theo sự xả;
- sáu cảm thọ theo sự xả ly;
Như thế, 6 lần 6 là 36 cảm thọ, nhơn lên ba thời, hiện
tại, quá khứ và vị lai, tổng cộng 108 cảm thọ.
C. Tưởng ấm: Phân biệt theo tướng thì chỉ có một
tưởng thôi, do đó mà tâm biết
được nội dung sự việc. Nếu phân biệt theo:
1. sự trắng đen thì có
hai tưởng: tưởng điên
đảo và tưởng chẳng
điên
đảo;
2. sự thiện, bất thiện, có ba tưởng:
- tưởng tham muốn; t. giận hờn, t. gây tổn hại;
- tưởng xuất ly, t. chẳng giận, t.chẳng tổn hại;
3. sự chẳng hiểu rõ tự tánh, có bốn tưởng:
- tưởng vui trước việc khổ, tưởng tịnh trước vật bất tịnh;
- có thường tưởng trước sự vật vô thường; và có ngã tưởng trước sư
vật vô ngã.
4. sự chẳng hiểu rõ nơi chốn, cũng có bốn tưởng: các
tưởng bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã;
5. phân biệt theo Luật tạng, thì có năm
tưởng:
- nơi bất tịnh, có tưởng tịnh, và tưởng bất tịnh;
- nơi tịnh, có tưởng bất tịnh, tưởng tịnh, và tưởng nghi;
6. theo sự việc, có sáu tưởng: sắc tưởng, thanh tưởng, hương
tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng (pháp = sự vật)
7. theo cửa các giác quan, có bảy tưởng: các tư tưởng
sanh ra do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và ý thức giới.
D. Hành ấm: Ngoại trừ các cảm thọ và các tư tưởng
ra, tất cả các tâm sở (= các tâm trạng)
đều thuộc về hành ấm.
Có các loại hành, hay tâm hành, hoặc tâm sở sau
đây:
1. Tâm sở Xúc: khi tâm tiếp xúc với
đối tượng;
2. Tâm sở Tư: khi tâm bắt
đầu chuyển động, suy tư;
3. Tâm sở Quán: khi tâm bắt
đầu quán sát đối tượng
4. Tâm sở Hỉ: khi tâm mừng rỡ, nhảy nhót;
5. Tâm sở Tâm: khi tâm trong sạch như lúc
đọc chú
6. Tâm sở Tinh tấn: khi tâm dõng mãnh
đeo đuổi theo đối tượng;
7. Tâm sở Niệm: khi tâm giữ gìn cẩn thận
đối tượng
8. Tâm sở Định: khi
tâm chuyên nhứt;
9. Tâm sở Huệ: khi tâm chiếu sáng, thấy rõ ràng;
10. Tâm sở Mạng căn: khi
tâm nhìn vào sức sống;
11. Tâm sở Cái: khi tâm lià sự ác;
12. Tâm sở Bất tham: khi tâm lià sự tham dục;
13. Tâm sở Bất sân: khi tâm lià sự sân hận;
14. Tâm sở Tàm: khi tâm biết ghê tởm sự làm ác;
15. Tâm sở Qúi: khi tâm biết hổ thẹn vì sự làm ác;
16. Tâm sở Ỷ hay là Khinh an: khi tâm cảm thấy mát mẻ,
dứt sự xao động;
17. Tâm sở Dục: khi tâm vui lòng làm việc lành;
18. Tâm sở Giải Thoát: khi tâm thoát khỏi các ác niệm trôi chảy
êm đềm như dòng nước chảy xuống
19. Tâm sở Xả: khi tâm bình đẳng,
chẳng nghiêng về bên nào, như người cầm cân;
20. Tâm sở Tác ý: khi tâm khởi ý về pháp tắc, như người cầm
bánh lái;
21. Tâm sở Tham: khi tâm bám níu như con ngỗng
22. Tâm sở Sân: khi tâm kích động
như rắn độc mổ;
23. Tâm sở Vô minh: khi tâm bị che mờ chẳng thấy rõ
24. Tâm sở Mạn: khi tâm ngạo mạn, phách lối;
25. Tâm sở Kiến thủ: khi tâm cố chấp như người mù sờ voi;
26. Tâm sở Trạo: khi tâm xao động,
nói làm vụt chạc;
27. Tâm sở Hối: khi tâm thoái lùi, tiếc rẻ;
28. Tâm sở Nghi: khi tâm phân vân, vì cố chấp vào nhiều việc
trái ngược;
29. Tâm sở Giải Đãi: khi
tâm lười nhác;
30. Tâm sở Vô tàm: khi tâm chẳng biết hổ thẹn lúc làm việc ác;
31. Tâm sở Vô qúi: khi tâm chẳng biết sợ hãi việc ác.
E. Thức ấm: Tất cả sự hiểu biết (kiến thức) bên trong tâm về
đối tượng bên ngoài.
1. Có bảy thức: (1) nhãn thức, (2) nhĩ thức,
(3) tị thức, (4) thiệt thức, (5) thân thức, (6)
ý giới, (7) ý thức giới.
Nhãn thức: mắt duyên theo sắc, sanh ra nhãn thức;
Nhĩ thức: tai duyên theo âm thanh, sanh nhĩ thức;
Tị thức: mũi duyên theo mùi, sanh ra tị thức;
Thiệt thức: lưỡi duyên theo vị, sanh ra thiệt thức;
Thân thức: thân duyêntheo va chạm, sanh thân thức
Ý giới duyên theo năm đối tượng
của năm thức trước, khởi lên trong tâm ý thức gọi là ý giới;
Ý thức gìới: ngoại trừ sáu thức vừa kể, phần còn lại của tâm,
gọi là ý thức giới.
2. Có ba cách để biết rõ
thêm về bảy thức kể trên:
21. Do xứ sự tức là do nơi sự việc xảy ra tại các nơi:
- Năm thức trước (từ nhãn
thức đến thân thức) có đối tượng và
sự việc được hiểu biết xảy ra ở các nơi
chốn (ở các căn) khác nhau;
- Ý giới và ý thức giới có chung một xứ bên trong; ý giới có năm
đối tượng bên ngoài, còn ý thức giới có sáu
đối tượng bên ngoài;
- Năm thức trước và ý giới
cùng có đối tượng bên ngoài,
nhưng sự việc được hiểu biết của năm
thức đó và Ý giới đều xảy ra bên
trong.
- Ý thức giới có sự việc được hiểu
biết xảy ra bên trong; đối tượng
có thể bên ngoài hoặc bên trong;
- Sáu thức (trừ ý thức giới) có xứ và
đối tượng xảy ra từ thời quá khứ, riêng
ý thức gới, xứ và đối tượng xảy ra kể
từ lúc ra đời.
-Ở cõi vô sắc giới, chẳng có xứ và sự của Thức.
22. Do đối tượng mà biết
rõ thêm về các thức:
- Năm thức trước có cảnh giới riêng,
chẳng sanh lẫn nhau, chỉ biết rõ thức nào
đến trước nơi tâm
- Nơi ý giới, chẳng biết rõ hết mọi sự việc, trừ phi có ý nào
được chuyển vào tâm trước;
- Qua sáu thức, nhờ có sự tấn tốc mà có sự an
định, thọ trì về thân, khẩu và ý
nghiệp; chỉ có hậu phần của thức mới ngủ hay nằm mộng.
23. Do các thiền chi mà biết rõ thêm về các thức:
- Năm thức trước và ý giới có
giác, có quán; Ý thức giới khi có giác quán,
khi chẳng giác mà có quán, khi dứt luôn cả giác và
quán.
- Năm thức trước cùng
đi với xả; riêng thân
thức đi chung với khổ hay
lạc, còn ý thức giới thì đi
chung hoặc với hỉ, ưu, hay với xả
- Cả sáu thức (trừ ý thức giới) đều
là pháp thế gian vẫn còn phiền não; còn ý thức giới thì hủy
hoại được tất cả.
F. Bốn cách để phân biệt Năm Ấm:
1. Do phân biệt nghiã chữ:
11. Sắc có nghiã là hiển hiện rõ ra, dễ nhận thức;
12. Thọ có nghiã là cảm nhận, thể nghiệm
được;
13. Tưởng có nghiã biết
đến, chú ý đến;
14. Thức có nghiã là hiểu biết rõ ràng;
15. Ấm có nghiã là tập hợp chung lại các loại trên.
2. Do phân biệt về tướng:
21. Tướng của Sắc lộ ra như gai nhọn;
22. Tướng của Thọ khởi khi xúc chạm
đối tượng;
23. Tướng của Tưởng là tướng giữ gìn và làm;
24. Tướng của Hành là tướng hoà hiệp do xúc;
25.Tướng của Thức là tướng hiểu biết, do Danh-Sắc làm
khởi lên.
3. Do xếp các ấm thành ra ba loại:
31. Năm Pháp ấm: giới
ấm, định ấm, huệ ấm, giải thoát ấm và
giải thoát tri kiến ấm.
32. Năm Thọ ấm: về những sự
vật hữu lậu, vẫn còn phiền não rỉ chảy;
33. Năm Ấm: về những sự vật
hữu vi (biến đổi theo các duyên,
các điều kiện).
4. Do sự thâu nhiếp thành ra ba loại:
41. Được thâu nhiếp vào nhập
nhiếp có sắc ấm, ba pháp ấm và thức ấm;
42.Được thâu nhiếp vào giới
nhiếp, có năm pháp ấm, pháp nhập,
pháp giới, ý nhập và ý giới;
43. Được thâu nhiếp vào
đế nhiếp, có:
- năm ấm thâu nhiếp
vào Khổ đế, Tập đế;
- năm pháp ấm
thâu nhiếp vào Đạo đế;
- pháp Niết-bàn thâu nhiếp vào Diệt
đế.
22. Nhập Phương tiện:
A. Mười hai Nhập: gồm có sáu trần và sáu căn
như
(1, 2) sắc nhập, nhãn nhập,
(3, 4) thanh nhập, nhĩ nhập
(5, 6) hương nhập, tị nhập,
(7, 8) vị nhập, thiệt nhập,
(9, 10) xúc nhập, thân nhập,
(11, 12) pháp nhập,ý nhập
Nhập là phạm vi cảnh giới thanh tịnh xuyên vào căn.
B. Năm cách phân biệt rõ các
Nhập:
1. Do nghiã chữ:
11. Nhãn = thấy; Sắc = hiện ra rõ;
12. Nhĩ = nghe; Thanh = tiếng, âm thanh;
13. Tị = ngữi; Hương = mùi;
14. Thiệt = lưỡi nếm; Vị = khí vị, mùi vị (nếm)
15. Thân = chánh trí nơi thân tâm; xúc = kề cận
16. Ý = hiểu biết; Pháp = sự vật chẳng sanh mạng
2. Do cảnh giới:
21. Mắt chẳng thể tới được cảnh
giới của sắc;
22. Cảnh giới âm thanh, vị đến
tận tai và lưỡi;
23. Ý và pháp cùng chung một cảnh giới.
3. Do nhân duyên:
31. Mắt, ánh sáng, tác ý là nhân duyên
để thấy;
32.Tai, Hư-không giới, tác ý: nhân duyên
để nghe
33. Mũi, mùi hương, gió, tác ý: nhân duyên ngữi;
34. Lưỡi, vị, nước, tác ý: nhân duyên
để nếm;
35. Thân, xúc, tác ý: nhân duyên để
sờ mó;
36. Ý, pháp, giải thoát, tác ý: nh.duyên
để biết.
4. Do đối tượng tiếp xúc với tâm:
41. Ba mức độ của sự tiếp
xúc: mạnh, vừa, yếu;
42. Biến chuyển của tâm khi tiếp xúc
đối tượng:
- Bảy động tác của Tâm,
khi tiếp xúc mạnh: (1) hữu phần tâm, (2) chuyển
kiến tâm, (3) sở thọ tâm, (4) phân biệt tâm; (5)
linh khởi tâm, (6) tốc hành tâm; và (7) bỉ sự tâm.
- Thí dụ về trái xoài và Tâm của Nhà Vua;
- Đối tượng tiếp xúc
vừa vào các giác quan: tốc hành tâm
đưa thẳng vào hữu phần tâm
- Đối tượng tiếp xúc
yếu vào các giác quan: linh khởi tâm
đưa thẳng vào hữu phần tâm.
- Về cửa ý, chẳng có sự xúc chạm, nên do chú ý làm
nhân duyên khởi lên hiểu biết.
5. Do sự thâu nhiếp: giống với các ấm, có ba: (1)
ấm nhiếp; (2) giới nhiếp và (3)
đế nhiếp.
23. Giới Phương tiện:
A. Mười tám giới:
(1 đến 3): nhãn giới, sắc
giới, nhãn thức giới;
(4 đến 6): nhĩ giới, thanh
giới, nhĩ thức giới;
(7 đến 9): tị giới, hương
giới, tị thức giới;
(10 đến 12): thiệt giới, vị
giới, thiệt thức giới;
(13 đến 15): thân giới,xúc
giới, thân thức giới;
(16 đến 18): ý giới, pháp
giới, ý thức giới.
B. Cảnh giới của sự thuyết giảng:
1. Ấm, nhập là hai phương tiện dùng
để giảng về thân phận con
người và giới,về hoàn cảnh chung quanh.
2. Lối thuyết giảng của Thế tôn, về Khổ
đế:
- với kẻ lợi căn, Ngài
dùng đường lối Ấm;
- với kẻ trung căn,
Ngài dùng lối Nhập;
- với kẻ độn căn,
Ngài dùng đường lối Giới.
- với kẻ cố chấp về danh, tướng, Ngài giảng tóm lược về
sắc, và giảng rộng về ấm;
- với kẻ cố chấp về sắc, tướng, Ngài giảng tóm lược về
danh, và giảng rộng về nhập;
- với kẻ chấp cả danh, sắc, tướng, Ngài giảng rộng về
giới để phân biệt về
Danh-Sắc.
24. Nhân duyên Phương tiện:
A. Mười hai Nhân duyên:
1. Thập nhị Nhân duyên gồm có những gì?
11. Vô minh là chẳng thông hiểu bốn Chơn lý
12. Hành là hành động đã
qua của thân, miệng và ý, tạo nên Nghiệp, còn gọi
là hành nghiệp;
13. Thức là một niệm lúc nhập vào bào thai;
14. Danh-Sắc là tâm và các tâm sở cùng khởi
lên với sắc ca la la (= bào thai);
15. Lục nhập là sáu nội nhập (= mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
ý);
16.Xúc: sáu loại va chạm lục nhập vào thân;
17. Thọ là sáu loại cảm thọ của thân;
18. Ái là sáu điều tham
ái (ở các căn) của thân
19. Thủ là bốn sự chấp thủ, bám níu vào ái;
20. Hữu là nơi hiện hữu (= cuộc sống)
21. Sanh là các ấm khởi lên;
22. Lão tử là các ấm đã
già, chín muồi và tan hoại đi.
2. Hai chiều lưu chuyển và hoàn diệt:
(a) Lưu chuyển mãi trong cảnh Luân hồi: Vô minh duyên
Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh-Sắc, Danh-Sắc
duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên
Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên
Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão, Lão duyên
Tử... toàn bộ Khổ ấm.
(b) Hoàn diệt phá vòng sanh tử Luân hồi: Vô minh
diệt, Hành diệt; Hành diệt, Thức diệt; Thức
diệt, Danh-Sắc diệt; Danh-Sắc diệt, Lục nhập
diệt; Lục nhập diệt, Xúc diệt; Xúc diệt, Thọ
diệt; Thọ diệt, Ái diệt; Ái diệt, Thủ
diệt; Thủ diệt, Hữu diệt; Hữu diệt, Sanh
diệt; Sanh diệt, Tử diệt và Khổ ấm diệt.
Chiều lưu chuyển quay mãi, nên chúng sanh vướng vòng lẩn
quẩn của Luân hồi, phải chịu Khổ mãi;
Chiều hoàn diệt bẻ gãy vòng sanh tử Luân hồi, mà chấm dứt Khổ
ấm và được giải thoát.
3. Tại sao Vô minh duyên Hành, ...
đến ... Sanh duyên Lão Tử?
(a) Vì cái nầy có nên cái kia cũng có; hễ cái nầy
diệt, cái kia cũng diệt theo.
(b) Do lẽ nhân duyên tương tục
đó, hễ còn vô minh thì các duyên lần lượt khởi lên; vòng
Luân hồi cứ quay mãi; hễ vô minh diệt, thì vòng sanh tử
Luân hồi bị bẻ gãy và được giải
thoát.
4. 12 nhân duyên chia ra ba thời:
(a) quá khứ: Vô minh và Hành;
(b) hiện tại: tám nhân duyên kế tiếp: Thức, Danh-Sắc, Lục nhập,
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu
(c) vị lai: Sanh và Lão tử.
5. 12 Nhân duyên khác Pháp nhân duyên:
- Trong chuỗi 12 nhân duyên, yếu tố này liên quan chặt chẽ
với yếu tố kia, chưa được hoàn
mãn, nên chẳng thể tách ra từng nhân duyên
để giảng giải rõ
được;
- Trong lúc chuyển hành, chẳng thể xác
định mỗi nhân duyên là pháp hữu vi, hay vô vi
được;
- Một khi khởi lên hoàn mãn xong, yếu tố trở thành pháp nhân
duyên, mới được xác định
thuộc về pháp hữu vi.
- Sự chuyển hành các yếu tố nhân duyên rất thâm sâu, chỉ có huệ
căn của bực Thánh mới hiểu rõ
tường tận.
6. Bảy cách quán sát 12 Nhân duyên:
61. Do ba tiết (= ba lóng, ba khoảng cách):
- tiết1: về quả báo hiện tại: từ hành
đến thức; nơi quá khứ,
nghiệp và phiền não gây ra quả báo hiện tại;
- tiết 2: về phiền não hiện tại: từ thọ
đến ái; nơi hiện tại, do
quả báo hiện tại làm duyên cho phiền não hiện tại;
- tiết 3: về quả báo tương lai: có hữu và sanh;
nơi hiện tại phiền não hiện tại làm duyên cho quả báo tương lai.
62. Do bốn điều giản
lược: (= bốn điều tóm tắt):
- Phiền não lược quá khứ: vô minh và hành, nơi
nghiệp quá khứ;
- Quả báo lược hiện tại: thức, Danh-Sắc, lục nhập,
xúc, thọ, nơi quả báo hiện tại;
- Phiền não lược hiện tại: ái, thủ, hữu, nơi nghiệp hiện tại;
- Quả báo lược vị lai: sanh, lão tử, nơi quả báo vị lai.
63. Do sự luân chuyển:
- Lần lượt từ vô minh duyên hành, cho
đến lão tử, toàn bộ
khổ ấm nổi lên;
- Nơi khổ ấm, sự chẳng hiểu biết bốn Chơn lý làm thành
vô minh lại duyên hành nữa, cứ luân chuyển mãi như thế
chẳng dứt.
64. Do sự liên kết dắt giây:
- Theo chiều xuôi từ vô minh kể xuống
đến lão tử, thấy
được hướng ven bờ vị lai;
- Theo chiều ngược, kể từ Lão tử lộn trở lên
đến vô minh, thấy hướng
ven bờ quá khứ.
65. Do phân biệt nhân duyên thế gian, xuất thế gian:
- Mười hai nhân duyên từ vô minh
đến Lão tử
đều là nhân duyên thế gian;
- Khổ, niềm tin, hỉ, lạc, định,
tri kiến như thật nhàm chán, ly dục, giải thoát là những
nhân duyên xuất thế gian.
66 và 67. Do 20 hành, và do sự tương nhiếp: Luận
văn nêu các
điểm quá thâm sâu, khó hiểu, nên
chẳng dám ghi chi tiết vào Dàn bài nầy.
III. Kết Luận: Chẳng thấy Phần Kết luận trong Luận văn,
có lẽ đến hết Chi 2, mới có đoạn kết chăng?
084. Tìm hiểu nghiã chữ khó trong Chi 1, Ph.11
Phương tiện: Phương là phương pháp; Tiện là tiện
dụng; Phương pháp thì tổng quát, còn phương tiện thì riêng biệt. Thí
dụ: muốn cho người nghe hiểu một sự việc, ta dùng phương pháp giải
thích, để cắt nghiã; nhưng có
nhiều cách cắt nghiã, hoặc dùng lời nói, hoặc dùng hành
động, cử chỉ, việc làm mà chỉ cho
người nghe thấy và hiểu, đó là dùng
các phương tiện lời nói, hay hành
động để dạy cho người kia hiểu.
Ở đây, Luận văn nêu ra Năm
Phương tiện: Ấm, Nhập, Giới, để
giảng cho người nghe biết về thân phận con người, nơi thân
tâm gồm có những gì, các yếu tố phối hợp nhau cách nào, liên hệ với nhau
ra sao, v.v. Và dùng phương tiện Nhân duyên
để chỉ cho thấy mọi sự việc đều do
nhân duyên mà có, chớ chẳng phải do ngẫu nhiên hay số mạng
mà có, cũng chẳng phải do một đấng Toàn
năng nào sắp
đặt trước buộc ta phải tuân theo. Nếu hiểu rõ
được cả Năm
Phương tiện Chi 2 sẽ nói nốt đến
Phương tiện các Thánh đế
con người mới cảm thấy mình có sẵn tự do, tự mình cởi bỏ mọi ràng buộc
mà sống được tư tại và an lạc.
Đó là các Phương tiện giúp ta
theo đúng con
đường giải thoát vậy.
Ấm: nghiã gốc của chữ Ấm là tụ họp nhau thành một một
nhóm. Còn được gọi là uẩn,
có thêm nghiã là che mờ. Vậy ấm hay uẩn là những tập hợp
của nhiều thứ hoặc cùng loại, hoặc khác loại, hợp chung với nhau, tác
động lẫn nhau, vì thế khó thấy
được rõ các thành phần, các yếu tố bên
trong.
Nơi thân tâm con người có năm ấm: sắc
ấm thuộc phần vật chất, tức là phần thân thể; còn bốn ấm kia,
thọ ấm, tưởng ấn, hành ấm và thức ấm thuộc về phần tinh thần, tức
là tâm.
Trong Luận văn, phần giải thích về các ấm
rất đầy đủ.
Nhập: nghiã gốc là vào, nhập vào trong; Luận văn
ghi có 12 nhập, gồm có sáu căn:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, cùng với sáu trần: sắc
(= màu sắc), thanh, hương, vị, xúc và pháp (= sự vật). Sao
gọi chúng là nhập? Vì chúng xuyên vào tâm, khiến ta cảm thọ,
suy nghĩ, hành động, hiểu biết đến hình
ảnh, bóng dáng của chúng đang rọi lên
màn ảnh tâm.
Giới: nghiã gốc là phạm vi, ranh giới, lãnh vực. Thí dụ như
nhãn giới có nghiã là lãnh vực mà mắt ta có thể thấy
được, tức là vật
đối tượng phải ở phiá trước, chẳng
xa quá; còn nếu ở phía sau, hay cách tường, hoặc ở xa, thì vật
đối tượng
đó nằm ngoài nhãn giới của ta.
Nhân duyên: Xin xem lại các trang 446 và 516. Ở
đây, Nhân duyên Phương tiện có
nghiã là dùng các nhân và duyên để
giải thích sự sống, sự tái sanh, sự luân chuyển trong vòng Luân
hồi. Cuộc sống của con người do Nhân duyên mà có, chớ chẳng
phải do mạng số, hay do một bực Toàn năng
nào tạo ra và ban cho con người. Hiểu
được Phương tiện Nhân duyên nầy, tránh
được sự mê tín, dị
đoan, biết rõ vận mạng mình nằm
trong tay mình, bởi hành nghiệp của mình mà phải sống như thế nầy,
thế kia, chớ chẳng phải do bất cứ lý do nào khác cả. Lại cũng hiểu thấu và
thông đạt được rằng thân tâm
nầy do bốn đại, năm uẩn hợp nhau mà
thành, sẽ có lúc sẽ tan rả, nên chẳng cố chấp vào thân, phá
được ngã kiến.
Sắc chất: Vật chất; những chất do bốn
đại cấu thành.
Nhãn nhập: Nhãn = mắt, thấy; Nhập = vào. Nhãn nhập
là những gì tâm nhìn thấy, xuyên qua mắt.
Nhĩ nhập: Nhĩ = tai, nghe; Nhập = vào. Nhĩ nhập
là những gì tâm nghe được xuyên
qua lỗ tai.
Tị nhập: Tị = mũi, ngữi; Nhập = vào. Tị nhập
là những gì tâm cảm được về mùi, xuyên
qua mũi.
Thiệt nhập: Thiệt = lưỡi, nếm; Nhập = vào. Thiệt
nhập là những gì tâm cảm được về vị nếm,
xuyên qua lưỡi.
Thân nhập: Thân = thân thể, sờ chạm; Nhập = vào.
Thân nhập là những gì mà tâm cảm nhận
được về cảm xúc trên da, xuyên qua thân thể.
Nữ căn: Nữ = phái nữ,
giống cái; Căn = gốc. Nữ căn
là vác bộ phận sanh dục của phái nữ.
Nam căn: Nam = phái nam,
giống đực. Căn
= gốc. Nam căn là
những bộ phận sanh dục của phái nam.
Mạng căn: Mạng = cuộc
sống; Căn = gốc. Mạng căn
là nguồn sống.
Thân tác: Thân = thân thể; Tác = làm,
động tác, hành
động. Thân tác là những việc
làm của Thân.
Khẩu tác: Khẩu = miệng; Tác = làm. Khẩu tác là
lời nói
Hư-không giới = Hư-không, không gian, khoảng trống không bao trùm
muôn vật. (Giới = phạm vi, lãnh vực)
Sắc nhẹ, nhuyễn, kham: tánh chất của các sắc chất nầy khi
nhẹ, khi mềm dẽo, mịn màng, khi chịu đựng (=
kham) được sự nóng, lạnh, hay
phân tán.
Nhãn châu: Nhãn = mắt; Châu = trái châu, hình tròn,
lóng lánh. Nhãn châu tức là thuỷ tinh thể, con ngươi.
Huyết thanh = chất máu loãng, nhiều nước hơn máu.
Phái tính: Phái = giống cái, giống
đực; Tính =
đặc tánh. Phái tính là các bộ
phận đặc biệt riêng của phái nam, hay
phái nữ.
Đoàn thực: Xem lại trang 344, Ph. 2
Xứ sắc: theo Luận văn, đó là
các chất ngủ yên hay bất động, còn gọi
là sắc thùy miên (thùy miên là ngủ).
Nhãn thập: Nhãn = mắt thấy; Thập = mười. Nhãn thập
là mười yếu tố vi tế có mặt trong việc thâu nhận màu sắc vào tâm
để biết được bằng nhãn thức. Cùng cách
nầy mà hiểu nghiã của các danh từ chuyên môn: nhĩ thập, tị thập, v.v.
Sát-na: đơn vị thời gian rất ngắn,
bằng i phần ngàn của giây; phiên âm chữ Phạn Ksana.
Nhứt= một; Nhị = hai; Tam = ba;Tứ = bốn;
Ngũ= năm
Lục = sáu; Thất = bảy; Bát = tám; Cửu = chín;
Thập = mười.
Bán nam bán nữ: Bán = phân nửa; Nam= giống
đực; Nữ = giống cái. Người
bán nam bán nữ chẳng thuộc một phái tính nào, các bộ phận sanh dục
chẳng rõ rệt là nam hay nữ.
Nghiã rốt ráo: nguyên văn trong
Bộ Luận là tất cánh nghiã, tức là nghiã xong xuôi, hoàn mãn.
Hữu vi: Hữu = có; vi = làm, tạo tác. Hữu vi là
những sự vật do tạo tác mà có, phải chịu sự biến
đổi theo các điều kiện thời gian, thời tiết,
v.v.; thí dụ như cái nhà, bàn ghế.
Trái nghiã với Vô vi là những sự vật chẳng phải do sự tạo
tác mới có, luôn luôn có sẵn đấy, và
chẳng hề biến đổi, như Chơn lý,
Niết-bàn...
Bất định: Bất = chẳng;
Định = xác
định, cố định. Bất
định có nghiã là chẳng xác
định rõ, hoặc có thể dời
đổi được.
Hữu lậu: Hữu = có; Lậu = rỉ chảy. Hữu lậu là
còn các phiền não từ bên trong rỉ chảy, bộc lộ ra ngoài. Trái nghiã với
Vô lậu, là chẳng còn phiền não nữa. Giới,
Định, Huệ
được gọi là ba môn học vô lậu,
vì nhờ đó mà tận diệt
được các phiền não, các lậu hoặc. Xem
lại trang 371, Ph. 4.
Xuất ly, Xả ly: Xem lại trang 416, Ph. 8.
Ly ái: Ly = lià xa; ái = tham ái,
đam mê. Ly ái là lià sự
đam mê. Chữ ái ở
đây có nghiã chẳng
đặng tốt, vì ham mê.
Điên đảo: Xem lại trang
446, Ph. 8.
Tịnh = sạch sẽ. Trái nghiã với Bất tịnh, chẳng sạch.
Bốn phần của đạo Tu-đà-huờn:
đó là (1) diệt tham; (2) bỏ thân kiến,
(3) bỏ giới cấm thủ, tức là bỏ các tục lệ dị
đoan; (4) bỏ sự nghi ngờ về Chánh pháp.
Cái = che đậy, cái nấp úp lên
trên. Ở đây, trang 243, chữ cái
chỉ các sự ác dữ che mờ tâm trí, đẩy ta theo
đường xấu
Sân khuể = Sân hận = giận hờn.
Kiến thủ: Kiến = ý kiến, tư tưởng; ở
đây, trang 244, là tà kiến, ý
tưởng sái quấy; Thủ = chấp thủ, giữ chặt
điều quấy
Điệu = Trạo = giao động, vụt
chạc, chẳng tề chỉnh.
Chiên-đà-la: phiên âm chữ Pàli
Candàla, giai cấp hạ tiện ở xả hội Ấn
độ cũ.
Tấn tốc: Tấn = tiến tới; Tốc = nhanh chóng. Tấn
tốc là sự việc xảy ra nhanh chóng.
Hậu phần: Hậu = sau; Hậu phần là phần sau.
Sa-môn: Xem lại trang 343, Ph. 2.
Mô dạng: hình dáng.
Nghiã câu: Nguyên văn là cú
nghiã, cú là câu. Đúng ra là
nghiã chữ, nghiã của danh từ.
Chánh trì: Chánh = chánh yếu, quan trọng nhứt; Trì =
gìn giữ. Câu "Thân có nghiã là chánh trì" có ý muốn nói,
thân là nơi chánh yếu để giữ gìn và
kham chịu, làm nơi nương tựa.
Chú thuật = bùa chú.
Hữu phần tâm: Hữu = hiện hữu, dòng
đời, cuộc sống. Về nghiã của hữu
phần tâm, cũng như các biến chuyển khác của Tâm, Luận văn
giải thích và cho thí dụ rất rõ ràng.
Chuyển kiến tâm: Chuyển = truyền
đi; Kiến = thấy.
Sở thọ tâm: Sở = nơi; Thọ = cảm nhận.
Linh khởi tâm: Linh = khiến, sai, dục; Khởi = nổi
lên.
Tốc hành tâm: Tốc = mau chóng; Hành =
đi
Bỉ sự tâm: Bỉ = kia, đó;
sự = việc.
Thuyết hoá: Thuyết = nói, giảng; Hoá = hoá
độ, chuyển hoá, làm cho có sự thay
đổi tốt.
Duyên: Trong danh từ Nhân duyên, chữ duyên có nghiã
là các điều kiện phụ thuộc làm thay
đổi; còn chữ Nhân là nguyên
nhân chánh yếu; nếu chẳng có đủ
Nhân và Duyên thì kết quả chẳng thể xảy ra
được.
Dùng như một động từ, duyên theo
có nghiã là tùy vào việc trước mà thay
đổi theo. Như nói Vô minh duyên Hành, có nghiã là vì có
Vô minh ở đó, nên Hành khởi
lên. Xin lưu ý, chẳng phải Vô minh làm sanh ra Hành, nhưng
vì có Vô minh ở sẵn đó, cho nên
Hành mới phát khởi lên; như thế đó,
mới gọi là Vô minh duyên Hành.
Danh-Sắc: Xem lại trang 496, Ph.8
Sáu cõi: Nguyên văn là chư
thú, có nghiã là các nẻo, các hướng, tức là sáu cõi Luân hồi:
điạ ngục, ngạ qủi, súc sanh, người, A-tu-la,
Trời.
Mặc duyên: Mặc = im lặng, trầm lặng. Mặc duyên là
duyên ngầm, ẩn kín bên trong.
Lậu hoặc: tên khác của chữ phiền não. Lậu = rỉ chảy; Hoặc
= điều sai lầm.
Lá ta la: lá cây ta la bên Ấn
độ, lá màu xanh đọt chuối, nhỏ cỡ bàn
tay. Đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn ở
rừng Ta la (Ta la song thọ).
Thú tướng: Thú = hướng, nẻo; Tướng =
điềm báo trước. Thú tướng là
điềm báo trước sẽ tái sanh vào nẻo
nào.
Hậu hữu: Hậu = sau; hữu = cuộc sống. Hậu hữu
là kiếp tái sanh về sau.
Khiên = dắt giây, lôi kéo theo sau.
Cộng nghiệp: Nghiệp chung, như các công dân trong một quốc gia chịu
chung cảnh hưng phế của cả nước.
Hoá sanh: sanh chẳng qua trung gian bào thai, sanh thẳng vào một
cảnh giới khác.
Tương nhiếp: Tương = chung; Nhiếp = bao gồm vào.
085. Suy gẫm về Chi 1, Ph. 11: Năm
Phương tiện:
1) Quan niệm sai lầm về con người: thân kiến.
Thân kiến là sự cố chấp vào thân tâm nầy, xem
đó chính là Ta.
Đây là một tà kiến, vì bị vô minh
che lấp mà tâm trí vướng phải, kể từ ngày biết
ăn biết nói cho đến nay, rất khó mà
dẹp bỏ hẳn.
Vì tâm trí còn mê mờ, nên con người cứ tưởng rằng thân nầy, tâm nầy
chính là Ta, chẳng biết rằng khi phân tách rõ ràng ra thì thấy thân
tâm đó chẳng qua là sự tập hợp của
năm ấm: sắc ấm là phần vật chất
thuộc về thân; còn các ấm:thọ, tưởng, hành, thức ấm là phần
tinh thần thuộc về tâm. Phân tách như thế, chẳng thấy có yếu tố
nào là Ta, là Ngã cả; thế mà phàm phu lại cho rằng chính
Ngã, chính Ta đang hoàn
toàn làm chủ, ngự trị trong thân tâm đó.
Chủ à? Thân thấp lùn, "chủ" nó muốn nó cao hơn lên
một chút có được không? Ngự trị à?
Khi đau ốm nặng sắp lià
đời, cái Ta, cái Ngã còn
có ngự trị được nơi thân tâm năm ấm nầy nữa
không, hay là bị các nhân duyên phân tán
đến làm tan rả sự kết hợp của thân tâm
năm ấm?
Luận văn đã phân tách rất tỉ mỉ
năm ấm, sự phối hợp, cùng sự tan
hoại của chúng, chính là nhằm vào mục đích
chỉ rõ trong thân tâm nầy chẳng có một chúng sanh nào
cả, cũng chẳng hề có số phần, thọ mạng nào
đã kéo dài mãi cuộc sống sướng ít mà
khổ thật nhiều nầy đây.
Bảo rằng giữ thân kiến là điều sai
lầm, vẫn còn chưa đủ để khiến hành
giả ra công tu tập để loại bỏ tà kiến
đó. Phải chỉ cho thấy, và chính
hành giả nhìn thấy, bằng tai, bằng mắt, bằng tâm rằng thân tâm nầy
chẳng phải là Ta, rõ ràng chẳng chẳng còn chút nghi ngờ nào, bấy
giờ mới có cơ mà mong bỏ được sự chấp thủ cố
hữu vào thân kiến, hay ngã kiến.
Đã thấy rồi,
đã thể nghiệm rồi, cũng vẫn phải còn
năng quán tới, quán lui về năm ấm,
cho đến khi nào, thân tâm nầy
đang chịu khổ, chẳng còn mở miệng than
thở: Ta đây khổ quá! Thân tâm
nó khổ, chớ có Ta nào vô đó mà
chịu khổ thế cho thân tâm đâu?
2) Vì bám níu mà chịu Khổ mãi ở cảnh Luân hồi:
Ai ai cũng thích được sung sướng,
an lạc, có ai đâu lại đi ham sự đau khổ, đầy đoạ tấm thân? Nhưng thích
được sướng là một lẽ, còn bám níu mãi vào sự
đam mê lại là một lẽ khác. Ai cũng
muốn mắt nhìn sắc đẹp, tai
nghe lời dịu dàng, mũi ngữi hương thơm, lưỡi nếm vị
ngọt, thân sờ vật trơn láng. Đồng ý!
Nhưng cố chạy theo sắc đẹp, vượt núi trèo non
để tìm món ngon vật lạ, mà sự hưởng
thụ chỉ có được trong chốc lát, sao chẳng
biết đang khổ công tốn thì giờ theo
đuổi, cái sướng có đến cũng đâu bù vào nỗi nhọc tâm lao trí
đi tìm.
Sự bám níu có nhiều hình thức, từ sự bám níu nhỏ nhặt, như
ăn bát phở đòi có cho
được miếng ớt cay, qua sự đòi hởi các
tiện nghi vật chất phù phiếm như mặc áo quần tơ lụa,
đến các xa hoa loà lẹt như nước hoa
đắt tiền, phấn son trang điểm, vô tình
đã kết buộc khiến cho thân phải hùng
hục lo "đi cày"
để có đủ phương tiện tiền bạc mà cung
phụng, tâm phải lo lắng, đua đòi chạy
theo cho kịp thời trang để hãnh diện.
Sao chẳng tự hỏi, nếu đem tấm lòng bám
chặt vào các điều hào nhoáng
đó mà ích lợi chỉ có trong nhứt thời,
để nghĩ đến tấm lòng kiên trì, bền chí
theo đưổi một mục tiêu chánh
đáng hơn: giải thoát thân tâm mình ra
khỏi các ràng buộc của thói đời còn
tranh hơn thua nhau từng chút.
Bắt nguồn từ lòng tham không đáy, sự bám
níu thể hiện dưới muôn hình vạn trạng trong cuộc tranh danh,
đoạt lợi nơi cuộc sống xô bồ ở
thế tục. Có một lại muốn thêm được mười cho
chẵn chục, leo lên được bực thang danh
vọng đầu tiên rồi, còn muốn vươn tới tột
đỉnh, rồi vẫn chẳng chịu cho là
đủ, cứ muốn thêm, thêm mãi, vô cùng.
Sao chẳng biết rằng, dầu danh cao đến
bậc nào rồi cũng có lúc tàn phai, sao chẳng hiểu cho dầu tiền
rừng bạc biển rồi cũng có ngày sụp
đổ, cháy túi cạn khô! Các thú vui còn mang nhiều phiền não, loé lên
một chốc, rồi tàn lụn theo thời gian. Chỉ có niềm vui an lạc, tâm trạng
thơ thới, xem mọi cám dỗ của cuộc đời như mồi
như lưới, mới đưa tới nơi giải thoát: đặt gánh nặng bám níu trên
vai xuống.
Trong khi phân tách các Phương tiện Ấm, Nhập, Giới, Luận văn
đã nêu rõ các mối ràng buộc thân tâm, từ bên ngoài hay sẵn có bên
trong, đều do sự bám níu cố hữu
của con người vào các thú vui hữu lậu, và con
đường giải thoát chính là sự tự mình
cởi bỏ lấy mình: thôi, chẳng bám níu vào
đâu nữa, để kiên trì giữ
vững Bồ-đề tâm.
3) Phương tiện Nhân duyên chỉ rõ thân phận con người
tùy thuộc vào chính mình.
Trong khi giáo lý các tôn giáo khác đã
vấp phải chỗ tắc tị khi cố tìm cách để giải
thích sự tạo thành thế giới, với một vị Thượng
đế toàn năng,
thì Luận văn dựa theo giáo lý nhà
Phật đã giải thích thân phận con người
sanh hoạt trong thế giới, bằng những lý lẽ cụ thể, rõ ràng, có thể kiểm
chứng được theo các tiêu chuẩn khoa
học. Đó là Lý thuyết Mười Hai Nhân
Duyên, một lý thuyết đặt căn bản trên
sự quán sát khách quan, chẳng dựa vào các lập luận mơ hồ, vu vơ,
đầy tánh cách võ
đoán. Thuyết Mười hai Nhân Duyên
có một tầm quan trọng bực nhứt vì đã
vạch rõ thân phận con người, do đâu mà
có, vì sao phải chịu cảnh Khổ triền miên trong vòng sanh tử Luân hồi, và
làm cách nào để thoát ra khỏi, để được
giải thoát và an lạc vĩnh viễn. Vì lý do
đó, người học giáo lý nhà Phật phải
đặt hết sự chú tâm và lòng bền chí
để tìm hiểu,
để thông suốt, để thực hành, và
để đạt cho được mục tiêu cuối cùng là
con đường giải thoát.
Lý Mười hai Nhân Duyên được trình
bày trong Luận văn, từ dễ đến khó, từ giản dị
rõ ràng, có thể nghiệm thấy được, kiếm
chứng được, cho đến chỗ vi diệu, siêu thoát, vượt khỏi xa sự hiểu
biết thông thường của phàm phu. Và để cho
người thường có thể vươn lên từ từ đến
chỗ rốt ráo, Luận văn đã nêu ra các bước tìm hiểu, tuy khó khăn,
nhưng với nỗ lực, bền chí và với Trí Huệ từ từ
được khai sáng trên con
đường tu tập, hành giả, hoặc trong
đời nầy, hoặc vào các
đời sau, tùy theo căn
cơ chậm lụt hay bén nhạy của mình mà học tập, mà thấm nhập vào và
rồi sẽ hưởng dụng được con đường thênh
thang giái thoát đang mở rộng.
Lý thuyết Mười hai Nhân Duyên rất giản dị, có thể tóm tắt thành
hai câu ngắn gọn như sau:
Vì cái nầy có, nên cái kia có theo;
Vì cái nầy diệt, nên cái kia diệt theo.
Lý Mười hai Nhân duyên, dùng các danh từ chuyên môn hơi khó hiểu,
nhưng Luận văn đã giải thích vừa rõ
ràng, vừa tỉ mỉ, để vạch rõ sự liên
hệ tương tục giữa các Nhân Duyên.
Nhưng Lý Mười hai Nhân Duyên rất cao siêu, nên Luận văn
đã giải thích chỗ cao siêu ấy bằng sự vận hành của mỗi nhân
duyên, mà chỉ có bực Thánh mới thông hiểu rõ
được; phàm phu chúng ta chỉ nên học qua sự vận hành
đó, rồi với thời gian tu tập, Trí Huệ càng
khai sáng, mới mong tự mình thấy rõ, thông suốt
được và kiểm chứng lại
được. Nếu tạm gát qua các chỗ cao siêu,
sự liên hệ tương tục giữa các Nhân duyên vẫn có thể nắm giữ
để hiểu được ít nhiều, hay nếu căn cơ bén
nhạy, thấy được sâu xa hơn. Điều quan trọng, khiến cho vòng tròn
Mười hai Nhân Duyên cứ xoay vần mãi chẳng dứt là cả mười hai nhân duyên cứ
tiếp tục nhau vận chuyển, khép kín lại, chẳng còn có ngõ nào thoát ra
khỏi. Điều quan trọng thứ nhì là phải
tìm cách phá vỡ một hay hai nhân duyên, để
cho vòng tròn bị gãy đứt, khiến cuộc
Luân hồi phải ngừng quay, và đưa ta ra
khỏi vòng sanh tử, tử sanh chẳng dứt.
Có ba nhân duyên, một khi được bỏ dứt
khoát, khiến chấm dứt được nỗi khổ đau triền miên của Luân hồi.
Đó là: vô minh, ái và thủ.
Sự vô minh là sự ngu tối, nhất đán
trong một thời kỳ chẳng thể xoá bỏ ngay, vì còn cần
được Trí Huệ từ từ khởi lên trong khi
tu tập soi sáng thêm. Ái là sự tham ái, sự
đam mê, vì thích vì ham mà có tham
ái; tuy tham ái tuỳ thuộc vào lòng mình, do mình muốn hay hết
muốn mà ra, nhưng rất khó mà dẹp ngay được.
Tại sao? Vì có năm giác quan đòi
hỏi được thoả mãn, như
đã có xét qua, mắt
đòi nhìn sắc
đẹp, tai muốn nghe lời nói dịu
dàng, êm ái, v.v. Chỉ có thủ là bám níu chặt chẽ vào
điều ưa thích là ta có thể gở ngay ra
được. Thấy sắc đẹp, ưa nhìn thì cứ
nhìn, nhưng đừng có quá ham mê. Hễ chỉ
nhìn mà chẳng say đắm, thì thủ
bị gạt ra ngoài. Do đó, chẳng cần phải dài
dòng, cứ nhằm ngay chỗ thủ, chỗ bám níu mà
đánh vào,
đánh mạnh buổi đầu, về sau, chỉ cần một chút nhẹ tay cũng thoát được sự
bám níu. Thủ mà bị phá, vòng Luân hồi quay theo Mười hai
Nhân Duyên bị đứt khúc, có kẽ hở để thoát
rồi; bấy giờ còn chút nghiệp dư phải trả xong nợ, là thênh
thang bước vào con đường giải thoát
của Niết-bàn.
Việc tu hành, tóm gọn lại, chỉ có thế, nhưng chẳng biết khoảng
đời còn lại của mình có
đủ thời giờ để thực hiện cho hoàn mãn
chăng?...
4) Việc học tập Lý thuyết Mười Hai Nhân Duyên ngày nay là
để gieo duyên cho
đời sau giải thoát.
Lý thuyết Mười Hai Nhân Duyên đã
được Luận văn trình bày tỉ mỉ và cặn
kẽ, thế mà việc tìn hiểu và suy gẫm như
đã viết trong những dòng trên
đây, quả thực là vừa thiếu sót, vừa
non nớt. Điều đó chỉ có thể trách cứ nơi căn
cơ còn quá chậm lụt của người viết mà tâm trí vẫn còn bị che mờ,
khi Trí huệ chưa được sự học tập khai sáng rõ
thêm. Nhưng người viết chẳng vì sự ngu tối của mình mà ngưng hẳn ngang
đây việc tìm hiểu, học tập và suy gẫm,
cứ nghĩ rằng mỗi một cố gắng nho nhỏ của mình cũng
đóng góp vào việc thành công rực rỡ
cho đời sau. Vì thế, chỉ mong người
đọc thương tình, nghĩ
đến thiện chí của kẻ viết mà xí xoá
cho tội liều lĩnh, dám luận bàn đến một áng
văn sở dĩ được sáng tác là để dành
riêng cho các bực tu hành đã
đi xa trên
đường Đạo. Nếu cơ duyên may mắn ở
đời sau được thuận tiện để góp phần vào,
người viết xin thiết tha tâm nguyện một điều:
nguyện sẽ để trọn đời học tập
và thực hành đúng theo lời dạy
của Đức Thế tôn.
-----*-----
Phần Tìm Hiểu
Phẩm 11:
Năm
Phương tiện
Chi 2:
Thánh
đế Phương tiện.
Chuyển tiếp: Phẩm 11: Năm
Phương tiện, gồm có hai Chi. Trong Chi 1vừa qua, Luận văn
đã trình bày các Phương tiện Ấm, Nhập, Giới và Nhân
Duyên, là các phương tiện xét rõ về bản thân con người, thân phận và
hoàn cảnh.
Trong Chi 2 này, Luận văn trình bày
nốt Phương tiện thứ năm, nói về các Thánh đế.
Hiểu rõ và thi hành đúng theo các
Thánh đế nầy, Trí Huệ khởi lên, làm sáng tỏ thêm con
đường giác ngộ và giải thoát,
theo đúng mục tiêu của
Đạo Phật.
086 Dàn bài của Chi 2, Phẩm 11.
I. Nhập đề: Chẳng
có Phần Nhập đề, vì Chi 2 coi như
đang tiếp tục Chi 1, luận bàn về Năm
Phương tiện để làm khởi lên
Trí Huệ nơi hành giả.
II. Thân bài: Có năm
phần rõ rệt, bốn phần đầu nói về
Bốn Thánh đế, còn phần
thứ năm chỉ rõ các cách tìm
hiểu thêm về các Thánh đế đó.
Thánh đế: Thánh là bực Thánh,
chứng được cõi vô sanh, giải
thoát khỏi vòng Sanh tử Luân hồi; đế
là Chơn lý.
Bốn Thánh đế là: Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế và
Đạo đế.
A. Khổ Đế:
1. Có bảy sự khổ: (1) sanh, (2) già, (3) bịnh, (4) chết, (5) oán
ghét mà phải gần nhau, (6) thương yêu mà phải xa nhau, (7) cầu chẳng
được. Tóm lại, năm
thọ ấm phải chịu sự Khổ.
2. Thế nào là năm thọ ấm?
3. Thế nào là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ?
B. Tập đế: Còn gọi là
Khổ Tập thánh đế, tức là các
nguyên nhân gây ra nỗi Khổ. Nguồn gốc của sự Khổ là khát ái.
1. Vì có khát ái, nên khiến cho phải tái sanh trở lại
mãi.
2. Vì khát ái cùng với tham dục
đồng khởi lên.
3. Ba hình thức: dục ái, hữu ái, bất hữu ái. Dục ái là sự tham
ái nơi cõi dục giới; hữu ái là sự tham ái do thường kiến thúc
đẩy, muốn được sống (= hiện hữu)
mãi; bất hữu ái là sự tham ái muốn chẳng còn phải hiện hữu nữa,
đồng khởi lên với
đoạn kiến (= tư tưởng nghĩ rằng chẳng còn
có đời sau gì cả).
C. Diệt đế: Còn gọi là
Khổ Diệt thánh đế, tức là sự tận
diệt các ngưồn gốc gây ra sự Khổ.
1. Tận diệt sự khát ái, xa lìa sự khát ái
được giải thoát.
2. Chứng đắc được vô sanh, chẳng phải tái sanh nữa.
D. Đạo đế: Còn gọi là
Khổ diệt đạo thánh đế, tức là
tám yếu tố của Bát Chánh Đạo,
con đường đưa đến sự tận diệt mọi Khổ não.
1. Bát Chánh Đạo gồm có:
Chánh kiến: thông suốt bốn Chơn lý Nhiệm mầu, tức là Bốn
Thánh đế; lại nữa, biết rõ ràng
về Niết-bàn;
Chánh tư duy: suy nghĩ về ba
điều thiện(sơ thiện, trung thiện, hậu thiện), và giác ngộ về
pháp Niết-bàn;
Chánh ngữ: xa lìa bốn lỗi lầm về lời nói (nói dối, nói thô
ác, nói lưỡi đôi chiều, nói vô nghiã),
bỏ hẳn tà ngữ;
Chánh nghiệp: lìa bỏ ba hành nghiệp xấu ác: về thân, miệng và
ý; dứt bỏ hẳn tà nghiệp;
Chánh mạng: lià bỏ các nghề chẳng chơn chánh, dứt hẳn tà
mạng;
Chánh tinh tấn: theo đúng bốn
chánh cần: (1) việc ác chưa khởi, chẳng cho khởi; (2) việc ác đã
khởi, cố tiêu diệt; (3) việc thiện chưa khởi, khiến khởi lên; (4)
việc thiện đã khởi, làm tăng
trưởng thêm; dứt hẳn tà tinh tấn;
Chánh niệm: tu tập bốn niệm xứ, luôn nhớ nghĩ
đến Niết-bàn;
Chánh định: tu tập bốn
cấp Thiền; tu tâm sao cho chuyên nhứt luôn luôn hướng về Niết-bàn.
2. Bát Chánh Đạo và 37 phẩm
Trợ Đạo (Bồ-đề pháp)
Chánh kiến bao gồm huệ căn,
huệ lực, huệ lực như ý túc, trạch pháp giác phần;
Chánh tinh tấn bao gồm tinh tấn lực, tinh tấn như ý túc,
tinh tấn giác phần, tứ chánh cần;
Chánh niệm bao gồm niệm căn,
niệm lực, niệm giác phần, khinh an giác phần, tứ niệm xứ;
Chánh định bao gồm
định căn, định lực, định lực như ý
túc, tín căn, tín lực, định giác phần, hỉ giác phần, khinh an giác
phần, xả giác phần.
E. Những cách tìm hiểu thêm về Tứ Đế:
1. Tại sao chỉ nói có bốn Thánh đế, mà
chẳng nói có 3 Thánh đế hay 5 thánh đế?
Đáp: Nói bốn Thánh đế, vì
có hai cặp Nhân Quả:
- Nhân Quả thế gian: Khổ đế là
Quả ở thế gian; Tập đế là Nhân ở
thế gian;
- Nhân Quả xuất thế: Diệt đế là
Quả xuất thế
Đạo đế là Nhân xuất thế.
2. Nói bốn Thánh đế, vì có bốn
việc cần làm:
- Khổ đế cần phải biết
rõ;
- Tập đế cần phải
đoạn trừ;
- Diệt đế cần phải chứng
đắc;
- Đạo đế cần phải tu tập.
3. Theo nghiã chữ mà hiểu thêm về Bốn Thánh
đế:
- Thánh là do bực Thánh chỉ dạy, và thi hành theo
đúng hoàn toàn thì trở nên bực
Thánh;
- Đế là như nghiã
(= nghiã đúng như thế), tức là
Chơn lý tuyệt đối;
- Khổ là phải chịu hậu quả khổ
đau;
- Tập là nguyên nhân, nguồn gốc gây ra Khổ;
- Diệt là tận diệt cho hết, chẳng còn gốc rễ;
- Đạo là con
đường cho thấy đệ nhứt nghiã.
4. Theo tướng khởi lên mà hiểu thêm về Tứ
Đế:
- Khổ là tướng của sự đau
đớn, âu lo, hữu vi
- Tập là tướng của sự kết tụ, dính mắc;
- Diệt là tướng của sự xuất ly, vô vi;
- Đạo là tướng của
sự đưa tới nơi, nương tựa.
5. Theo thứ lớp thuyết giảng, mà hiểu thêm về Tứ
đế:
- Khổ đế
được nói đến trước, vì cụ thể,
dễ thấy; kế nói đến Tập
đế vạch rõ do
đâu mà bị khổ; rồi giảng
đến Diệt
đế là sự an lạc sau khi diệt
hết khổ; sau cùng chỉ cho cách phải làm sao cho hết khổ, tức là
Đạo đế.
- Cũng như cách chẩn bịnh của lương y giỏi: trước
giảng Khổ đế là
đoán bịnh trạng,
đang bị bịnh như thế nào;
kế nói đến là Tập
đế là căn
bịnh, do đâu mà mắc
bịnh; rồi tới Diệt đế là
phục hồi sức khoẻ, khi trừ dứt xong căn
bịnh; sau cùng, Đạo đế
là thuốc thang để trị lành
căn bịnh.
6. Do nói tóm lược mà hiểu thêm về Tứ
đế:
- Sanh là Khổ: Sanh ra là Khổ
đế; khiến cho phải sanh ra
là Tập đế; chấm dứt sự
tái sanh là Diệt đế; con đường chấm dứt
tái sanh là Đạo đế.
- Phiền não là Khổ: nơi có phiền não là Khổ
đế; gây ra phiền não là
Tập đế;
đoạn trừ các phiền não là
Diệt đế; phương tiện
đoạn trừ phiền não là
Đạo đế.
- Dẹp bỏ các tà kiến: Khổ đế
đóng chặt cửa thân
kiến; Tập đế bế cửa
đoạn kiến; Diệt đế khép
cửa thường kiến; Đạo đế
khoá cửa tà kiến.
7. Dùng thí dụ để hiểu thêm
về Tứ đế:
- Khổ đế như cây có
thuốc độc;
Tập đế như hột
giống của cây độc đó;
Diệt đế như
đốt cháy cây độc đó;
Đạo đế như lửa dùng để
đốt cây độc đó.
- Khổ đế như bờ bên
nầy còn đau khổ;
Tập đế như lũ lụt
gây đau khổ;
Diệt đế như bờ bên
kia, hết đau khổ;
Đạo đế như chiếc thuyền
đưa sang bên kia.
- Khổ đế như gánh nặng
trên vai;
Tập đế như
đang vác gánh nặng;
Diệt đế như
đặt gánh nặng xuống;
Đạo đế như phương tiện để
trút gánh nặng.
8. Do sự phân biệt bốn loại Đế
(= Chơn lý) mà hiểu thêm về Tứ thánh
đế:
- Ngữ đế là lời nói
chơn thật, đúng với Chơn lý
- Các các đế là
các kiến văn, các sự hiểu biết đúng
theo Chơn lý;
- Đệ nhứt nghiã đế
là Chơn lý tuyệt đối, cái
nghiã đúng với sự thật vào
bực nhứt;
- Thánh đế là Chơn lý tu
hành của bực Thánh.
9. Do sự đồng nhứt về nghiã
của Tứ Thánh Đế, mà hiểu thêm
về Tứ Đế, vì mỗi Thánh
đế đều có
- Nghiã đế: chứa
đựng nghiã
đúng Chơn lý;
- Nghiã như: là như thế, chẳng thể
đổi khác;
- Nghiã pháp: đều chứa
pháp tu để thực hành
- Nghiã không: bản thể rỗng rang, trống vắng
10. Do sự phân biệt thành Thế đế và
Xuất thế đế, mà hiểu rõ thêm
về Tứ đế: (Thế = thế gian).
- Thuộc về Thế đế, còn
hữu lậu, hữu vi, hữu biên, ràng buộc, che lấp, có Khổ
đế, Tập đế.
- Thuộc về Xuất thế đế,
vô lậu, vô vi, cởi mở, giải thoát, có Diệt
đế, Đạo đế.
11. Do sự liệt kê các yếu tố và do sự xếp loại thành
một loại cho đến mười
loại, Luân văn liệt kê và xếp
loại chẳng được rõ ràng, rất khó
cho ta hiểu thêm được chút gì về
Tứ đế, nên xin miễn ghi vào Dàn
bài nầy cho khỏi lầm lộn.
087. Tìm hiểu nghiã các chữ khó trong Phẩm 11, Chi 2 về Thánh
đế phương tiện.
Thánh đế: Thánh = bực
Thánh, bực đã chứng
được cõi vô sanh, nghiã là
chẳng còn phải tái sanh lại trong vòng lẩn quẩn của Luân hồi. Bốn quả vị ở
hàng Thanh văn: Tu-đà-huờn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm vì còn phải
tái sanh nên được sắp vào bực Hiền;
còn quả vị thứ tư là A-la-hán đã
tận diệt các phiền não, chứng đắc
vô sanh, nên được sắp vào hàng
Thánh.
Đế = Chơn lý tuyệt đối, chẳng
thay đổi theo không gian và thời gian. Bốn Thánh
đế: Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế và
Đạo đế còn
được gọi là Tứ
Đế hay Tứ Diệu
Đế,
được dịch là Bốn Chơn lý Nhiệm mầu.
Tứ Đế được Đức Phật Thích-ca thuyết giảng
lần đầu tiên, sau khi Ngài thành đạo ở
Bồ-đề đạo tràng, Ngài đi đến vườn
Lộc Uyển giảng cho năm anh em
ông Kiều trần như nghe, năm người nầy vốn là bạn
đạo cũ của Đức Phật. Khi nghe xong, ông Kiều
trần như chứng được quả Thánh.
Ưu bi: Ưu = lo lắng; Bi = thương cảm, thương xót.
Ưu bi là một nỗi khổ vì quá lo lắng và thương cảm.
Khổ khổ = một nỗi Khổ chồng chất thêm lên trên một nỗi Khổ khác
đang gánh chịu.
Năm thọ ấm = năm thủ uẩn =
Thọ = cảm nhận, thọ lãnh, nhận chịu; Ấm = Uẩn = sự tập hợp
chung lại của nhiều thứ cùng loại hay khác loại; khi nói ấm hay
uẩn là ý muốn nói đến sự tu hội có tánh
cách che mờ, vì có nhiều thứ nên chẳng thấy rõ
được mỗi thứ. Năm
ấm hay Năm uẩn chỉ
vào thân tâm con người; sắc ấm phần vật chất chỉ vào
thân, còn bốn ấm kia, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm
là phần tinh thần thuộc về tâm. Khi nói thân tâm năm
ấm, là muốn nói nơi thân tâm nầy chỉ có năm
ấm đó mà thôi, chẳng còn có yếu tố nào khác
để có thể chứng tỏ được rằng có một
chúng sanh, có một thọ mạng, để
bác bỏ hai tà kiến về thân kiến và ngã kiến.
Lại nữa, khi nói năm thọ ấm
(tức là năm ấm đang cảm thọ) có hàm ý
nghiã rằng, các nỗi khổ sở dĩ có khởi lên thì
đều do thân tâm năm ấm nầy phải hứng chịu. Nói cách khác, thân
tâm năm thọ ấm nầy chính là nạn
nhơn gánh lấy các nỗi khổ của cuộc đời; giả
dụ chẳng còn năm thọ ấm
đó nữa, thì Khổ phải tiêu diệt hẳn.
Còn khi nói năm thủ uẩn (tức
là năm uẩn đang được bám níu vào) có
hàm nghiã rằng, chúng sanh sở dĩ chịu nạn Khổ của cuộc sống trong Luân
hồi, là vì chúng sanh quá bám niú vào năm uẩn
đó. Sự bám níu lúc còn sống muốn thân tâm sung sướng mà chẳng
được thì khổ;
đến lúc sắp chết, càng bám níu vào
thân tâm năm uẩn, vì thế mà phải tái
sanh lại.
Xứ khổ: Xứ = nơi chốn; Xứ khổ là nơi xảy ra sự khổ,
tức là nơi thân tâm nầy.
Tự tánh khổ: Tự tánh = bản tánh riêng biệt của một ai; Tư
tánh khổ muốn nói đến từng cảnh khổ riêng
biệt khác nhau, như nhức răng
là khổ đặc biệt ở răng trên thân;
buồn lo là cõi lòng đang bị khổ; cái khổ
nhức trước có tự tánh khác với cái khổ sau về lo buồn.
Hoại khổ: Hoại = hư hoại, tiêu mất
đi; Hoại khổ là nỗi khổ gây nên
bởi sự tiêu hoại; thí dụ như thấy cuộc vui tan dần, muốn tiếp tục vui nữa
chẳng được thì là hoại khổ.
Hành khổ: Hành = hành nghiệp, những hành
động đã qua do thân, miệng, và ý tạo
nên, qua thời gian bị biến đổi theo lẽ vô
thường, nên gây ra cảnh Khổ.
Dục ái: Dục = ham muốn; Ái = thương, thích. Dục ái
lại có nghiã sự tham đắm vào các
thú vui ở cõi dục giới.
Hữu ái: Hữu = hiện hữu, cuộc sống; Hữu ái là sự tham
muốn được luôn sống mãi, vì vướng phải
tà kiến: thường kiến. Tà kiến nầy cho rằng linh hồn bất diệt,
đã sanh làm người, chết
đi linh hồn cũng sẽ thành lại người
như trước.
Bất hữu ái = Phi hữu ái: Bất = chẳng có; Phi = chẳng
phải. Bất hữu ái hay Phi hữu ái là sự tham muốn chẳng phải
tái sanh, vì vướng phải tà kiến: đoạn
kiến. Tà kiến nầy cho rằng chết đi
là hết cả, chẳng có đời sau.
Chứng đắc: Chứng = thấy
rõ bằng tai, mắt, có kinh nghiệm rõ rệt;
Đắc = được. Thí dụ như tu tập đạo Tu-đà-huờn thành công viên
mãn thì chứng đắc
đuợc quả vị Tu-đà-huờn.
Bát Chánh đạo phần: Bát
Chánh Đạo là con
đường tu tập đưa con người đến cảnh giới
Niết-bàn, chứng đắc được vô
sanh. Chữ Phần ở đây có nghiã
là các phần, các thành phần, các yếu tố, tức là từ Chánh kiến cho
đến Chánh
định. Nói cách khác, Bát chánh
đạo phần là con
đường tu tập gồm có tám ngành, tám yếu
tố, tám thành phần, ...
Tứ niệm xứ: Tứ = bốn; Niệm = suy tưởng; Xứ =
nơi chốn, lãnh vực. Tứ niệm xứ là bản Kinh quan trọng của
Đức Phật dạy cách quán tưởng về bốn lãnh
vực: (1) thân thì bất tịnh; (2) thọ thì khổ; (3) tâm
thì vô thường; (4) pháp (= sự vật) thì vô ngã.
Nê-hoàn: một danh từ khác để chỉ
Niết-bàn
Tà nghiệp, Tà mạng, Tà định:
Tà = xiêng xéo, chẳng chơn chánh, chẳng
đứng đắn; Tà nghiệp là hành
động xấu ác; Tà mạng là
đường lối mưu sanh chẳng chơn chánh;
Tà định là quán tưởng về
đề tài mê tín, dị
đoan, dữ ác.
Huệ căn, Huệ lực: Huệ
= trí huệ; Căn = nguồn cội;
Lực = sức mạnh. Huệ căn
là căn cơ của Trí huệ, nơi phát lên
Trí huệ. Huệ lực là sức mạnh của Trí huệ, sức chiếu sáng rực rỡ của
Trí huệ.
Ba mươi bảy pháp Bồ-đề = 37 phẩm Trợ đạo:
Đây là các môn học thuộc giáo lý
nhà Phật đưa hành giả
đến nơi giác ngộ và giải thoát.
Gồm có: (1) Tứ niệm xứ, (2) Tứ chánh cần, (3) Tứ như ý
túc, (4) Ngũ căn, (5)
Ngũ lực, (6) Thất giác chi, (8) Bát Chánh
đạo: 4+4+4+5+5+7+8 = 37. Danh từ
Hán Việt gọi là Tam thập thất Đạo phẩm.
Nghiã như: Như = tiếng Hán Việt là Như thị, có nghiã
là Như thế, tức là đúng theo Sự thật,
như thế là như thế.
Hữu vi: Hữu = có; Vi = làm, tạo tác ra. Hữu vi
là sự vật do sự tạo tác mà có, nên chịu sự biến
đổi theo các điều kiện về thời gian, không
gian. Hữu vi trái nghiã với Vô vi, tức là các
sự vật chẳng do tạo tác mới có, đã có
sẵn tự bao giờ chẳng biết, thí dụ như Chơn Lý, Niết-bàn, v.v. Pháp
(= sự vật) vô vi chẳng bị biến đổi bởi
các nhơn duyên, điều kiện hoàn
cảnh, như thế là cứ như thế mãi.
Hữu biên: Hữu = có; biên = ranh giới. Sư vật hữu
biên là sự vật có giới hạn. Hữu biên trái nghiã với vô
biên, tức là pháp(= sự vật) chẳng có giới hạn, thí dụ:không
gian, thời gian.
Tướng chuyên chở: Nguyên văn là
thừa tướng, thừa có nghiã là chiếc xe
để chuyên chở. Ý ở đây, trang 270, có
nghiã là có tướng của một phương tiện chuyên chở,
đưa hành giả tới nơi giác ngộ và
giải thoát.
Chẩn bịnh: Chẩn = xem mạch đoán
bịnh. Chẩn bịnh là nói rõ bịnh trạng,
đang bị đau ốm về chứng gì.
Lương y = vị thầy thuốc giỏi, xem đúng
bịnh, và trị bịnh mau lành.
Bế = đóng kín chặt lại.
Ngữ đế: Ngữ = ngôn ngữ,
tiếng nói; Đế = Chơn lý. Ngữ
đế là lời nói
đúng Chơn lý, hoặc Chơn lý được trình
bày dưới hình thức ngôn ngữ thật rõ ràng.
Các các đế: Các = mỗi
thứ; Đế = Chơn lý. Ở
đây chữ các các
đế
được Luận văn giải thích, ở trang 271, là các sự hiểu biết, các
kiến thức đều phù hợp với Chơn lý.
Đệ nhứt nghiã đế:
Đệ nhứt nghiã là nghiã cao tột
nhứt, chẳng còn gì đúng hơn nữa. Đệ nhứt
nghiã đế là Chơn lý
tuyệt đối; trong khi Chơn lý ở thế tục, đời
sống thông thường thì chỉ là Tục
đế, chơn lý tương đối mà
thôi; tại vùng nầy, điều nầy là
đúng, nhưng tới vùng khác,
điều ấy có thể sai.
Khát ái: Khát = khao khát, thèm thuồng quá. Khát ái
chỉ sự đam mê quá mức.
Kết sử: Xem lại trang 514, Ph. 10.
Đế nghiã: Đế =
Chơn lý; Nghiã = ý nghiã. Đế nghiã
là có ý nghiã như một Chơn lý.
Như nghiã: Xem lại bên trên, trang 552.
Pháp nghiã: Pháp = pháp tu, pháp tắc. Pháp nghiã là
có ý nghiã như một pháp tắc phải tuân theo.
Không nghiã: Không = rỗng rang. Không nghiã là có ý
nghiã như sự rỗng rang, chẳng chứa đựng gì,
chẳng có bản thể, chẳng có thực chất, trống vắng.
Thế đế: Thế =
đời; đời sống thế tục. Thế
đế cũng như Tục
đế, là các chơn lý tương
đối ở đời sống thông thường.
Xuất thế đế: Xuất = ra
khỏi; Thế = đời. Xuất thế
đế là các Chơn lý vượt khỏi
đời sống thế tục, đưa hành giả thoát
khỏi vòng sanh tử, tử sanh của Luân hồi, chứng
đắc Niết-bàn an lạc.
Thân tánh = bản tánh của thân thể. Luận văn
viết, nơi trang 273, bốn nơi của thân tánh, mà chẳng nêu rõ
bốn nơi nào? Trong khi đó, Luận văn có viết:
sáu điều khát ái về thân;
câu nầy ta có thể suy ra mà hiểu đó là
các sự khát ái ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Năm nẻo tái sanh: Năm
nẻo đó là: điạ ngục, ngạ qủi, súc
sanh, người và A-tu-la (= bực Thần)
Sáu điều khát ái: Xin xem chữ
Thân tánh ở trên.
Tám ngọn gió thế gian = tức là tám
điều làm cho tâm phải xao động,
như bị gió thổi vậy. Gồm có: lợi, suy, huỷ, dự, xưng, cơ, khổ,
lạc tức là: có lợi, bị hư hao, lời nói xấu, lời khen, lời tâng bốc,
lời chê, khổ và sướng.
Tà biên: Tà = xiêng xéo, chẳng chơn chánh; Biên =
ngoài bià, ngoài ven. Luận văn viết, trang
273, tám điều tà biên,
nhưng chẳng nêu rõ tám điều ấy. Thường trong
Phật học có nói đến nhị biên tức là hai bờ ranh giới
đối chọi nhau, mà chẳng bên nào
đúng cả; thí dụ như thường kiến
và đoạn kiến; hoặc chấp có
với chấp không.
Chín cảnh giới cư trú của chúng sanh: Danh từ Hán Việt gọi là
Cửu điạ, gồm có một cõi dục
giới, bốn cõi Thiền và bốn cõi
Định.
Mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông
Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên và dưới, cộng chung lại là
mười phương.
088. Suy gẫm về Phương tiện Bốn Thánh
đế:
1) Bốn Chơn lý Nhiệm mầu. Trong bản Kinh Chuyển Pháp
Luân, Đức Phật nêu rõ Bốn Chơn lý
Nhiệm mầu, theo đó thân phận mọi chúng sanh
phải chịu cảnh trầm luân triền miên trong vòng Luân hồi và Ngài
vạch rõ con đường giải thoát
khỏi cảnh Khổ đó. Bốn Chơn lý đó được các bực
Đại sư gọi là bốn Thánh đế, nghiã
là bốn Chơn lý của bực Thánh đã giảng
dạy và người nghe, nếu thi hành theo đúng, sẽ
vươn lên được bực Thánh, tức là
thoát khỏi cảnh Khổ triền miên, sống trong niềm an lạc của Niết-bàn. Trước
Ngài, và sau Ngài, chưa từng có ai đã
nêu rõ Chơn lý của cuộc đời như thế, cho nên
mới gọi là Bốn Chơn lý Nhiệm mầu.
Cơ duyên may mắn cho chúng sanh là được
biết đến và học tập về Bốn Chơn lý đó.
Lời Ngài giảng, căn cứ trên
kinh nghiệm bản thân, trên sự chứng đắc rõ
ràng, chớ chẳng phải là những tràng lý luận suông, dựa trên sự ức
đoán. Từ ngày
được thuyết giảng đến nay, đã có bao
nhiêu là bực Người, Trời dựa theo đó mà
tu tập để chứng đắc cõi vô sanh,
dẹp tan mọi phiền muộn, thong dong, tự tại trong cảnh an nhiên của
Niết-bàn. Giờ đây, ta phải cố gắng học tập
bốn Chơn lý đó, lấy đấy làm điều tâm
niệm, làm con đường giải thoát, chớ
chẳng phải là lúc cứ bàn bàn luận luận dông dài, cho vui câu
chuyện.
Đã gọi đó là Phương tiện,
thì nên nhớ rằng, phương tiện sẵn đó, chỉ
cần bắt tay vào việc. Nếu còn chần chờ, ngày qua ngày, chẳng mó
đến phương tiện mà dùng, thì rõ ràng
là đang phụ ơn người chỉ dạy.
2) Năm thọ ấm hay Năm thủ uẩn?
Chơn lý đầu tiên là Khổ
đế, kể ra các thứ Khổ mà mọi chúng
sanh phải gánh chịu. Giáo lý Bắc tông gọi đó
là Bát khổ: sanh khổ, bịnh khổ, già khổ, chết khổ, oán ghét gần
nhau là khổ, thương yêu mà xa nhau là khổ, cầu mà chẳng
được là khổ và cái Khổ thứ tám là
năm ấm hưng thạnh (= ngũ ấm
xí thịnh). Điều khổ thứ tám nầy chẳng
thấy có trong Kinh Chuyển Pháp Luân, vì kinh nầy sau khi kể bảy
điều khổ trước, viết rằng: "Nói tóm
lại, năm thủ uẩn là khổ".
Việc kể lại các nỗi khổ trong Kinh, chỉ có tánh cách liệt kê, mà
chẳng có tánh cách giới hạn ở bảy
điều, vì còn nhiều hình thức Khổ nữa, chẳng kể hết. Vì thế, Kinh
mới ghi: nói tóm lại, cho biết đấy chỉ
là bản liệt kê tóm lược mà thôi. Vả lại, ba chữ nói tóm lại
rất quan trọng, vì đã nhấn mạnh rằng:
" ... năm thủ uấn là khổ"...
tức là nơi phải gánh chịu các sự khổ đau
đó, chính là thân tâm năm uẩn.
Điều làm ta thắc mắc là trong Kinh Chuyển Pháp Luân chẳng nói
năm uẩn suông, mà nói rõ năm
thủ uẩn; trong khi Luận văn thì
ghi: năm ấm cảm tbọ là khổ. Ta
phải hiểu chỗ khác biệt ở hai nơi đó như thế
nào cho đúng?
Năm thủ uẩn khác với năm
uẩn, hay năm ấm ở
chỗ chữ thủ, có nghiã là bám chặt lấy và níu giữ lấy chẳng chịu
buông ra cho lơi lỏng, chẳng chịu cởi mở sự ràng buộc một chút nào. Như
thế, thân tâm năm uẩn nầy, vì
ta cố bám níu vào mãi, vì ta quá chấp thủ, nên
ta phải gánh lấy các nỗi Khổ. Giản dị là thế! Ai biểu cứ
mang vào, cứ chấp lấy, cứ thủ mãi, cho nên thoát
đi đâu được mà chẳng Khổ!
Luận văn dùng chữ thọ
đi kèm với chữ ấm, thành ra
năm thọ ấm, cũng chẳng có cách xa
nhiều với ý nghiã năm thủ uẩn.
Tại sao? Thọ, dùng theo nghiã một động
từ, chỉ sự thọ nhận, cảm nhận, nhận lấy và giữ lấy. Như thế,
thọ ấm với thủ uẩn chẳng khác nghiã nhau nhiều; chữ thủ
uẩn nghiã mạnh hơn thọ ấm ở chỗ sự nắm giữ
được cố tình làm, bám dai dẳng, trong
khi chữ thọ ấm diễn tả sự nắm giữ chỉ có tánh cách thụ
động, nghiã là vì phải Khổ, vẫn thọ
lấy mà chịu Khổ vậy. Chỗ giống nhau giữa hai danh từ chính là việc xem
thân tâm nầy quá trọng, chẳng hiểu rằng, ý nghĩ bám vào thân tâm là
nguyên nhân sâu xa, dính chặt vào cuộc sống,
đưa con người cứ trôi mãi, triền miêntrong cảnh sanh tử của vòng
Luân hồi.
Sở dĩ có sự phân biệt hơi tế nhị như trên về các danh từ thủ uẩn
trong Kinh Chuyển Pháp Luân và thọ ấm trong Luận văn,
là để nêu rõ lên rằng:
- Chúng sanh phải chịu Khổ vì cứ bám níu mãi.
3) Nên học tập Bốn Thánh đế như
thế nào?
Kinh Chuyển Pháp Luân nhấn mạnh và được
Luận văn nhắc lại rất rõ ràng, là người tìm hiểu về Giáo lý nhà
Phật khi đọc đến Kinh nầy, nhứt là về
bốn Thánh đế, cần phải làm theo thật
đúng bốn điều:
1. Về Khổ đế, cần phải
hiểu rõ;
2. Về Tập đế, cần phải
tận diệt;
3. Về Diệt đế, cần phải
chứng đắc;
4. Về Đạo đế, cần phải
tu tập.
Hiểu rõ là sao? Hiểu tận tường, chẳng còn chút nghi nan, chẳng còn
chút ngâp ngừng, rằng cuộc đời nầy
sướng thì ít, mà khổ thì nhiều, lại kéo dài triền miên.
Tận diệt là sao? Tận diệt nguồn gốc gây nên
đau khổ; nguồn gốc đó là sự tham
ái, bám níu vào các thú vui nhỏ
để phải chịu các khổ đau lớn. Diệt cách nào?
Diệt cho tận gốc, chẳng còn chút dư tàn nào, cũng như dập tắt ngọn lửa
chẳng còn chút tàn lửa nào bốc khói lên ngun ngún nữa.
Chứng đắc là sao? Tự mình
nhận thấy nơi mình chẳng còn chút nào gọi là phiền não; thể nghiệm
được sự an lạc vô biên của người
đã thoát
được gánh nặng. Chứng đắc
điều gì? Chứng
đắc cõi vô sanh của Niết-bàn an
lạc, bằng cách chính mình nhận thấy mình đã
hoàn toàn tự tại, thong dong, thoát mọi ưu tư ràng buộc của cuộc
đời.
Tu tập là sao? Là sửa đổi lại thái độ,
tư cách, hành động sao cho đúng với
tám yếu tố chơn chánh, từ chánh kiến cho
đến chánh
định. Con
đường Bát Chánh còn dài, nhưng tập
được gần xong một việc, thì thấy các
việc khác nhờ đó cũng đã sát tới mục
tiêu. Tu tập liên tục với sự tinh tấn, bền chí, cứ bước chơn lên
đường, nhứt định sẽ có lúc, hoặc trong đời
nầy, hoặc về các đời sau, chắc chắn kết quả sẽ đến.
Đọc mà hiểu sơ sài, diệt trừ mà còn sót chút ít, bám níu, chưa
chứng đắc đã vội tự cho là chứng
đắc, tu tập qua loa, vui thì tập, buồn
thì thôi, đó là thái
độ lơ là của người học lôi thôi về Bốn
Chơn lý Nhiệm mầu nói trong Luận văn.
Thế nên, xin ghi vào lòng bốn điều tâm
niệm nầy:
1) Hiểu rõ thật kỹ các nỗi Khổ nơi Khổ
đế;
2) Trừ bỏ thật sạch sự bám níu nơi Tập
đế;
3) Thể nghiệm thật rõ ràng niềm an lạc khi vắng
bóng các phiền não, nơi Diệt đế;
4) Tu tập thật kiên trì con
đường Bát chánh nơi
Đạo đế.
4) Ba hình ảnh về Tứ Diệu đế
đáng ghi nhớ:
41. Thí dụ Cây có chất độc.
Khổ đế
được ví với một thân cây chứa đầy các chất
độc hại.
Tập đế
được xem như hột giống của cây độc đó.
Diệt đế là thiêu
đốt ra tro hột giống đó.
Đạo đế là lửa để đem thiêu
đốt hột giống.
42. Thí dụ Dòng nước lụt.
Khổ đế như còn ở bờ bên nầy
lo bị ngập;
Tập đế xem như dòng nước lụt
cuồn cuộn;
Diệt đế như bờ bên kia có
đê chắn giữ;
Đạo đế là chiếc thuyền
đưa sang bờ bên kia
43. Thí dụ Gánh nặng trên vai.
Khổ đế như gánh nặng
đè trên vai;
Tập đế như
đang vác gánh nặng trên vai;
Diệt đế như
đặt được gánh nặng xuống;
Đạo đế là phương tiện để trút
gánh nặng xuống khỏi vai... (và thở phào!)
-ooOoo-