Quyển Mười Hai
Phẩm 12: Phân biệt
Đế.
Chi 2: Các loại Trí và
Định
Người toạ thiền như thế hiện quán Diệt, do
đã quán Diệt xong thành ra sợ nhân của
ấm, lại sợ ấm sanh ra. Sợ ba cõi (= dục giới, sắc giới và vô sắc giới), sợ
năm đường (= điạ ngục, ngạ qủi, A-tu-la,
người, trời), sợ bảy nơi thức trú, chín chốn cư trú của chúng sanh, như sợ
người ác tuốt đao, như sợ rắn độc, như sợ lửa bừng cháy. Như thế, do quán
sự diệt mà thành ra sợ các nguyên nhân của ấm, sợ ấm sanh
ra, sợ ba cõi, năm đường, bảy thức trú, chín
chốn cư trú của chúng sanh.
Hiện tác ý do theo lẽ vô thường khiến cho ý tưởng lo sợ (= uý
tưởng) được yên ổn,
để khởi lên vô tướng. Hiện tác
ý do theo lẽ khổ thành ra sự sợ sanh ra được
yên ổn, để khởi lên vô sanh.
Hiện tác ý do theo lẽ vô ngã thành ra sự lo sợ cùng việc ngại sanh ra
được yên ổn, khiến cho vô tướng và vô
sanh khởi lên. Quán các lỗi lầm, quán sự nhàm chán và lìa xa (= yếm ly),
mà mềm dẻo tùy theo sự kham nhẫn tương tự, đó
là lời nói tổng quát.
Đến đây chấm dứt việc khiến cho Trí lo sợ khởi lên.
Người toạ thiền do vì mối lo ngại mà hiện tu hành, khiến khởi lên
trí muốn được giải thoát ( lạc giải thoát
Trí). Khi lo ngại về tướng các ấm, trí muốn
được giải thoát khởi lên. Khi lo ngại
về các ấm sanh khởi, trí muốn được giải thoát
khởi lên. Khi lo ngại về ba cõi, năm
đường, bảy thức trú, chín nơi cư trú của chúng sanh, trí muốn được giải
thoát khởi lên. Đó cũng tựa như con
chim bị lửa cháy bao vây, muốn được thoát khỏi lửa, như người bị giặc dữ
bao vây, muốn được thoát khỏi tay giặc. Như thế, người toạ thiền do nơi
nỗi lo ngại về nguyên nhân các ấm, sự khởi sanh của các ấm, ba cõi,
năm đường, bảy thức trú, chín chốn cư trú của
chúng sanh, mà khởi lên trí muốn được
giải thoát.
Theo lẽ vô thường mà tác ý lo ngại về nguyên nhân các ấm. Theo lẽ khổ
mà tác ý lo ngại về sự sanh. Theo lẽ vô ngã mà tác ý lo ngại về nguyên
nhân các ấm và sự khởi sanh của chúng, và do
đó mà khởi lên trí muốn được giải
thoát.
Như thế, kẻ phàm phu và các bực học nhơn, do theo nơi trí muốn
được giải thoát dùng hai cách mà dẫn
tâm hoặc quán hoan hỉ. Nơi đây, tâm thông đạt
hiện quán trở nên hoan hỉ, vượt qua ưu não vốn là chướng ngại cho
việc tu hành, thành tựu nên thấy được chỗ khó
thấy trong tư duy, hành, xả, nương tùy theo với sự kham nhẫn tương
tự. Đó là lời nói tổng quát.
Đến đây chấm dứt Trí muốn được giải thoát.
Người tọa thiền như thế hiện đang tu tập
về trí muốn được giải thoát. Để được giải thoát khỏi tất cả chư hành
và đắc được Niết-bàn, người ấy thấy
chư hành thành cùng một tướng, muốn theo cửa giải thoát mà khởi lên trí
tương tự. Do ba cách mà đắc được
tương tự trí; ba cách đó vượt qua khỏi sự
kết tụ của năm ấm.
Người ấy hiện thấy được năm ấm đều
vô thường thì đắc được
tương tự trí, nhận rõ khi năm ấm
diệt, đó tức là
Niết-bàn, nên vượt qua được sự kết tụ của
năm ấm. Người ấy hiện thấy được năm ấm đều khổ thì
đắc được tương tự trí, nhận rõ
khi năm ấm diệt,
đó tức là Niết-bàn, nên vượt
qua được sự kết tụ của năm ấm. Người ấy hiện
thấy được năm ấm đều vô ngã thì
đắc được tương tự trí, nhận rõ khi năm
ấm diệt, đó tức là
nghiã đệ nhứt của Niết-bàn, nên
vượt qua được sự kết tụ của năm ấm.
Hỏi: Do trí nào biết hiện vượt qua sự kết tụ, do trí
nào biết đã vượt qua xong?
Đáp: Do tánh trừ trí mà biết hiện vượt qua sự kết tụ
của chư hành; và do đạo trí mà
biết hiện đã vượt qua xong.
Hỏi: Tương tự trí nghiã là gì?
Đáp: Tương tự có nghiã là trí thông
đạt được các môn sau đây: bốn niệm xứ, bốn
chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy yếu tố của sự giác ngộ,
tám ngành của Bát Chánh đạo; tâm trí
phù hợp với, và giống như các môn ấy,
đó gọi là Tương tự trí.
Nói một cách tổng quát, chẳng oán ghết để
thấy lợi cho mình và kham nhẫn, đó là
lời nói chung về tương tự trí.
Đến đây chấm dứt Tương tự trí.
Từ nơi tướng của tất cả chư hành, khởi lên tương tự trí theo thứ
lớp chẳng gián đoạn, hướng về đối tượng của
Niết-bàn thì sanh khởi lên được
tánh trừ trí.
Hỏi: Thế nào là tánh trừ trí?
Đáp: Vượt trừ được các pháp phàm
phu, gọi là tánh trừ. Nơi chẳng phải pháp phàm phu cũng gọi là
tánh trừ. Tánh có nghiã là Niết-bàn.
Lại nữa, gieo hột giống Niết-bàn cũng gọi là tánh trừ. Như A-tỳ-đàm
(= Abhidhamma, Luận tạng) có nói: "Trừ
được sự sanh gọi là tánh; trừ
bỏ để đến được cõi vô sanh, cũng gọi
là tánh trừ". Lại nữa, trừ bỏ được
nguyên nhân của sự sanh, gọi là tánh trừ.
Đến được cõi vô sanh, cõi vô tướng
cũng gọi là tánh trừ. Đó là
bước đầu của con đường dẫn tới Niết-bàn;
từ chỗ bên ngoài đó đã chuyển
được trí huệ.
Trên đây kà lời nói tổng quát về
tánh trừ trí.
Đến đây chấm dứt Tánh trừ trí.
Tánh trí theo thứ lớp chẳng gián đoạn
hiện biết rõ về Khổ đế,,hiện đoạn trừ
nguyên nhân của Tập đế, hiện chứng đắc
được sự tận diệt của Diệt đế và hiện tu tập về
Đạo đế, thành ra sanh khởi lên trí
về đạo Tu-đà-huờn cùng tất cả các
pháp Bồ-đề khác. Người toạ thiền vào
lúc đó, trong sự an tịch, hiện thấy được đâu
là nơi hữu biên(= còn có giới hạn; biên = bờ ranh),
đâu là nơi
đề hồ (= cảnh Niết-bàn vô vi;
đề hồ là chất kem ngon của
sữa). Và trong một sát-na (= đơn vị thời gian
hết sức ngắn) trí người ấy biết rõ ràng, chẳng trước
đó cũng chẳng sau đó, phân biệt được Bốn Chơn
lý Nhiệm mầu, đã biết rõ Khổ, đã
đoạn trừ Tập, đã chứng thấy Diệt,
đã tu theo
Đạo, thật phân minh, đúng như thí dụ trong bài
Kệ sau đây:
Như người lià bờ nầy,
Dùng thuyền sang bờ kia,
Chở vật đến bờ đó,
Ngồi thuyền, trừ lậu hoặc.
Như thuyền lướt trên mặt nước, chẳng trước chẳng sau, trong một sát-na,
bỏ bốn việc nơi bờ nầy là trừ lậu hoặc, vượt
đến bờ bên kia như chuyên chở vật lià bờ bên nầy. Như thế, trí
phân biệt Khổ như trừ lậu hoặc. Như thế, trí phân biệt
đoạn trừ Tập như sang
đến bờ kia. Như thế, trí phân biệt
chứng đắc sự tận diệt của Diệt
như dùng thuyền chở vật. Như thế, trí phân biệt
Đạo như ngồi thuyền sang bờ bên
kia.
Như ngọn đèn cùng sanh trong một
sát-na, chẳng trước chẳng sau, đồng thực hiện
bốn việc: thắp cháy tim đèn, trừ được
sự tối tăm, làm cho dầu hao mất, và khởi lên ánh sáng. Cũng như mặt
trời, chẳng trước chẳng sau, trong một sát-na,
đồng thực hiện được bốn việc: làm sắc
hiện lên, trừ sự tối tăm, dẹp sự lạnh lẽo,
tạo nên ánh sáng để thấy được sắc. Như
thế, trí phân biệt Khổ cũng như trừ sự tối tăm.
Như thế, trí phân biệt đoạn Tập
như dẹp được sự lạnh lẽo. Như thế,
trí phân biệt chứng được Diệt
như làm khởi lên ánh sáng. Như thế, trí phân biệt tu
Đạo Bát chánh như mặt trời,
đó còn gọi là Thánh trí.
Hỏi: Thế nào là tướng của trí vào lúc hiện thấy rõ Khổ,
đoạn trừ Tập, chứng đắc Diệt, tu hành
theo Đạo?
Đáp: Nếu chẳng thấy rõ được Khổ
thì bốn điều điên
đảo sẽ sanh khởi. Vào lúc
đó, như đã giảng qua, do nhờ sự an
tịch mà quán tưởng đâu là cõi hữu
biên, đâu là cõi vô vi Niết-bàn, trí
phân biệt trong một sát-na, chẳng trước chẳng sau, liền phân biệt
được Bốn Chơn lý Nhiệm mầu.
Hỏi: Nghiã nầy như thế nào?
Đáp: Khi thấy chư hành sanh và diệt, trí còn chưa nhận ra
được đúng như thật các khổ lậu cùng
các lỗi lầm của tất cả chư hành. Do theo tướng của chư hành, liền khởi tâm
muốn vượt qua chư hành mà đến chỗ vô hành.
Nhờ đó mà thấy
được đúng như thật các lỗi lầm của chư hành.
Rồi từ tướng của chư hành, khởi tâm vượt đến
chỗ vô hành, để từ nơi ấy mà
thấy ra được các khổ lậu đến tận mức cuối cùng
vậy.
Lại có thuyết cho rằng, nếu được như vậy,
thì ta có thể phân biệt được Đế, do
nhờ vào sự an tịch và tánh trừ trí. Tánh từ trí có nghiã là,
khởi từ hành tướng mà vượt qua đến vô hành.
Nếu tánh trừ trí khởi từ hành tướng vượt qua
đến vô hành mà thành công thì
đắc được Niết-bàn. Nơi Niết-bàn chỉ
nắm giữ nguyên nhân làm đối tượng. Nhờ nắm
giữ được đối tượng mà đắc được định
tâm. Nếu chẳng đắc được định, thì chẳng sanh ra
định lực và huệ lực, và các pháp Bồ-đề
cũng chẳng thành mãn. Nếu vào lúc đắc
được Niết-bàn mà có định tâm thì
Định và Huệ thành mãn cùng với tất cả
các pháp Bồ-đề. Do đó, chỉ nhờ vào
Đạo trí mà thành phân biệt
được Đế.
Như thành cháy, có ngưòi chạy ra, bị kẹt ở cửa thành, chỉ thò ra
được một chân, thì lúc
đó chẳng gọi được là thoát khỏi. Cùng
thế ấy, tánh trừ trí từ nơi hành tướng mà khởi lên vượt qua
đến chỗ vô hành, thì lúc ấy chưa vượt
qua được các phiền não của chư pháp,
chưa được thành mãn. Trái lại, như
người trong thành cháy chạy ra, hai chân đã
ra ngoài, bấy giờ mới gọi đó là thoát
khỏi lửa thành cháy. Cùng thế ấy, tánh trừ trí chẳng gián
đoạn sanh khởi lên
Đạo trí, lúc bấy giờ mới gọi là
thoát khỏi các phiền não và thành mãn được
tất cả các pháp. Do đó, nhờ tánh trừ trí mà thành ra phân biệt
được Đế.
Hỏi: Phân biệt Đế nghiã như thế
nào?
Đáp: Trong một sát-na, bốn Thánh
đế hoà hợp khởi lên
đó gọi là phân biệt
Đế. Vào lúc ấy,
Đạo trí hoà hợp y theo nghiã,
các căn trở thành bình
đẳng nhau. Năm
lực với nghiã là bất động.
Bồ-đề phần với nghiã "thừa",
tức là cổ xe đưa đến nơi giác ngộ.
Bát thánh Đạo phần với nghiã nhân
duyên đưa đến sự giải thoát. Bốn
Niệm xứ có nghiã niệm an trú trong bốn lãnh vực. Chánh cần có
nghiã phân biện thiện được ưu thắng.
Bốn như ý túc có nghiã là phương tiện.
Đế có nghiã là sự thật, Chơn lý. Xa-ma-tha (=
định tâm) có nghiã là chẳng loạn
đông. Tì-bà-xá-na (= huệ tâm)
với nghiã tùy quán. Song với nghiã chẳng rời nhau. Giới thanh
tịnh với nghiã che chở. Tịnh kiến có nghiã là tâm tánh trong
sạch chẳng loạn động. Kiến với
nghiã là kiến giải được thanh
tịnh. Giải thoát có nghiã là thoát khỏi. Minh xả có nghiã là
thông đạt. Diệt trí căn
có nghiã đoạn bỏ và vượt
qua. Tác ý có nghiã là khiến khởi ý lên một cách bình
đẳng. Xuất ly có nghiã là xúc
và thọ đã diệt xong.
Định tức là y theo nghiã hiện
truớc mặt. Huệ có nghiã là niệm chân thực.
Đề-hồ với nghiã phân biệt sâu
xa và rốt ráo. Nê-hoàn (= Niết-bàn) có nghiã bình
đẳng thật rốt ráo.
Như thế, người toạ thiền thấy đúng như
vậy, biết đúng như vậy, nên đoạn trừ
được tam kết (= ba điều kết sử)
là thân kiến, nghi và giới cấm thủ, cùng các phiền não tương ứng.
Hỏi: Thế nào là thân kiến?
Đáp: Kẻ phàm phu ít học thấy sắc cho
đó là ngã (= tôi), tôi có hình
sắc; sắc đó là ngã sở (= của
tôi). Cùng như thế đó đối với thọ,
tưởng, hành, thức. Thấy thức, cho đó là
tôi có thức (= sự hiểu biết), thức đó là
thức của tôi. Đấy gọi là thân kiến.
Nay cắt đứt được thân kiến, thì
đồng thời cũng đoạn trừ xong sáu mươi hai tà
kiến.
Hỏi: Thế nào là nghi?
Đáp: Hoặc nơi Khổ, hoặc nơi Tập, hoặc nơi Diệt, hoặc nơi
Đạo, hoặc nơi Phật Pháp Tăng, hoặc nơi lúc
khởi đầu, hoặc nơi lúc tận cùng, hoặc cả hai thời khởi và tận,
đều có sự nghi nan về sự sanh khởi theo pháp
nhân duyên; nay mối nghi nan đó được
đoạn trừ.
Hỏi: Thế nào là giới đạo?
Đáp: Có hai loại giới đạo
(= còn gọi là giới cấm thủ, tức là sự tin tưởng vào các
giới cấm mê tín): do khát ái và do ngã si (= mê mờ cho là có ngã).
Người vì khát ái nghĩ rằng: "Nhờ tuân theo các giới cấm nầy, nhờ tu theo
các khổ hạnh nầy, nhờ tập theo các Phạm hạnh nầy, tôi sẽ
được sanh lên các cõi Trời";
đó gọi là giới
đạo vì khát ái. Hoặc có kẻ ngoại
đạo, hay người Bà la môn nào nghĩ
rằng: "Nhờ tuân theo giới cấm nầy, nhờ giữ theo giới nầy cho thanh tịnh,
tôi được trong sạch"; đó gọi là
giới đạo vì si ngã. Cả hai loại
giới đạo
đó đều được đoạn trừ
Hỏi: Thế nào là các phiền não tương ứng?
Đáp: Ba mối kết sử (thân kiến, nghi và giới cấm thủ) khiến
khởi lên các phiền não: tham muốn, giận hờn, si mê và sanh vào các nẻo dữ.
Các phiền não nầy cũng được cắt đứt.
Vào lúc ấy, người toạ thiền chứng được quả
Tu-đà-huờn hướng. Tu-đà-huờn
hướng là chưa đắc trọn quả
Tu-đà-huờn trú, mà chỉ
đến bực bát
địa.
Đến khi lên tới kiến địa
hoặc định điạ, thì từ nơi
hai điạ nầy khởi chuyển huệ
mà trọn thành quả Tu-đà-huờn.
Đó là lời nói tổng quát về Tu-đà-huờn
đạo.
Ngay khi ấy, vị Tu-đà-huờn cứ theo
thứ lớp chẳng gián đoạn, cắt trừ ba kết sử,
khiến cho đối tượng trở thành vô vi, chẳng sai biệt với
Đạo và các pháp khác, làm phương tiện
khởi lên trí hiểu biết về Tu-đà-huờn
quả. Trí, quả, tâm, hoặc hai hoặc cả ba, khởi lên chẳng gián
đoạn, cùng vượt qua
đến phần sau. Tâm theo từ phần sau nầy khởi
quán về Đạo, về Quả, về Niết-bàn; quán xong liền
đoạn trừ các phiền não, rồi quán
đến các phiền não còn dư sót mà cắt
bỏ. Đó gọi là pháp Tu-đà-huờn
chẳng thoái chuyển định hướng về Bồ-đề,
hướng về các quả ở vị lai. Đó gọi là
được sanh ra từ ngực của Thế tôn, sanh ra từ nơi miệng của Thế tôn, sanh
ra từ Chánh pháp, đó là pháp mà các vật khác chẳng thể sánh nổi
được. Đó gọi là thấy
được đầy đủ, tu hành thông
đạt Thánh pháp, đến tận ngưỡng cửa Niết-bàn.
Đã đắc
diệu pháp đó, đã thấy biết rõ diệu pháp
đó, đã
được giác trí thành tựu, đã
được giác minh thành tựu, liền nhập
vào dòng nước Thánh, thông đạt Huệ, khai mở
cửa Niết-bàn. Thế nên, có Kệ rằng:
Nơi cõi đất là một bực
quốc vương,
Cõi Thiên đường là một
đấng Vua Trời,
Thống lãnh tất cả thế gian mọi cõi,
Đó chính là thắng quả Tu-đà-huờn.
Người toạ thiền ấy, từ giai đoạn nầy
tiến lên khởi tinh tấn dõng mãnh để
chứng được quả vị Tư-đà-hàm.
Người ấy thấy rõ được sự sanh, sự diệt từ
buổi ban sơ, nên hiện quán như đã
được thuyết giảng ở trước. Người ấy hiện tu hành
theo như đã thấy con
đường Đạo, nương theo năm căn, năm lực, bảy
yếu tố của sự giác ngộ, như thế mà quán phân biệt về Bốn Chơn lý
Nhiệm mầu. Như thế, người ấy tu hành hướng về Diệt,
đoạn trừ các dục thô, sân hận, cùng
các phiền não tương ứng khác. Trên con đường
Đạo đó, chẳng bao lâu, chẳng gián đoạn, người ấy chứng được quả vị Tư-đà-hàm.
Người toạ thiền ấy, từ giai đoạn nầy
tiến lên khởi tinh tấn dõng mãnh để
chứng quả vị A-na-hàm. Người ấy thấy rõ
được sự sanh và sự diệt, lấy chỗ sơ
kiến (= vừa mới thấy) làm chỗ hiện thấy, hiện quán, như
đã được
thuyết giảng ở trước. Người ấy hiện tu hành theo như
đã thấy con
đường Đạo, nương theo năm căn, năm lực, bảy
yéu tố của sự giác ngộ, như thế mà quán phân biệt về Bốn Chơn lý
Nhiệm mầu. Như thế, người ấy tu hành hướng về Diệt,
đoạn trừ các dục vi tế, sân hận và các
phiền não tương ứng còn sót lại. Trên con
đường Đạo đó, chẳng bao lâu, chẳng gián đoạn, người ấy chứng được quả vị
A-na-hàm.
Người toạ thiền ấy, từ giai đoạn nầy
tiến lên khởi tinh tấn dõng mãnh để
chứng quả vị A-la-hán. Người ấy thấy rõ
được sự sanh và sự diệt, lấy chỗ sơ
kiến đó làm chỗ hiện thấy, hiện quán,
như đã
được thuyết giảng ở trước. Người ấy hiện tu hành theo như
đã thấy con
đường Đạo, nương theo năm căn, năm lực, bảy
yếu tố của sự giác ngộ, như thế mà quán phân biệt về Bốn Chơn lý
Nhiệm mầu, theo đúng như thế mà hướng
về sự đoạn trừ sắc dục, vô sắc dục, kiêu
mạn, trạo cử, vô minh, các phiền não còn dư sót
đều đoạn tận. Trên con
đường Đạo đó, người toạ thiền chứng thấy quả
vị A-la-hán, quán Đạo nầy, quán quả Niết-bàn, quán
đoạn trừ phiền não.
Người Tỳ-kheo đó đắc thành
A-la-hán, diệt xong các lậu hoặc, đã
làm xong việc phải làm, đặt gánh nặng xuống,
đạt tới diệu nghiã, đoạn trừ các hữu
kết, chơn chánh thấy đúng sự giải thoát, lià xa năm
phần, thành tựu sáu phần, được sự thủ
hộ, chẳng còn bị sự chết ràng buộc, diệt trừ các tà
đế còn sót, tin tưởng và tầm cầu sự vô
lậu, giữ an ổn các thân hành, khéo giải thoát tâm, khéo giải thoát tuệ,
làm tròn Phạm hạnh đã thành bực
đại trượng phu tối thắng, bực đại trượng phu
chứng được chỗ đắc đệ nhứt. Đó gọi là
đã trừ xong sân hận, đến bờ bên
kia, lià phiền não, chẳng còn bị kết sử làm chướng ngại,
đắc được đôi cánh của bực Thánh giả, buông bỏ
gánh nặng chẳng tương ứng xuống, thành bực Sa-môn, bà la môn,
A-la-hán, bực dứt cả tham dục, bực bảo hộ chánh pháp, bực bà la môn tối
thượng. A-la-hán có nghiã là vượt qua, thoát khỏi, khuất phục
được, an tịch, khiến cho an tịch. Đó là
lời nói tổng quát về A-la-hán.
Nếu người đắc quả vị Tu-đà-huờn
trong đời nầy, chẳng tinh tấn tu lên
nữa, sẽ thuộc vào ba hạng Tu-đà-huờn
sau đây: (1) thất sanh, (2)
gia gia, (3) nhứt sanh. Như thế, người căn
cơ chậm lụt sẽ thành thất sanh. Người căn
cơ trung bình sẽ thành gia gia. Người căn
cơ sắc bén sẽ thành nhứt sanh. Thất sanh thì sau khi tái
sanh trên cõi Thiên đường sáu lần, còn
trở lại cõi nầy một lần nữa để chấm dứt Khổ.
Gia gia thì hoặc hai lần, hoặc ba lần tái sanh về cõi nầy
để chấm dứt Khổ. Nhứt sanh thì
còn phải sanh làm người một lần nữa, để chấm
dứt Khổ.
Vậy, Tu-đà-huờn, nếu trong
đời nầy chẳng tinh tấn tu lên nữa thì
phải trở lại cõi người ít nhứt một lần nữa để
chấm dứt Khổ.
Nếu vị A-na-hàm, trong đời nầy, chẳng tinh
tấn tu lên nữa, đến khi mạng chung sẽ
sanh lên cõi Tịnh cư. Tùy theo chư căn
mỗi người bén nhạy khác nhau mà có năm
hạng A-na-hàm: (1) trung gian Bát-Niết-bàn, (2) sanh
Bát-Niết-bàn, (3) bất hành Bát-Niết-bàn, (4) hành
Bát-Niết-bàn, (5) sanh lên trên cõi Trời A-ca-ni-tha. Gọi là
Trung gian Bát-Niết-bàn, vị A-na-hàm nào khởi lên Thánh
đạo để đoạn trừ các kết sử dư sót lại, còn
chưa đến giữa chừng thọ mạng, đã mất
đi. Gọi là Sanh Bát-Niết-bàn,
vị A-na-hàm nào khởi lên Thánh đạo để trừ các
kết sử còn dư sót, mất đi khi đến quá
nửa chừng thọ mạng. Gọi là Bất hành Bát-Niết-bàn, vị
A-na-hàm nào khởi lên Thánh đạo để đoạn trừ
các kết sử còn dư sót, mà chẳng do hành
động bên ngoài thúc giục. Gọi là
Hành Bát-Niết-bàn, vị A-na-hàm nào khởi lên Thánh
đạo để đoạn trừ các kết sử còn dư sót,
nhờ có hành động bên ngoài thúc giục.
Gọi là Sanh lên cõi Trời A-ca-ni-tha, vị A-na-hàm nào từ cõi Bất
phiền thiên lần lượt sanh sang các cõi Bất nhiệt thiên, Thiện kiến thiên,
Thiện hiện thiên, sau rốt mới đến cõi
A ca ni tha thiên (Pàli: Akanittha), khởi lên Thánh
đạo để đoạn trừ các kết sử còn dư sót.
Nơi cõi Bất phiền thiên, thọ mạng một vạn kiếp; ở cõi Bất nhiệt thiên, thọ
mạng hai vạn kiếp; ở cõi Thiện kiến thiên, thọ mạng bốn vạn kiếp; ở cõi
Thiện hiện thiên, thọ mạng tám vạn kiếp; ở cõi A ca ni tha thiên, thọ mạng
mười sáu vạn kiếp. (...)
Bực A-la-hán đã
đoạn trừ xong tất cả phiền não chẳng
còn dư sót, nên chẳng còn gây thêm nguyên nhân
để phải sanh lại nữa. Do đó, bực A-la-hán đã
miễn trừ được hình, mạng, hành và
diệt; đó là
đoạn trừ được Khổ, chẳng khởi thêm Khổ
nữa; đấy gọi là Khổ
đã đến
mức cuối cùng rồi.
Có Kệ rằng:
Tựa như trùy đập vào sắt nóng,
Như ánh sao chìm xuống giữa dòng,
Theo thứ lớp mà thành tịch diệt,
Nào ai biết được hướng người đi!
Như thế, là giải thoát chánh chơn
Khi vượt qua dục lậu ràng buộc,
Đạt đến cõi an lạc bất
động,
Nào ai biết được hướng người đi!
Hỏi: Có thuyết của đại sư nói, cứ theo
thứ lớp mà tu Đạo để đoạn trừ các
phiền não, thì có lần lượt phân biệt
được Bốn Chơn lý Nhiệm mầu chăng?
Đáp: Hoặc do lấy mười hai pháp, hoặc do lấy tám pháp, hoặc
do lấy bốn đạo trí mà chứng
được quả.
Hỏi: Theo như đó, khi nào thấy
chẳng tương ưng?
Đáp: Nếu theo thứ lớp tu hành và
đoạn trừ các phiền não thì do theo
đó mà lần lượt chứng quả, như
thế vui lòng thấy được
đạo và quả tương ứng nhau.
Nếu vui lòng được như thế thì thành
tựu được quả Tu-đà-huờn chăng?
Nếu chưa vui lòng, thì lại theo thứ lớp tu
Đạo, theo thứ lớp đoạn trừ phiền não,
thì cũng được.
Lại nữa lần thứ hai: khi thấy được
Khổ, thấy Khổ được đoạn trừ, thấy phiền não
được đoạn diệt, thì chứng
được bốn phần của quả Tu-đà-huờn
và khởi lên vui lòng với phương tiện thành tựu. Nếu như thế vui lòng tác
chứng được bốn phần Tu-đà-huờn, bốn
phần Thất sanh Tu-đà-huờn, bốn phần
Gia gia Tu-đà-huờn, bốn phần Nhứt sanh
Tu-đà-huờn thì thành ra có bốn phần
trú nơi đạo, còn bốn phần trú
nơi quả, như thế thì chẳng tương ứng. Nếu như thế chẳng vui lòng
khi đã thấy Khổ, thấy Khổ
đã được
đoạn trừ, còn phiền não có được diệt
hết chăng; như thế vẫn còn chưa tương ứng.
Lại nữa lần thứ ba: nếu lấy chỗ đã
thấy Khổ, thấy Khổ đã
được đoạn trừ và phiền não
đã diệt xong, làm chỗ vui lòng, thì
đó là hiện thấy
được Khổ, trú vào bốn phần Tu-đà-huờn
đạo, bốn phần tín hành, bốn phần pháp
hành, làm chỗ vui lòng, chớ vẫn chưa thấy
được ba Chơn lý kia còn lại (...); như vậy thì cũng chẳng tương
ứng. (...)
Lại nữa lần thứ tư: cũng chẳng tương ứng, nếu hiện thấy
đạo thành hướng,
đã trú vào quả
điều đó đáng vui ; lấy chỗ hiện thấy Khổ nầy
thành hướng đã trú
vào quả cũng nên khá vui , khi thấy cả hai tương ứng nhau thành
chung một tướng. Nếu khá vui lòng khi thấy hướng cùng trú và
quả thành ra nhiều thứ như thế, thì vẫn còn chẳng tương ứng.(...)
Lại nữa, lần thứ năm: nếu
đã thấy
đạo mà chứng quả, nhưng còn chưa thấy
được Khổ Tập, Khổ Diệt, hoặc đã thấy
Khổ Tập, Khổ Diệt là vô nghiã, thì cũng chưa tương ứng.
Lại thêm lần thứ sáu: nếu lấy hoặc mười hai pháp, hoặc tám pháp,
hoặc bốn đạo trí để tác chứng Tu-đà-huờn
quả, (...), thì đạo trí thành ra vô
quả. Nếu như thế mà quán theo đó, thì
quán đó cũng chẳng tương ứng. (...)
Lại nữa, lần thứ bảy: nếu hoặc do mười hai pháp, hoặc do tám
pháp, hoặc do bốn đạo trí mà khiến
khởi lên Tu-đà-huờn quả, thì
đó lại cũng chẳng tương ứng, vì do
nhiều đối tượng mà khởi lên một quả,
tựa như lấy nhiều trái xoài mà làm thành một trái vậy.
Hỏi: Nếu trong một sát-na, chẳng trước chẳng sau, lấy một trí mà
phân biệt Tứ Đế thì thành ra có bốn
cái nhìn nắm giữ đối tượng. Nếu lấy cái thấy
Khổ làm thành cái thấy về Tứ Đế, thì
Tứ đế sẽ trở thành Khổ
đế. Vậy, có phải cả hai cách đó, chẳng cách nào
tương ưng với một trí, chẳng trước chẳng sau, trong một sát-na, phân biệt
được Tứ Đế chăng?
Đáp: Chẳng phải một trí có bốn cái thấy nắm giữ bốn
đối tượng; lại cũng chẳng phải Tứ Đế thành
Khổ đế. Người toạ thiền khi ban sơ quán về Tứ
Đế, thấy tướng của mỗi Đế đều chung một tướng "như" như
nhau, tướng trước được phân biệt trước, thì
vào lúc ấy đang quán về Khổ đế. Như thế, một
tướng đã thông đạt thì thành ra
thông đạt được cả Tứ Đế vì cùng một
nghiã "như" . Cùng theo cách ấy trước
đây, năm ấm tuy khác loại nhưng cùng một tướng, nên tướng trước
được phân biệt trước, do đó mà phân
biệt được sắc ấm. Cũng vây, lấy nghiã
vô thường nơi sắc ấm mà thấy năm ấm đều vô
thường, (...), chớ chẳng phải sắc ấm là năm
ấm. Nhập, giới, cũng được quán
phân biệt theo lối đó, điều ấy có thể suy mà biết
được.
Sau đây giảng qua các pháp
linh tinh về: quán, giác, hỉ, thọ,
điạ, căn, giải thoát, phiền não, chánh thọ, hai cấp
định.
Quán có hai thứ: thiền quán và táo quán (táo =
khô, cằn)
Hỏi: Thế nào là thiền quán?
Đáp: Thiền quán có nghiã là, đã
đắc định rồi, lấy định lực mà hàng
phục các triền cái, lấy danh mà phân biệt so sánh với sắc,
quán thấy các thiền chi, lấy Xa-ma-tha (=
định) làm bước đầu để tu Tì-bà-xá-na
(= huệ).
Táo quán có nghiã là, lấy trí lực phân biệt
để hàng phục các triền cái, lấy sắc
mà phân biệt so sánh với danh, quán thấy chư hành, lấy
Tì-bà-xá-na làm bước đầu để tu Xa-ma-tha.
Giác có nghiã là, nơi Sơ thiền, lấy táo quán cùng thiền quán mà
quán đạo và quả, thì
thành có giác. Nơi Tam thiền, từ Tì-bà-xá-na cho
đến tánh trừ trí thì có giác, còn
đạo và quả thì chẳng có giác. Nơi giác
địa (= chỗ có giác), đạo thành tựu
được tám ngành của Bát Chánh
Đạo. Nơi vô giác điạ, bảy ngành Bát
Chánh Đạo thành tựu, trừ Chánh tư duy.
Hỉ có nghiã là, táo quán ở Sơ thiền khiến thiền giả thấy
được đầy đủ nỗi khổ của chư hành; nhờ
có Tì-bà-xá-na và trí tương tự khởi lên thành tánh trừ trí nên thấy các
khổ chẳng còn nữa; do đó mà
đạo và quả cùng khởi lên
được hỉ và táo quán
đắc được hỉ
đầy đủ. Nơi Nhị thiền, Tì-bà-xá-na,
cùng với đạo và quả,
đồng khởi lên hỉ. Nơi Tam thiền
và Tứ thiền, Tì-bà-xá-na và đạo cùng
quả chẳng khởi lên hỉ. Nơi hỉ điạ, đạo
và quả làm khởi lên Thất giác chi (= bảy yếu tố của sự giác ngộ).
Còn nơi vô hỉ điạ, chỉ có sáu giác chi khởi lên,
trừ yếu tố hỉ.
Thọ có nghiã là, ở Sơ thiền, táo quán khiến thấy
đầy đủ nỗi khổ của chư hành, nhờ
Tì-bà-xá-na và trí tương tự khởi lên niệm xả, rồi tánh trừ trí cùng
đạo và quả
đồng khiến cho hỉ phát sanh, do đó mà
táo quán đắc được lạc (= vui)
đầy đủ. Nơi Tam thiền, Tì-bà-xá-na,
đạo và quả, cùng với hỉ khởi lên. Nơi
Tứ thiền, Tì-bà-xá-na, đạo và quả cùng
với xả khởi lên.
Điạ có nghiã là, có hai
điạ: kiến điạ và tư
duy điạ (điạ
= đất, phạm vi; kiến = thấy; tư duy = suy nghĩ).
Tu-đà-huờn
đạo thuộc về Kiến
địa; còn ba
đạo kia và bốn quả Sa-môn thuộc về
Tư duy điạ. Trước còn chưa thấy
ra, nay khiến thấy được rõ, nên gọi
đó là kiến
điạ. Thấy như thế, rồi tu tập theo
như thế, đó là tư duy
điạ.
Lại nữa, còn có hai thứ điạ:
học điạ và vô học
điạ (học
điạ, ở
đây, có nghiã là các người còn phải
học thêm nữa; còn vô học điạ, ở
đây, các người đã học xong, chẳng cần
học thêm nữa). Như thế, bốn đạo và ba
quả Sa-môn thuộc về học điạ. Quả A-la-hán
thuộc về vô học điạ.
Căn có nghiã là, có ba căn
xuất thế gian: (1) vị tri tri căn
(= căn biết được điều còn chưa biết);
(2) dĩ tri căn (= căn
đã biết rốt ráo và (3) tri dĩ căn
(= căn biết đã biết). Như
vậy, trí người đắc Tu-đà-huờn
đạo biết được điều còn chưa biết,
thuộc vào loại căn (1). Trí của ba đạo và
ba quả còn lại, vì đã biết các pháp
đến mức rốt ráo, nên thuộc vào loại căn
(2). Trí người đắc quả A-la-hán biết được đã biết xong tất cả mọi
pháp chẳng sót pháp nào, nên thuộc vào loại căn
(3).
Giải thoát có nghiã là, có ba loại giải thoát: (1) vô-tướng
giải-thoát, (2) vô-tác giải-thoát, và (3) Không-giải-thoát.
Như vậy, trí tương tự tu theo Đạo
mà chẳng khởi lên hình tướng, đó là
vô-tướng giải-thoát. Tu mà chẳng có lòng mong cầu hay ước nguyện
nào khác, đó là vô-tác giải-thoát.
Tu mà chẳng có sự chấp thủ nào, chẳng vướng mắc tríu mến
điều nào,
đó là Không-giải-thoát.
Lại nữa, khi quán kiến ba loại giải thoát
đó, thì thành tựu được các đạo; khi
đắc được một loại giải thoát, thì cả ba loại giải thoát
đều thành tựu.
Hỏi: Thế nào là quán ba giải thoát mà thành tựu
được các đạo?
Đáp: Do quán kiến vô thường mà thành
được vô-tướng giải-thoát. Do quán kiến khổ mà
thành được vô-tác giải-thoát. Do quán kiến vô
ngã mà thành được Không-giải-thoát.
Hỏi: Thế nào là quán kiến vô thường mà thành
được vô-tướng giải-thoát?
Đáp: Do vô thường, hiện tác ý thấy chư hành diệt
đi mà khởi thành tâm
được giải thoát, nên
đắc tín căn và bốn căn
kia. Biết được đúng như thật hình tướng của tất cả chư hành
đều vô thường làm khởi lên lo sợ, từ
đó tâm trí khởi lên vượt qua các hình
tướng ấy mà đến chỗ vô tướng, khiến cho thân
đắc được giải thoát. Như thế, do quán vô thường mà thành
được vô-tướng giải-thoát.
Hỏi: Thế nào là quán kiến khổ mà thành tựu
được vô-tác giải-thoát?
Đáp: Do theo Khổ mà hiện tác ý, lấy sự lo sợ về nỗi khổ của
chư hành mà khởi lên tâm muốn được an tịch
nhiều; nhờ đó, đắc được định căn và bốn căn
kia. Biết được đúng như thật nỗi khổ sở nơi chư hành, thành ra thấy
được sự Khổ, và do sự lo sợ khổ mà tâm
trí khởi lên vượt đến cõi vô sanh (=
chẳng phải bị tái sanh nữa), lấy sự vô tác, chẳng còn mong muốn, chẳng
tham cầu nữa, khiến cho thân được giải thoát.
Như thế, do quán kiến Khổ mà thành tựu
được vô-tác giải-thoát.
Hỏi: Thế nào là quán kiến vô ngã mà thành
được Không-giải-thoát?
Đáp: Do theo vô ngã mà hiện tác ý, lấy tánh không của chư
hành mà khởi lên tâm rất chán ghét chúng; nhờ
đó, đắc được huệ căn với bốn căn kia. Biết được đúng như thật tướng Không
của chư hành và tướng sanh, thành ra thấy
được tất cả mọi pháp đều vô ngã, lấy
sự lo sợ tướng vô ngã cùng tướng sanh mà khởi lên tâm trí vượt qua
đến vô tướng, vô sanh diệt, đến Niết-bàn,
khiến cho thân được Không-giải-thoát. Như
thế, do quán kiến vô ngã mà thành tựu
được Không-giải-thoát.
Như thế, do quán kiến ba giải thoát mà thành tựu
được tất cả các đạo.
Hỏi: Thế nào là đắc được ba giải thoát
thì thành tựu được một đạo?
Đáp: Nếu đã
đắc được vô-tướng giải-thoát, thì cả
ba giải thoát đều thành tựu cả. Tại
sao vậy? Người nầy lấy tâm đã
đắc được vô tướng, mà tự giải thoát
cho mình chỗ đã mong cầu và chỗ
đã chấp trước, trước kia.
Nếu đã
được vô-tác giải-thoát thì cả ba giải thoát
đều thành tựu cả. Tại sao vậy? Vì lấy
tâm đã
được giải thoát mà tự giải thoát cho mình khỏi các tướng
đã cố chấp.
Đắc được Không-giải-thoát thì cả ba giải thoát
đều thành tựu cả. Tại sao vậy? Nếu tâm
trước kia bị dính mắc hiện nay được thoát ly,
đó là do sự giải thoát khỏi hình tướng và sự mong cầu.
Như thế, cả ba giải thoát đều thành
tựu chung một đạo.
Hỏi: Giải thoát và giải thoát môn khác nhau
thế nào?
Đáp: Thoát khỏi các phiền não
đang che mờ trí hiểu biết về Đạo, gọi là giải thoát.
Được vào cửa Niết-bàn,
đó gọi là giải thoát môn (môn
= cửa vào).
Lại nữa, giải thoát có nghiã là trí hiểu biết về
Đạo, còn
đối tượng của Đạo, tức là Niết-bàn, đó
gọi là giải thoát môn.
Hỏi: Thế nào là phiền não?
Đáp: Có tất cả một trăm ba mươi
bốn phiền não: ba căn chẳng lành
(= bất thiện căn), ba
điều mong cầu (= mịch), bốn rỉ
chảy (= lậu), bốn ràng buộc (= kết), bốn tràn ngập (= lưu),
bốn ách, bốn bám níu (= thủ), bốn hành nghiệp sa vào nẻo dữ (=
ác thú hành), năm keo kiệt (=
khan), năm che đậy (= ngũ cái),
sáu căn tranh cãi (= tránh căn),
bảy sự bị sai khiến ở thế gian (= sử thế gian), tám pháp, chín kiêu
căng (= mạn), mười nơi phiền não, mười
đường gây nghiệp dữ (= thập bất
thiện nghiệp đạo), mười
điều ràng buộc (= thập kết),
mười tà kiến, mười hai điều điên
đảo, mười hai tâm sở chẳng lành.
Ba căn chẳng lành (= tam bất
thiện căn) là tham, giận và si mê.
Nơi ba căn đó, giận thì
được ba đạo làm cho trở nên mỏng mẻo;
tham đến quả A-na-hàm,
được diệt hết chẳng còn dư sót; còn
si mê được ba đạo dũa mòn cho
thành thưa thớt, đến A-la-hán đạo mới tận
diệt.
Ba điều mong cầu (= tam mịch)
gồm có mong cầu dục lạc, mong cầu được hiện
hữu mãi, mong cầu được sanh lên
cõi Trời Phạm. Trong ba sự mong cầu đó, việc
cầu sanh cõi Trời Phạm thì khi đắc
Tu-đà-huờn đạo mới dứt hẳn; sự mong
cầu hưởng các thú vui ham muốn (= dục mịch) thì
đến A-na-hàm
đạo mới diệt; còn khát vọng
được hiện hữu mãi (= hữu mịch)
đến A-la-hán đạo mới bỏ hẳn.
Bốn rỉ chảy (= tứ lậu) gồm có dục lậu, hữu lậu, kiến lậu,
vô minh lậu (lậu = rỉ chảy; dục = ham muốn; hữu =
hiện hữu, cuộc sống; kiến lậu = tà kiến; vô minh = si mê).
Trong bốn lậu đó, kiến lậu
được diệt ở Tu-đà-huờn
đạo; dục lậu diệt ở A-na-hàm
đạo; còn hữu lậu và vô minh
lậu đến A-la-hán đạo mới chấm dứt.
Bốn điều ràng buộc (= tứ kết)
là bốn điều mà thân bị ràng buộc: (1)
vì ham muốn, (2) vì giận hờn, (3) vì giới cấm thủ và (4) vì cho
đó là Chơn lý. Thân bị ràng buộc vì
giới cấm thủ và vì cho đó là Chơn lý,
thì được Tu-đà-huờn
đạo diệt đi. Thân bị ràng buộc vì giận
hờn đến A-na-hàm
đạo mới trừ xong.
Thân bị ràng buộc vì tham đến A-la-hán đạo
mới trừ dứt.
Bốn tràn ngập (= tứ lưu) gồm có: dục lưu, hữu lưu, kiến
lưu, và vô minh lưu. Bốn ách (= tứ ách) gồm có: dục
ách, hữu ách, kiến ách và vô minh ách, về cách tận diệt, xem
lại bốn rỉ chảy (= tứ lậu) như
đã nói qua.
Bốn điều bám níu (= tứ thủ)
chia ra làm: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ
(= chấp vào lời tôi nói). Ba điều chấp thủ
sau thì được Tu-đà-huờn
đạo diệt trừ, còn dục thủ thì
đến A-la-hán đạo mới diệt xong.
Bốn hành nghiệp dẫn đến các nẻo ác
(= tứ ác thú hành) là những hành
động tạo nghiệp khiến phải tái sanh vào các nẻo dữ ác;
đó là vì ham muốn, vì giận hờn, vì sợ
hãi, vì si mê. Chấm dứt các hành động gây
nghiệp đó khi tu theo Tu-đà-huờn đạo.
Năm keo kiệt (= ngũ khan)
là keo kiệt về nơi cư trú, về gia đình,
về lợi dưỡng, và về pháp; cả năm thứ keo kiệt
nầy đến A-na-hàm đạo thì diệt
xong.
Năm che đậy (= ngũ cái)
là năm triền cái: ham muốn (để thoả mãn
các giác quan), giận hờn, lười nhác, ham ngủ cùng xao
động, kiêu căng
cùng nghi ngờ. Nghi ngờ diệt được ở
Tu-đà-huờn đạo. Ham muốn, giận hờn và
kiêu căng thì
đến A-na-hàm
đạo mới diệt hết. Còn lười nhác và xao
động đến A-la-hán đạo mới trừ xong. Ham ngủ
nghỉ thì tùy theo sắc.
Sáu căn tranh cãi (= lục
tránh căn) là những tâm sở:
phẫn (= hay nổi giận), phú (= che dấu), tật (= ganh tị),
siểm (= nịnh bợ), ác lạc (= thích làm ác) và kiến xúc
(= về tà kiến). Ba tâm sở sau diệt được ở
Tu-đà-huờn đạo; còn ba tâm sở
trước đến A-na-hàm
đạo mới diệt hết.
Bảy sự bị sai khiến (= thất sử) gồm có các sự bị sai khiến:
vì ham muốn, vì giận hờn, vì kiêu căng, vì
tà kiến, vì nghi ngờ, vì ham muốn được hiện
hữu (= sống) mãi, vì vô minh. Bị tà kiến và sự nghi nan sai khiến
thì đến Tu-đà-huờn
đạo diệt trừ xong . Bị sai khiến vì
lòng ham muốn và vì giận hờn, thì đến A-na-hàm
đạo mới trừ xong. Bị sai khiến vì kiêu
căng, vì ham muốn sống mãi, và vì vô
minh thì đến A-la-hán đạo mới tận trừ.
Tám ngọn gió ở thế gian (= thế gian bát thế pháp) là lợi,
suy, nói xấu, tâng bốc, khen, chê, khổ, vui. Bốn ngọn gió suy, nói xấu,
chê, khổ, làm cho giận hờn thì đến A-na-hàm
đạo diệt hết; bốn món còn lại gây ra
ưa thích phải đến A-la-hán đạo mới trừ xong.
Chín sự kiêu căng xảy ra,
khi nói hay nghĩ rằng: (1) tôi hơn bực cao, (2) tôi bằng bực cao, (3)
tôi chỉ thua bực cao, (4) tôi hơn kẻ bằng tôi, (5) tôi bằng với kẻ bằng
tôi, (6) tôi chỉ thua kẻ bằng tôi, (7) tôi hơn bọn dưới, (8) tôi bằng các
người thấp, (9) tôi chỉ thua các người thấp. Chín sự kiêu mạn
đó đến A-la-hán đạo mới trừ tiệt.
Mười nơi phiền não là tham, giận, si mê, kiêu căng,
tà kiến, nghi nan, lười nhác, xao
động, chẳng biết tự thẹn, chẳng biết thẹn với người. Tà kiến và
nghi nan thì Tu-đà-huờn
đạo diệt trừ; A-na-hàm
đạo thì trừ giận; bảy nơi phiền não
còn lại đến A-la-hán đạo mới dẹp xong.
Lại nữa, còn có mười nơi phiền não nầy, khi nghĩ rằng: kẻ ấy
đã, đang,
và sẽ làm phiền tôi; hoặc kẻ ấy đã,
đang và sẽ gây phiền não cho người
thân của tôi, hoặc kẻ ấy đã,
đang và sẽ trợ giúp kẻ thù của tôi, và
như thế mà có hành động chẳng thích đáng. Các
nơi phiền não nầy đến A-la-hán đạo mới
diệt được hết.
Mười đường gây nghiệp dữ là sát
hại sanh mạng, lấy của chẳng được cho, tà
hạnh, nói dối, nói ác độc, nói lưỡi hai
chiều, nói thêu dệt, tham, giận và tà kiến. Sát sanh, trộm cắp, tà
hạnh, nói dối và tà kiến được dẹp xong ở Tu-đà-huờn
đạo. Nói ác độc, nói lưỡi hai chiều và
giận đến A-na-hàm
đạo thì dứt. Nói thêu dệt và tham,
phải đến A-la-hán đạo mới trừ xong.
Mười kết sử (kết = bị ràng buộc; sử = bị sai sử) là
dục sử (dục = ham muốn), sân sử (sân = giận),
mạn sử (mạn = kiêu căng),
kiến sử (kiến = tà kiến, ý kiến sai lầm), nghi sử
(= nghi nan), giới thủ sử (giới thủ = cố chấp vào các
giới mê tín), hữu nhiễm sử (hữu =
đời sống, nhiễm = nhuốm dơ),
tật sử (tật = ganh ghét), khan sử (khan = rít
róng), vô minh sử (vô minh = si mê). Các kết sử về tà kiến,
giới cấm thủ, và nghi nan được dẹp trừ ở Tu-đà-huờn
đạo. Các kết sử dục nhiễm, giận, ganh ghét, và
rít róng đến A-na-hàm
đạo thì dẹp xong. Các kết sử về kiêu căng,
hữu nhiễm và vô minh đến A-la-hán đạo
mới quét sạch.
Mười tà biên kiến là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ (ở
đây là vọng ngữ, nói dối), tà nghiệp,
tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà
trí, tà giải thoát. Tu-đà-huờn
đạo dẹp trừ các tà kiến: tà kiến, tà
ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà trí, tà giải thoát. Tà tư duy, tà ngữ (ở
đây là ác ngữ, lời
độc ác), nói lưỡi hai chiều, đến A-na-hàm
đạo thì diệt. Tà ngữ (ở
đây là ỷ ngữ, lời nói thêu dệt), tà
tinh tấn, tà niệm, tà định, đến A-la-hán mới
diệt hết. (Tà biên kiến = tà kiến ở ngoài bìa; biên =
ngoài bià).
Mười hai điên
đảo là tưởng
điên đảo,
tâm điên
đảo và kiến
điên đảo,
liên quan đến vô thường cho là
thường, khổ cho là vui, dơ cho là sạch, vô ngã cho là ngã. (...) Kiến
điên đảo
về khổ với lạc, về bất tịnh với tịnh, được Tu-đà-huờn
đạo diệt. Tưởng điên
đảo và tâm
điên đảo
về bất tịnh với tịnh, được A-na-hàm
đạo dẹp. Tưởng điên đảo và tâm
điên đảo
về khổ với vui, được A-la-hán đạo trừ dứt.
Mười hai tâm sở bất thiện khởi lên là, (1) cùng với hỉ,
chẳng do ngoại duyên, tâm khởi lên kiến tương ứng; (2) cùng với
hỉ, do theo ngoại duyên, tâm khởi lên kiến tương ứng; (3) cùng
với hỉ, chẳng do ngoại duyên, tâm khởi lên kiến chẳng tương
ứng; (4) cùng với hỉ, do theo ngoại duyên, tâm khởi lên kiến
chẳng tương ứng; (5) cùng với xả, chẳng do ngoại duyên, tâm khởi
lên kiến tương ứng; (6) cùng với xả, do theo ngoại duyên,
tâm khởi lên kiến tương ứng; (7) cùng với xả, chẳng do ngoại
duyên tâm khởi lên kiến chẳng tương ứng; (8) cùng với xả, do
theo ngoại duyên, tâm khởi lên kiến chẳng tương ưng; (9) cùng với
lo âu, chẳng do ngoại duyên, tâm khởi lên giận hờn tương
ứng; (10) cùng với lo âu, do theo ngoại duyên, tâm khởi lên giận
hờn tương ứng; (11) tâm khởi lên cùng với trạo cử (= xao
động), (12) tâm khởi lên cùng với
nghi nan.
Như vậy, tâm sở bốn kiến tương ứng và tâm sở nghi nan,
cùng khởi lên, đến Tu-đà-huờn
đạo, thì
được diệt trừ. Hai tâm sở lo âu và giận hờn,
đến Tư-đà-hàm
đạo thì
được dũa mòn và được A-na-hàm
đạo quét sạch chẳng còn dư sót. Tâm sở
bốn kiến chẳng tương ứng, và tâm sở trạo cử, cùng khởi lên,
được ba đạo trước dũa thành mỏng mảnh,
đến A-la-hán đạo thì dẹp sạch chẳng
còn sót lại.
Hai chánh thọ có nghiã là, chánh thọ mà kẻ phàm phu chẳng
thể đắc được, và chánh thọ về quả
đã thành tựu
được sự diệt tận của thọ ấm và tưởng
ấm.
Hỏi: Thế nào là quả chánh thọ? Tại sao lại gọi là quả
chánh thọ? Ai tu? Ai niệm khởi lên được? Tại
sao lại tu? Thế nào là tác ý để thành
tựu được? Có bao nhiêu nhân duyên
để khởi lên,
để an trú vào? Chánh thọ thuộc pháp
thế gian hay pháp xuất thế gian?
Đáp: Quả chánh thọ có nghiã là,
đó là quả Sa-môn, tâm được an trú
trong cảnh giới Niết-bàn. Tại sao vậy? Quả chánh thọ chẳng phải là
thiện, cũng chẳng phải là chẳng thiện, chẳng có
đối tượng, là
đạo xuất thế do quả báo mà thành. Do
đó, bực A-la-hán cùng bực A-na-hàm
nhập vào định mà thành mãn
được quả chánh thọ.
Lại có thuyết cho rằng, các bực Thánh nhơn có thể khiến khởi lên quả
chánh thọ. Như A-tỳ-đàm (=
Abhidhamma, Luận Tạng) có nói: "Để đắc
được Tu-đà-huờn đạo, quả chánh thọ trừ
sanh, nên gọi là đó là
tánh trừ." (...)
Lại còn có thuyết cho rằng, chỉ các bực Thánh nhơn
đã diệt trừ xong hết các lậu hoặc, mới
khởi lên đầy đủ định nầy, như Trưởng lão
Na la đà có nói với chư Tỳ-kheo: "Ví
như giữa rừng cây trên núi, có một giếng nước sâu mà chẳng có dây
gàu để kéo nước lên. Bấy giờ có một
người đang dang nắng, khát nước và mệt
mỏi, nhìn thấy giếng nước, nhưng thân chẳng làm sao múc nước
được. Tôi đây cũng thế, biết rõ và
khéo thấy như thật rằng, hữu nầy diệt tận tức là Niết-bàn, nhưng
tôi còn chưa phải là bực A-la-hán, đâu đã
trừ xong hết các lậu hoặc."
Hỏi: Vì sao khiến khởi lên chánh thọ?
Đáp: Vì hiện thấy rõ Chánh pháp nên muốn trú vào cảnh giới
an lạc. Như Thế tôn có dạy Đại Đức A-nan:
"Nầy A-nan, vào lúc ấy, Như lai chẳng tác ý tất cả mọi tướng, chỉ
diệt thọ khiến tâm vô tướng an trú trong
định. Lúc bấy giờ, nầy A-nan, thân Như lai thành an ổn."
Hỏi: Làm cách nào để khởi lên
chánh thọ?
Đáp: Người toạ thiền đi đến nơi
yên vắng, hoặc ngồi, hoặc nằm, muốn
đắc được quả chánh thọ, quán tưởng về sự khởi sanh và sự tiêu diệt
của chư hành, cho chí đến tánh trừ trí. Chẳng
gián đoạn, tánh trừ trí liền khiến an trú vào quả chánh thọ nơi
Niết-bàn. Y theo thiền nầy thì thành tựu được
Đạo, đó là tác dụng của thiền nầy, nên gọi là quả chánh thọ.
Hỏi: Tác ý như thế nào?
Đáp: Do theo sự an tịch mà tác ý về quả Niết-bàn vô vi thì
quả chánh thọ được thành tựu.
Hỏi: Nhờ nhân duyên nào mà khởi lên và an trú vào quả chánh thọ?
Đáp: Quả chánh thọ có hai nhân duyên: chẳng tác ý về tất cả
mọi tướng, chỉ tác ý nơi vô tướng giới. Có ba nhân duyên
để an trú được vào quả chánh thọ:
chẳng tác ý về tất cả mọi tướng, tác ý về vô tướng giới, và có sự chuẩn bị
trước. Có hai nhân duyên để xuất ra khởi quả
chánh thọ: tác ý về tất cả mọi tướng, chẳng tác ý về vô tướng giới.
Hỏi: Quả chánh thọ là định thế gian
hay xuất thế gian?
Đáp: Quả đó là chánh thọ
xuất thế, chẳng phải là định thế gian.
Hỏi: Bực A-na-hàm hiện quán quả định,
tại sao tánh trừ trí chẳng sanh ngay liền A-la-hán đạo?
Đáp: Chẳng sanh vì chưa đến
nơi, sức quán kiến còn yếu ớt. Do đó mà
có hai quả khác nhau: (1) thắng quả thì thành có
đạo và có quả của tánh trừ trí,
vì hiện tác chứng; (2) nhập quả định thành
chẳng có đạo, và theo diệt
định khởi thành chẳng có quả tánh
trừ.
Quả chánh thọ chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Định diệt thọ
tưởng?
Đáp: Chẳng sanh khởi tâm và các tâm sở,
đó gọi là
Định Diệt thọ tưởng.
Hỏi: Ai khởi lên được Định Diệt thọ
tưởng?
Đáp: Bực A-la-hán và A-na-hàm khởi lên
đầy đủ Định Diệt thọ tưởng.
Hỏi: Ai chẳng có khả năng khởi lên
Định ấy?
Đáp: Kẻ phàm phu, bực Tu đà
hườn, Tư-đà-hàm và những người sanh
cõi vô sắc giới. Vì chẳng cùng chung một cảnh giới, nên kẻ phàm phu chẳng
thể khởi lên Định Diệt tho tưởng. Bực Tu-đà-huờn
và Tư-đà-hàm, vì chưa
đoạn trừ hết các phiền não làm chướng
ngại, nên cũng chẳng thể khởi lên Định ấy. Vì
chẳng cùng chung một cảnh giới nên các người sanh cõi vô sắc giới, cũng
chẳng thể khởi lên Định ấy.
Hỏi: Có đủ bao nhiêu lực mới
khởi lên được Định ấy?
Đáp: Cần có đủ hai lực nầy mới
khởi lên Định Diệt thọ tưởng được:
định lực (= Xa-ma-tha) và huệ lực (= Tì-bà-xá-na).
Như vậy, dùng định lực là do nhập
định được tự tại. Dùng huệ lực là
đã thuần thục trong bảy pháp quán. Bảy
pháp quán đó là những gì? Quán về vô
thường, về Khổ, về vô ngã, về sự nhàm chán, về sự vô nhiễm (= chẳng nhuốm
dơ), về sự tiêu diệt, về sự xuất ly (= rời xa).
Định lực (= Xa-ma-tha) làm
cho các thiền chi diệt đi và làm cho
được giải thoát bất động. Huệ lực
(= Tì-bà-xá-na) khiến thấy được các
lỗi lầm của sự sanh và đắc được vô
sanh giải thoát.
Hỏi: Phải trừ bao nhiêu hành động để
khởi lên Định?
Đáp: Trừ ba hành động sau đây
để khởi lên Định: hành
động của miệng, của thân và của tâm.
Như thế, nhập được vào Nhị thiền, thì
giác và quán về hành động của miệng lấy đó làm
chỗ phải trừ. Nhập vào Tứ thiền, hơi thở ra, hơi thở vào của thân hành làm
chỗ phải trừ. Nhập vào Định Diệt thọ tưởng,
thì thọ, tưởng, và tâm hành là chỗ phải trừ.
Hỏi: Trước cần phải làm những việc gì?
Đáp: Trước cần phải tuân hành bốn
điều: (1) áo cà-sa, bình bát,
để trong bọc, cần phải giữ gìn; (2)
các phương tiện và vật dụng thưòng dùng chẳng
để lộn xộn, (3) bảo vệ thân sức, xét việc làm cho xứng với sức
mình, lấy ngày tháng mà phân biệt thuở xa xưa; (4) xét sự việc cho phải
thời, như chưa tới giờ hội họp chúng Tăng thì
cứ ngồi lại, đợi lúc kêu tên. Như thế
đìều (1) là
để giữ áo cà-sa; các
điều (2) và (3) là
để phòng hộ thân thể, và
điều (4) là
để chẳng phương hại đến sự hoà hiệp
của Tăng đoàn. Như thế là
để an trú vào vô sở hữu xứ, hoặc làm
xong các điều cần làm nêu trên, rồi
nhập Sơ thiền.
Hỏi: Tại sao lại khiến khởi lên Định
ấy?
Đáp: Vì muốn được trú vào
an lạc ngay trong hiện tại. Vì đây là
Định tối hậu của các bực Thánh nhơn trong
cảnh bất động. Lại vì muốn đắc thần
thông, nhập vào Định rộng rãi,
như trường hợp của Trưởng lão A-la-hán Sanjiva. Lại cũng vì
để phòng thủ thân như trường hợp của
các Trưởng lão Xá-lợi-phất (Sariputta), Bạch lộ tử
Đề-sa (Tissa).
Hỏi: Làm cách nào để khởi lên
Định ấy?
Đáp: Người toạ thiền đi đến trú
nơi yên vắng, hoặc ngồi, hoặc nằm, vui muốn nghĩ
đến ý tưởng về Diệt, vui muốn nhập vào
Diệt định, rồi nhập vào Sơ thiền, kế
xuất ra được an tường, liền thấy chẳng gián
đoạn được thiền đó và vô thường, khổ, vô ngã cho
đến khi trí có niệm xả đối với tất cả chư hành.
Khi ấy, lần lượt từ các cõi Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Hư-Không-xứ,
thức xứ, vô sở hữu xứ, người theo thứ lớp nhập vào và xuất ra
được an tường, liền thấy, chẳng gián đoạn,
Chánh định, vô thường, khổ, vô ngã, cho
đến niệm xả đối với tất cả chư hành.
Vào lúc ấy, người liền, chẳng gián đoạn, nhập
vào phi phi tưởng xứ, và theo đó hoặc
hai lần, hoặc ba lần, khởi lên tâm phi phi tưởng; tâm ấy khởi xong,
liền khiến nó diệt đi, khi tâm ấy đã
diệt liền nhập vào cảnh giới chẳng sanh, chẳng hiện,
đó gọi là nhập vào Diệt thọ tưởng
Định.
Hỏi: Làm thế nào để theo đó trú trong
Định ấy?
Đáp: Người toạ thiền chẳng nên tác ý như vầy: "Tôi sẽ xuất
ra, trở lại lúc ban đầu đã làm những
gì." (...)
Hỏi: Tâm như thế nào khi đã
xuất Định?
Đáp: Bực A-na-hàm tâm xuất ra nơi quả A-na-hàm; bực
A-la-hán, tâm xuất ra nơi quả A-la-hán.
Hỏi: Khi xuất Định xong, tâm ở vào
nơi nào?
Đáp: Tâm chuyên duyên theo sự an tịch.
Hỏi: Tâm đã tiếp xúc với những
nơi nào?
Đáp: Có ba nơi đã tiếp
xúc được: tiếp xúc với Không, với vô tướng và
với vô tác (= vô nguyện).
Hỏi: Khi mới xuất ra, theo hành động nào?
Đáp: Theo thân hành và và theo khẩu hành.
Hỏi: Người chết và người nhập Diệt thọ tưởng
Định khác nhau ra sao?
Đáp: Người chết thì ba hành
động ở thân, miệng và ý chấm dứt chẳng hiện ra nữa, thọ mạng
đã dứt, sức nóng hết, các căn
mất. Người nhập Định Diệt thọ tưởng ba hành
động ở thân, miệng, ý mất đi, nhưng chẳng mất
thọ mạng, sức nóng vẫn còn, các căn
chẳng đổi khác. Đó là chỗ sai biệt.
Hỏi: Định Diệt thọ tưởng là hữu
vi hay vô vi?
Đáp: Chẳng thể nói Định ấy hữu
vi hay vô vi được.
Hỏ i: Tại sao thế?
Đáp: Pháp hữu vi, nơi Định nầy,
thì chẳng có. Xuất ra và nhập vào pháp vô vi, thì cũng chẳng thể
biết được. Vì thế, chẳng thể nói
Định nầy là hữu vi hay vô vi.
Diệt thiền định chấm dứt.
(Giải Thoát Đạo Luận: Phẩm
12; Phân biệt Đế chấm dứt)
-ooOoo-
Sau đây là số thứ tự các Phẩm:
1) Nhân duyên
2) Giới
3) Đầu-đà
4) Phân biệt về Định
5)Tìm gặp Thiện tri thức
6) Phân biệt về Tánh hạnh
7) Phân biệt về Hành xứ
8) Hành môn
9) Năm Thần thông
10) Phân biệt về Huệ
11) Năm Phương tiện
12) Phân biệt về Đế.
Đó là 12 Phẩm theo thứ tự của Giải-Thoát-Đạo
Luận.
Có Kệ rằng:
Vô lượng, vô biên, chẳng chi bằng,
Lời hay khéo nói chẳng thể bàn.
Nơi pháp nầy, ai người siêng biết?
Chỉ năng ngồi thiền mới thọ trì.
Đạo vi diệu khéo hành Giáo pháp,
Dứt xong lậu hoặc, lià vô minh.
(Giải Thoát Đạo Luận: Quyển
12 chấm dứt)
-----*-----
Thiện Nhựt
Phỏng dịch xong ngày 28 tháng 5, 2003
-ooOoo-