PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm Hiểu
Phẩm 10:
Phân biệt Huệ.
Chuyển tiếp: Con đường giải
thoát theo trong Luận văn, gồm có
việc tu tập Giới, Định
và Huệ. Trong chín Phẩm trước, Luận văn
lần lượt trình bày đường lối tu tập để
giữ Giới cho thanh tịnh,
để tâm
được an trú vào
Định lực, nhằm
đến mục tiêu cuối cùng là phát
triển được Trí Huệ.
Phẩm 10 nầy trình bày các hình thức của Trí Huệ Bát-nhã
đưa hành giả
đến nơi giác ngộ và giải thoát.
080. Dàn bài của Phẩm 10: Phân biệt Huệ.
I. Nhập đề: Chẳng
thấy có phần Nhập đề, Luận văn đi thẳng vào
định nghiã Trí huệ là gì.
II. Thân bài: Thân bài chia ra hai phần rõ rệt: (1)
thế nào là Trí huệ và công đức của Trí
Huệ; (2) các loại Trí huệ.
A. Thế nào là Trí huệ / Bát-nhã: phiên âm chữ Phạn Prajna,
chữ Pàli Panna.
1. Hình tướng và chức năng của Trí Huệ:
11. Huệ là nhìn sự vật đúng như
thật.
12. Định nghiã trong A-tỳ-đàm:
phân biệt việc lợi ích và chẳng lợi ích.
13. Trí Huệ và Bát-nhã.
14. Các chức năng của Trí Huệ / Bát-nhã:
chọn lựa đúng; đưa đến Chánh trí; sức
mạnh phá tan ngu si; ánh sáng như ngọn đèn; qúi như bảo vật.
15. Phạm vi của Trí Huệ: bốn Chơn lý Nhiệm mầu;
16. Các công đức của Trí Huệ: bài
Kệ trong Luận văn
17. Nghiã của Trí Huệ: đoạn trừ phiền não.
B . Các loại Trí Huệ:
Chỉ có một Trí Huệ Bát-nhã nhưng biểu lộ ra dưới nhiều hình
thức. Luận văn sắp xếp thành hai
loại, ba loại và bốn loại.
1. Hai loại Trí Huệ:
11. Trí Huệ ở thế gian, còn nhiều lậu hoặc;
12. Trí Huệ xuất thế gian, dứt lậu hoặc.
2. Ba loại Trí Huệ:
21. Văn huệ, Tư Huệ và Tu Huệ:
Văn Huệ: nhờ nghe mà
được huệ;
Tư Huệ: do suy tư mà khởi lên Huệ;
Tu Huệ: do tu nhập vào chánh định.
22. Huệ đến, Huệ đi và
Huệ phương tiện:
Huệ đến làm lợi cho nghiệp
lành;
Huệ đi làm tăng
ác nghiệp;
Huệ phương tiện dùng tất cả mọi phương tiện
để làm tăng
việc hành thiện.
23. Huệ tụ, chẳng tụ, và Huệ vừa tụ vừa chẳng tụ:
Huệ tụ tích luỹ nghiệp lành ở ba nghiệp;
Huệ chẳng tụ ở bốn đạo hàng
Thanh văn;
Huệ vừa tụ vừa chẳng tụ: Huệ ở bốn quả hàng Thanh văn,
tụ ba nghiệp lành, mà chẳng tụ ở bốn quả.
3. Bốn loại Trí Huệ:
31. Huệ tùy nghiệp, Huệ hợp Chơn lý, Huệ liên hệ
Đạo, Huệ liên hệ Quả:
Huệ tùy nghiệp: khởi lên tại các lãnh vực của Chánh kiến;
Huệ hợp Chơn lý: khởi lên khi thấy các
đặc tướng Khổ, Vô thường, Vô
ngã.
Huệ liên hệ Đạo khởi lên khi
hiểu rõ bốn Đạo hàng Thanh văn;
Huệ liên hệ Quả khởi lên khi
đắc bốn Quả hàng Thanh văn.
32. Huệ dục giới, sắc giới, vô sắc giới,
đạo quả:
Huệ dục giới khởi lên khi làm việc thiện xác
định ở cõi dục giới;
Huệ sắc giới khởi lên khi làm các việc thiện xác
định ở cõi sắc giới;
Huệ vô sắc giới khởi lên khi làm các việc thiện xác
định ở cõi vô sắc giới.
Huệ liên hệ với Đạo và quả
khởi lên khi tu tập bốn Đạo và bốn
Quả Thanh văn
33. Pháp trí, tỉ trí, tha tâm tâm trí và
đẳng trí:
Pháp trí khởi lên khi tu tập các
Đạo Quả trong Chánh pháp;
Tỉ trí khởi lên khi hiểu biết sự việc quá khứ, hiện tại
và vị lai;
Tha tâm trí khởi lên khi hiểu được
tâm của kẻ khác;
Đẳng trí khởi lên ngoài ba
địa hạt trên.
34. Huệ do nhàm chán, chưa thông đạt;
Huệ chẳng do nhàm chán mà thông đạt;
Huệ do nhàm chán mà thông đạt, và
Huệ chẳng do nhàm chán, chẳng thông đạt:
Huệ do nhàm chán tham dục nhưng chưa thông
đạt Bốn Chơn Lý nhiệm mầu
Huệ chẳng do nhàm chán mà thông
đạt được bốn Đạo và bốn Quả Thanh
văn;
Huệ do nhàm chán các tham dục mà thông
đạt được bốn Quả và bốn
Đạo
Các Huệ còn lại thuộc nhóm thứ tư.
35. Có bốn loại Huệ về biện luận:
Huệ nghiã biện: phân biệt rõ về nghiã;
Huệ pháp biện: thông đạt Chánh pháp;
hiểu rõ đầy đủ 12 loại bộ kinh;
Huệ từ biện: phân biệt rõ ngữ nguyên; giải thích rõ
nghiã và lời;
Huệ lạc thuyết biện: phân biệt chính sự hiểu biết, và thuyết
giảng chẳng ngại.
36. Bốn loại Trí: Khổ trí, Tập trí, Diệt trí,
Đạo trí.
Nơi Khổ trí, Huệ khởi khi hiểu Khổ
đế;
Nơi Tập trí, Huệ khởi khi hiểu Tập
đế, các nguyên nhân gây ra
Khổ;
Nơi Diệt trí, Huệ khởi khi thực hiện việc tận diệt các nguyên
nhân gây ra Khổ
Nơi Đạo trí, Huệ khởi khi
thi hành theo Bát Chánh Đạo.
III. Kết luận: Chẳng thấy phần Kết luận của Phẩm 10.
081. Tìm hiểu nghiã các chữ khó của Phẩm 10:
Huệ: Huệ = Trí Huệ = dịch nghiã chữ Bát-nhã. Chữ
Bát-nhã vốn do phiên âm chữ Phạn Prajna, chữ Pàli Panna,
có nghiã trí thông minh hiểu biết mọi sự vật. Sở dĩ Kinh sách thường chẳng
dịch chữ Bát-nhã mà chỉ phiên âm, là vì các bực
đại sư sợ người đời lẫn lộn trí
thông minh thông thường với Trí Huệ Bát-nhã. Chỗ khác nhau giữa
hai trí đó là, một
đằng thông minh, lanh lợi, bặt thiệp, nhưng
chỉ nhằm mục đích đem mối lợi về cho mình, còn
đằng khác, Trí Huệ Bát-nhã thì
có khả năng đưa hành giả
đến bờ giác ngộ và giải thoát.
Nói cách khác, trí thông minh là trí tại thế gian; trong
khi Trí Huệ Bát-nhã là trí xuất thế gian.
A-tỳ-đàm: phiên âm chữ Pàli
Abhidhamma, dịch nghiã là Luận tạng, các bộ Luận, bàn về Chánh
pháp, trong Tam Tạng Kinh điển. Còn
được dịch là Vi diệu pháp,
nghiã là các pháp vi diệu, nhiệm mầu, giúp cho hành giả tu tập
để đi đến giác ngộ và giải thoát.
Chánh trí: Xem lại trang 455, Phẩm 8.
Huệ trượng: Huệ = trí huệ; Trượng = gậy gộc, một thứ
vũ khí. Ví Bát-nhã như Huệ trượng, vì với Trí Bát-nhã ta có
thể đánh dẹp các sự cám dỗ, các mối đe doạ,
để phòng thân.
Huệ câu: Huệ = trí huệ; Câu liêm = loại vũ khí dài, ở
đầu có móc câu nhọn. Lý do ví
Bát-nhã với một vũ khí là vì Bát-nhã có sức mạnh tinh thần giúp
ta phòng vệ thân tâm.
Huệ quang, Huệ minh, Huệ
đăng: Huệ = trí huệ; Quang = ánh sáng; Minh =
sáng; Đăng = đèn.
Bát-nhã chiếu sáng lên nên được ví như
ánh sáng, như ngọn đèn.
Huệ điện: Ví Bát-nhã
đẹp đẽ, lộng lẫy như cung điện
Huệ bảo: Bảo = vật qúi báu. Ví Bát-nhã với bảo vật.
Biện luận = tranh luận, bàn luận, bàn cãi hơn thua nhau về lý lẽ.
Chơn Như: Chơn = chơn thật, Như = như thế. Chơn
Như hoặc Như Như là tiếng chuyên môn trong Phật học
để nói đến Chơn Lý tuyệt đối.
Ngoại đạo: Ngoại =
ngoài; Đạo = tôn giáo. Chữ
ngoại đạo trong Phật học dùng
để chỉ các tôn giáo, các môn phái chẳng phải
là chánh tông của Phật giáo.
Nguyên gốc của chữ nầy chẳng có nghiã xấu, nhưng sau thường
được dùng
để chỉ các đạo phái mê tín, các bàng môn tả
đạo.
Thế pháp: Thế = đời, thế tục,
đời sống thường chưa tu hành. Sống theo thế pháp là sống
theo tục lệ, luật lệ ở đời.
Lý Nhân Duyên: Xem lại trang 496, Phẩm 8
Danh-Sắc: Xem lại các trang 422 và 426 Phẩm 8.
Tứ Đế = Tứ Diệu Đế: Tứ =
bốn; Diệu = nhiệm mầu, kỳ diệu; Đế
= Chơn lý, Sự Thật. Bốn Chơn lý Nhiệm mầu là Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế và
Đạo đế. (1) Khổ
đế là Chơn lý về sự khổ ở
đời; (2) Tập
đế là Chơn lý về nguốn gốc gây nên
sự khổ; (3) Diệt đế là Chơn lý
về sự tận diệt sự khổ, đắc được Niết-bàn;
(4) Đạo đế là Chơn lý về con
đường Bát Chánh
Đạo, có tám ngành,
đưa đến sự tận diệt các phiền não và
được giải thoát. Tứ Diệu
Đế được Đức Phật Thích-ca thuyết giảng lần
đầu tiên, sau khi Ngài thành Đạo, ở
vườn Lộc uyển cho năm anh em ông Kiều trần như nghe, gọi là Kinh
Chuyển Pháp Luân.
Khế Kinh: Khế = phù hợp với; Kinh = lời
Đức Phật giảng, được ghi chép lại trong Tam
Tạng Kinh Điển. Tại sao gọi là khế kinh? Vì Kinh của Phật
giảng khế lý, nghiã là phù hợp với Chơn Lý. Và vì Kinh của Phật
giảng khế cơ, nghiã là phù hợp với căn
cơ, với khả năng của người nghe. Hơn nữa, khi dịch chữ Phạn
Sutra, Pàli Sutta, ra tiếng Hán Việt bằng chữ Kinh, các
bực đại sư sợ lộn với Ngũ Kinh
của Đức Khổng Tử, nên dịch Kinh Phật
là khế kinh. Đôi khi, chữ
sutra chẳng được dịch mà chỉ phiên
âm là Tu-đa-la.
Kết sử: Kiết sử: Kết = ràng buộc; Sử = sai khiến. Có
mười kết sử, tức là mười mối tình cảm hay phiền não, ràng buôc thân
tâm, sai khiến ta phải hành động theo con
đường chẳng lành.
Đó là ngũ hạ kết, hoặc ngũ
độn sử, năm
mối ràng buộc của người căn cơ còn
thấp kém: (1) tham kết, (2) sân kết, (3) thân kết,
(4) giới cấm thủ kết, (5) nghi kết. Nói cách khác, năm
kết sử thấp nầy gồm có: tham, giận, có thân kiến (chấp thân tâm nầy là
Ta), tin thờ các nghi thức mê tín, dị doan, và sự nghi ngờ; các
tình cảm phiền não nầy che mờ con đường lành,
súi dục con người theo đường dữ.
Và ngũ thượng kết, hoặc ngữ lợi sử, năm
mối ràng buộc cao hơn, nhưng vẫn sai khiến con người hành
động chẳng đúng theo Chánh pháp: (6)
sắc ái kết, (7) vô sắc ái kết, (8) trạo kết, (9)
mạn kết, (10) vô minh kết. Nói cách khác, năm
kết sử cao nầy gồm có: yêu thích cõi sắc giới, cõi vô sắc
giới, thân tâm còn xao động, vụt chạc, sự
kiêu mạn, phách lối, và sự ngu si, mê mờ; các tình cảm phiền não
nầy, tuy cao hơn, nhưng vẫn che mờ con đường
lành theo Chánh pháp.
Văn huệ: Văn
= nghe; Huệ = trí huệ. Văn
huệ là trí huệ phát khởi lên nhờ nghe người chỉ dạy; sự hiểu
biết từ bên ngoài vào.
Tư huệ: Tư = suy nghĩ. Tư huệ là trí huệ phát khởi
lên nhờ sự suy tư của chính mình; sự hiểu biết từ bên trong nhờ suy nghĩ
mà phát giác được.
Tu huệ: Tu = tu tập. Huệ = trí huệ. Tu huệ là
trí huệ phát khởi như tu tập Định lực; nhờ
tâm an định, chú ý đến đề mục quán tưởng mà sự hiểu biết trong
Thiền Định được tăng lên. Chẳng do suy
nghĩ, chẳng do nghe nói đến, sự hiểu biết bên
trong nầy phát khởi do định lực
nhờ tu tập bốn cấp Thiền.
Tam-muội: Xem lại trang 506, Phẩm 10.
Bốn Đạo và Bốn Quả:
đạo và quả cấp Tu-đà-huờn,
đạo và quả cấp Tư-đà-hàm,
đạo và quả cấp A-na-hàm,
đạo và quả cấp A-la-hán.
Đạo là con
đường đang tu tập; Quả
là kết quả việc tu tập đã thành công,
còn gọi là quả vị.
Kham nhẫn: Kham = ưng chịu, gánh vác
được; nhẫn = nhịn nhục, bền
chí. Kham nhẫn là vui lòng gánh chịu sự khó khăn,
khổ sở mà chẳng than van.
Pháp trí: Pháp = chánh pháp, giáo pháp,
đạo pháp; Trí = trí huệ.
Pháp trí là trí huệ khởi lên khi theo
đúng Chánh pháp.
Tỉ trí: Tỉ = so sánh; trí = trí huệ. Tỉ trí là
trí huệ khởi lên khi có sự hiểu biết trong việc so sánh thời hiện tại với
hai thời quá khứ và vị lai. Trái nghiã với
Đẳng trí.
Đẳng trí: Đẳng = bình
đẳng, ngang hàng, chẳng có sự phân biệt kỳ thị chỗ hơn chỗ kém.
Đẳng trí là trí huệ khởi lên
khi tâm bình đẳng, đối xử với mọi việc đồng
đều, chẳng so đo hơn kém, bỏ sự chấp thủ, chọn lấy sự buông xả với
xả niệm.
Nghiã biện: Nghiã = ý nghiã, phần nội dung; Biện =
biện luận, tranh luận. Nghiã biện là một ngành của sự tranh biện,
bàn cãi về ý nghiã, nội dung của đề mục.
Pháp biện: Pháp = chánh pháp, giáo pháp; Biện = tranh
biện, bàn cãi. Pháp biện là trí huệ khởi lên khi xét
đến cách luận bàn về
đạo pháp được thông suốt.
Từ bìện: Từ = chữ, ngôn ngữ; Biện = biện luận, môn
học về... Từ biện là khoa học cứu xét về căn
nguyên của ngôn ngữ, còn gọi là ngữ nguyên học. Giỏi
về từ biện là rành rẽ về nguồn gốc của chữ, của ngôn ngữ.
Lạc thuyết biện: Lạc = vui; Thuyết = nói; Biện =
tranh biện, bàn cãi. Lạc thuyết biện là trỏ vào người khéo nói,
vui nói trong khi tranh biện, giảng giải giáo pháp rành rẻ, dễ hiểu, dễ
nhớ khiến người nghe thích thú mà tin theo.
Thập Nhị Bộ Kinh = Mười hai loại Bộ Kinh = Những lời
thuyết giảng của Đức Phật Thích-ca được kết
tập thành mười hai loại hình thức bài pháp; xin
đừng lầm rằng Đức Phật chỉ nói có 12 Bộ Kinh;
Ngài đã thuyết giảng trong hơn
45 năm, vô số Kinh kệ, ghi trong Tam Tạng
Kinh Điển, số lượng kinh đến hơn ngàn bộ. Các hình thức bài pháp
đó gồm có:
Khế Kinh: Xem lại trang 514, Phẩm 10 nầy. Còn gọi là Trường hàng,
những bản Kinh dài. (Phạn: sutra)
Trùng tụng: Trùng = nhắc lại, lập lại ý chánh dưới
hình thức ngắn gọn hơn. (Phạn: geya)
Thọ ký: bản Kinh trong đó Đức Phật có
tuyên bố một hay nhiều người đệ tử sẽ
đắc ngôi vị Chánh đẳng Chánh giác, trong tương lai. (Phạn:
vyakarana)
Phúng tụng: Phúng = tiếng đọc
trầm buồn để cảm hoá người; Tụng =
đọc. Phúng tụng là một hình
thức bốn câu thơ ngắn, gọi là tứ cú kệ, hay nói tắt là Kệ.
Như các bài Kệ trong Kinh Pháp Cú. (Phạn: gathà)
Tự thuyết: Tự = chính mình; Thuyết = nói. Khi thuyết
giảng, phần nhiều bản Kinh do các đệ tử nêu
một vấn đề thắc mắc lên,
được Đức Phật giải thích. Nhưng trong phần
tự thuyết, tự Đức Phật nêu
lên vấn đề chẳng có ai thưa hỏi, mà
đem dạy cho đệ tử. Còn gọi là vô
vấn tự thuyết. (Phạn: Udàna).
Nhân duyên: Nhân = nguyên nhân; Duyên = duyên cớ; Xin
xem lại trang 496, Phẩm 8. Ở đây, nói đến các
bản Kinh giải thích về Mười hai Nhân duyên liên kết nhau tạo
thành vòng Luân hồi sanh tử của chúng sanh. 12 nhân duyên: (1) Vô minh,
(2) Hành, (3) Thức, (4) Danh-Sắc, (5) Lục nhập, (6) Xúc, (7) Thọ, (8) Ái,
(9) Thủ, (10) Hữu, (11) Sanh, (12) Tử, sẽ
được Phẩm 11: Năm Phương tiện
giảng rõ thêm. (Pàli: Nidàna).
Thí dụ: Những bản Kinh dùng thí dụ để
giải thích nghiã thâm sâu. (Phạn: Avadàna)
Bổn sự: Quyển thứ tư của Tiểu Bộ Kinh gồm các bản kinh ngắn, khởi
đầu bằng câu: "Đức
Phật có nói như vầy" (Pàli: Itivuttaka)
Bổn sanh: Những bản Kinh thuật lại các tiền kiếp của
Đức Phật Thích-ca. (Pàli: Jàtaka)
Phương quảng: Phương đẳng =
Những bản Kinh lớn của Đại Thừa Phật giáo,
như Kinh Hoa nghiêm, Kinh Thủ lăng
nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại
Bát-Niết-bàn, v.v. (Phương = vuông; Quảng = rộng lớn;
Đẳng = bình
đẳng, ngang hàng nhau) (Phạn
Valpulya)
Vị tằng hữu: Vị = chưa; tằng = từng; hữu = có.
Vị tằng hữu là những bản Kinh thuật lại những sự việc phi thường
chưa từng xảy ra trong đời, như việc khi Đức
Phật mới đản sanh đã bước đi bảy bước,
hào quang sáng chói khắp bốn phương. (Phạn: Abhudharma)
Luận nghị: Luận = Nghị = bàn luận về ý nghiã của sự việc.
Đây là những bản Kinh
Đức Phật giảng rõ nghiã và phân biệt
các tướng mạo. (Phạn: Upadesa).
Khổ trí: Khổ = đau khổ;
Trí = trí huệ. Khổ trí là trí huệ khởi lên khi thông hiểu rõ
về Khổ đế.
Khổ tập trí: Khổ tập = nguồn gốc gây ra sự
đau khổ. Khổ tập trí là trí huệ
khởi lên khi thông hiểu rõ Tập đế,
Chơn lý thứ hai nói về các nguyên nhân của sự Khổ.
Khổ diệt trí: Khổ diệt = sự tận diệt các nỗi Khổ. Khổ
diệt trí là trí huệ khởi lên khi thông hiểu và thực hiện
được sự tận diệt các nỗi Khổ nói trong
Diệt đế, Chơn lý thứ ba nói về
sự diệt Khổ và Niết-bàn.
Đạo trí: Đạo = đây là Bát Chánh
Đạo, con
đường tám ngành thuộc về
Đạo đế, Chơn lý thứ tư về
phương cách tu tập để tiêu diệt các
nỗi Khổ.
Cụ túc trí: Cụ túc = đầy đủ;Cụ
túc trí gồm có 4 trí trên.
082. Tìm hiểu và suy gẫm về Phẩm 10:
1) Tóm tắt ý nghiã của Phẩm 10:
11. Luận văn nơi Phẩm 10, chẳng có phần
Nhập đề và phần Kết luận, mà lại đi
thẳng vào đề mục Trí Huệ
Bát-nhã. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, mục tiêu việc tu tập
theo Giáo lý nhà Phật là đạt đến nơi
giác ngộ, để tự mình giải
thoát mình ra khỏi cảnh khổ đau sanh tử
của Luân hồi. Nhằm mục tiêu nầy, việc giữ Giới ở các Phẩm
đầu tiên có nhiệm vụ tạo nên một kỷ
luật tự giác chính mình đặt mình
vào khuôn khổ tu tập. Một khi việc giữ giới
được thanh tịnh, thân tâm trở nên an tịnh, dễ mà
đắc được Định lực. Nhờ
định lực nầy, càng ngày càng thâm hậu,
khiến cho Trí Huệ được khởi lên,
vẹt hết mọi che mờ u ám của vô minh và phiền não, khiến cho con
đường giải thoát càng ngày càng
sáng tỏ; mọi cố gắng đưa đến các kết quả
trông thấy rõ rệt, và do đó mà
vững bước tiến tu.
12. Luận văn đưa ra định nghiã
rất rõ ràng về Trí Huệ: tâm ý nhìn thấy sự vật
đúng như hiện thấy, chẳng bị
che mờ, chẳng có sẵn thành kiến, chẳng có sự phân biệt kỳ thị. Sự Thật
như thế nào thì thấy ra như thế ấy, đó là
trí Bát-nhã.
Sau định nghiã, Luận văn
kể ra những đức tánh cao qúi của Trí Bát-nhã, ta chỉ cần nhớ
đức tánh quan trọng bực nhứt nầy:
cắt đứt mọi phiền não. Tại sao? Vì
trước kia, thiếu trí, ta cũng dư biết các phiền não làm khổ cho ta, nhưng
ta chưa thấy rõ cách thức để dẹp bỏ chúng.
Giờ đây, với Trí Bát-nhã, thấy rõ các lợi hại, việc dẹp bỏ
tùy ở ý chí của ta, và một khí ý chí còn ngần ngại, còn lùi sụt, Trí
Bát-nhã nơi ta soi sáng thêm cho Chánh niệm, khiến ta cảm thấy tự hổ
thẹn khi rời xa con đường chánh đạo, do đó mà
biết chăm lo tu tập.
Phần quan trọng của Luận văn phân biệt tỉ
mỉ các loại Trí Huệ Bát-nhã. Thật ra, mỗi người
được phú sẵn một tâm trí sáng suốt, chớ chẳng
phải có hai, ba, bốn loại; chẳng qua Trí ấy biến hiện dưới nhiều hình
thức. Khi ta xét đến Đạo và Quả hàng
Thanh văn, Trí ấy giúp ta thấy rõ bốn
Đạo và bốn Quả mà Luận văn
phân biệt một cách rất khó thấy là Huê tụ, chẳng tụ, và chẳng
chẳng tụ. Cũng vậy, đối với bốn loại Trí
huệ mà Luận văn liệt kê, Khổ
trí, Khổ tập trí, Khổ diệt trí và Đạo trí,
ta chỉ cần nhớ đến Bốn Chơn lý
nhiệm mầu: Khổ, Tập, Diệt, Đạo
là biết được Trí huệ khởi lên
khi xét về Khổ, về Tập, về Diệt và về Đạo, vì
cùng một Trí Bát-nhã mà hiểu thấu, thông đạt
và thực hiện đến hoàn mãn. Giản
dị và dễ nhớ hơn.
Nhưng điểm quan trọng bực nhứt về
Trí huệ Bát-nhã là việc dẫn dắt mọi hành
động, mọi suy tư của con người theo đúng con
đường Chánh đạo, mà ta xét trong tiểu mục kế
đây.
2) Khẩu hiệu của Đạo Phật: Từ Bi và
Trí Huệ.
Đạo Phật là con đường đưa hành
giả đến nơi giác ngộ và giải thoát:
giác ngộ được cảnh khổ đau phải trôi lăn
mãi trong cảnh sanh tử của vòng lẩn quẩn Luân Hồi; giải thoát khỏi
mọi ràng buộc, phiền não của cuộc đời thế
tục, sướng ít khổ nhiều nầy, để cất bước thênh thang, tự tại theo
con đường an lạc của Niết-bàn. Giúp
thực hiện mục tiêu đó, Đạo Phật nêu ra
khẩu hiệu Từ Bi và Trí Huệ. Từ là ban vui; Bi là cứu khổ;
Trí là thoát cảnh ngu si, mê mờ, Huệ là nhìn Sự Thật
đúng như thật.
Mình tu tập để được giác ngộ và
giải thoát; mình đã biết
được con đường đi đến mục tiêu,
đem chia xẽ với người khác, đó là con
đường tu hành của Bồ-tát, vừa tự
độ lại vừa
độ tha. Nhưng muốn
đem nguồn vui đến cho mọi người thì
trước nhứt, chính lòng ta phải tràn đầy niềm
vui ấy. Thế cho nên muốn thực hiện hạnh Từ Bi, người Phật tử phải
biết yêu chính mình, phải biết cứu khổ cho chính mình. Giúp cho ta
nhận chân được điều ấy, chính là vai
trò của Trí Huệ Bát-nhã, khả năng của
tâm trí dẫn hành giả đến bờ
giác ngộ và giải thoát.
Có trí thông minh tuyệt đỉnh ở đời, nhưng
còn thiếu ánh Từ Bi rạng chiếu thì việc tranh danh
đoạt lợi cho mình cũng khó tránh khỏi.
Có lòng Từ Bi quảng đại ở đời, nhưng vắng
bóng Trí Huệ Bát-nhã thì việc cứu giúp
đồng loại cũng còn khiếm khuyết. Thế cho nên sức mạnh của Trí Huệ
cần được đức Từ Bi dịu dàng hướng dẫn;
cũng như hạnh Từ Bi cũng phải nhờ đến Trí Huệ
soi đường. Cả hai, Từ Bi và Trí Huệ, bổ sung cho nhau, giúp
đỡ lẫn nhau, đồng đưa hành giả cùng
nhơn loại đến cảnh thanh bình và an
lạc lâu dài.
Thế nên, việc tìm hiểu và suy gẫm về Phẩm 10: Phân biệt về Huệ,
người học Luận văn nầy nên hướng tâm
đến khẩu hiệu nêu trên của
Đạo Phật, và nhận ra tầm quan trọng
của Trí Huệ: thiếu Trí huệ là thiếu tất cả; nhưng có
đầy đủ Trí huệ cũng chưa được hoàn
toàn, vì:
- Trí Huệ phải đi song hành
với Từ Bi,
thì mục tiêu giác ngộ và giải thoát mới mong có ngày sớm
đạt được.
-ooOoo-