Quyển Năm
Phẩm 8: Hành môn
(tiếp)
Chi 2: Các Nhứt thiết nhập (tiếp) và
các Thiền chi
Sau đây giảng về Đệ nhị Thiền, suy nghĩ về
các lỗi lầm của Sơ thiền và hai loại công
đức.
Vào thời đó, người toạ thiền
muốn khởi lên Nhị Thiền, khi đã
đắc được tự tại về Sơ thiền. Tại sao vậy? Vì
nếu nơi Sơ thiền còn chưa được tự tại, (thuần
thục) dầu đã điều phục được sự suy
nghĩ, muốn trừ bỏ giác, quán, mong
đắc được Nhị thiền, vẫn còn bị thoái
thất, chẳng kham nổi việc khởi lên Nhị thiền, lại chẳng thể vào trở lại
nhập Sơ thiền nữa.
Như Thế tôn có dạy các vị Tỳ-kheo rằng, có một con bê núi con,
ngu si chẳng biết nơi đồng cỏ, chẳng biết lối
đi, mà lại muốn tới một nơi xa và nguy hiểm, tự nghĩ như vầy: "Ta
nay muốn tới một nơi chưa từng đến, ăn thứ cỏ
chưa từng gậm, uống thứ nước chưa từng nếm." Chơn trước chưa đứng vững, đã
giở chơn sau lên, nghiêng ngã khiến thân nó chẳng yên, chẳng thế nào bước
đi tới được. Và vì chẳng tới
được nơi chưa từng đến, cũng chẳng gậm được
cỏ nào chưa từng ăn qua, lại cũng
chẳng uống được nước nào chưa từng nếm, nó liền suy nghĩ: "Mình
chẳng đi tới được nữa, thì nay phải
trở lại nơi mình ăn uống cũ trước kia vậy."
Cũng như thế, Tỳ-kheo ngu si nào, việc tu hành còn chưa thành
đạt, chẳng hiểu sự lià xa các ham
muốn, chẳng thực tập việc nhập vào Sơ thiền, chẳng học tập nhiều, thường
lại có ý muốn nhập vào Nhị thiền, muốn lìa bỏ giác, quán, lòng
chẳng được an nên sau mới nghĩ: 'Ta
chẳng đủ sức để nhập vào Nhị thiền mà
rời bỏ giác, quán, thôi hãy cứ quay về với Sơ thiền và lià xa các
ham muốn." Tỳ-kheo ấy ngu si như con bê núi con chẳng biết
đường đi đến đồng cỏ. Vì thế, phải nên
tu Sơ thiền (cho thật thuần thục) khiến tâm
được tự tại.
Vào khi trước giờ ăn và thời gian
sau khi ăn, vào lúc
đầu hôm và khi hừng sáng, tùy theo tâm
vui thích, tùy lòng vẫn còn gần với sự ham muốn, tùy ý chẳng ngại ngùng,
mà liền khởi lên nhập vào sự quán. Nếu trong một lúc, cho
đến cả nhiều lúc, có lắm khi nhập vào,
có lắm khi xuất ra, nơi Sơ thiền cũng đắc thành
được sự tự tại. Khi đã
được tự tại rồi, liền vui mà thấy Nhị
thiền khởi lên, vượt qua được Sơ thiền. Bấy
giờ mới suy nghĩ rằng, Sơ thiền còn thô sơ, Nhị thiền tế nhị hơn,
và do đó mà nhìn thấy
được các lỗi lầm của Sơ thiền cùng với
các công đức của Nhị thiền.
Hỏi: Thế nào là các lỗi lầm của Sơ thiền?
Đáp: Gần với năm triền cái là
kẻ thù, ham giác quán làm khuấy động,
khiến thân thành giãi đãi
(lười), tâm thành tán loạn (lăng xăng), nên
tất cả pháp đắc được đều là
định thô chẳng
đủ chứng trú thần thông, đấy là vừa
lòng với Sơ thiền nên còn chưa được phần
thắng diệu, lại vướng phải các lỗi lầm của Sơ thiền. Nhị thiền đối trị
được các điều đó, nhờ quán các lỗi lầm của Sơ thiền mà thấy ra công
đức của Nhị thiền.
Lấy tướng của Nhứt thiết nhập mà khởi ý tu hành theo Nhị thiền:
chẳng tác ý hoà hiệp với Sơ thiền, chẳng tác ý về giác, chẳng tác ý
về quán, do theo định mà hỉ,
lạc và tự tại sanh ra, liền khiến tâm thọ trì. Người toạ thiền tác ý
như thế, chẳng bao lâu giác, quán tiêu diệt mất, giữ lấy chỗ
định khởi sanh lên hỉ, lạc và
tự tại, khiến tâm được an trú vào
đấy.
Sau đây thuyết minh về bốn thiền chi của
Nhị thiền.
Người toạ thiền đó, khi giác,
quán đã diệt, muốn có sự tin tưởng
bên trong (= nội tín) rằng, tâm thành một tánh (= nhứt tánh): chẳng giác
chẳng quán, liền theo định khởi lên
hỉ, lạc, mà nhập vào Nhị thiền. Đó là
công đức của Nhứt thiết nhập Điạ.
Giác và quán diệt, có nghiã là tâm khéo phân biệt
được sự tiêu diệt của giác và quán,
còn gọi là đoạn (= cắt
đứt).
Hỏi: Thế nào là giác, quán diệt?
Đáp: Đó là sự tiêu diệt
các lỗi lầm về giác quán của Sơ thiền, bao gồm cả giác và quán lẫn nguồn
gốc của giác và quán. Lại nữa, đó là
lià nơi thiền thô còn thấp để vươn lên
thắng thiền cao hơn, khiến cho thiền thô lần lượt diệt mất
đi.
Về nội tín, nội là bên trong hiện chứng thấy
được. Nội có ba loại: (1) nội
nội, (2) nội định, (3) nội hành xứ.
Thế nào là nội nội? Đó là
sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp
xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), còn gọi là sáu
nhập. Nội định là sự tự mình
quán thân tâm mình. Nội hành xứ là ý tưởng bên trong chẳng hướng ra
ngoài, hiểu rõ được ý nghiã bản tánh
của đối tượng quán sát. Tại bộ Kinh luận nầy,
chữ nội nội dùng với nghiã là khá vui.
Tín là niềm tin chơn chánh; suy nghĩ làm tăng
trưởng niềm tin. Đó là niềm tin nơi nội tâm, nên gọi là nội tín.
Nội tín: tướng, vị, khởi, xứ của Nội tín là
gì?
Tướng của nội tín là chẳng loạn. An tịnh là vị, công năng
của nội tín. Chẳng nhiễm dơ là khởi của nội tín, sự
khởi sanh ra nội tín. Giác và quán là xứ của nội tín, là phạm vi
hoạt động của nội tín.Tâm trở thành
một tánh có nghiã là tâm trú trong chánh
định. Tâm thành nhứt tánh, nghiã là sao? Tâm
là ý nghĩ. Nhứt đây là nhứt
niệm, tức là chánh niệm. Tánh là bản tánh tự nhiên. Nhứt tâm nơi
Nhị thiền có khả năng diệt cả giác và
quán khiến nhứt tánh khởi lên nơi tâm và tâm thành nhứt tánh.
Tâm thành nhứt tánh: tướng, vị, khởi, xứ
của nó là gì? Tướng của nó là sự tinh chuyên chơn chánh. An
tịnh là vị, tức là công năng của nó.
Chẳng phóng túng, lãng bạt, là sự khởi sanh của nó. Giác quán
đã ngưng và diệt
đi, là xứ, tức là phạm
vi hoạt động của nó.
Hỏi: Tại sao nơi Sơ Thiền chẳng nói về Tín và Tâm trở
thành nhứt tánh?
Đáp: Sơ thiền với giác quán khuấy
động nên làm nhiễm dơ nội tín
khiến cho tâm nhứt tánh mất sự thanh tịnh, cũng như nước có gió khởi
động, gợn sóng, khiến cho hình ảnh
phản chiếu chẳng rõ ràng. Như thế, nơi Sơ thiền, giác quán làm sóng khởi
động khiến cho nội tín và tâm nhứt
tánh trở nên chẳng thanh tịnh. Vì vậy Sơ thiền chẳng nhiếp thiền chi nầy.
Chẳng giác, chẳng quán có nghiã là
đoạn dứt giác thành ra vô giác, lià quán nên thành ra vô quán.
Hỏi: Giác diệt thì vô giác, vô quán. Có hai cách
đoạn trừ giác quán chăng? Tại sao lại nói đến
hai cách?
Đáp: Giác và quán đã
diệt, liền hiện lên nội tín, tâm thành nhứt tánh. Khi vô giác và vô quán
hiện lên khiến sanh ra diệu tướng, thành được
sự an tịnh.
Lại nữa, diệt giác và quán là dùng giác quán
đó mà thấy
được sự lỗi lầm của riêng giác quán;
theo pháp đoạn trừ giác và quán
đưa đến vô giác và vô quán,
đó là lìa xa sự giác quán về cõi sắc
giới.
Lại nữa, vô giác vô quán có hai loại: (1) chẳng lấy giác quán diệt mà
thành vô giác vô quán; (2) lấy giác quán diệt mà thành vô giác vô quán.
Nơi năm thức và Tam thiền chẳng lấy
giác quán diệt mà thành vô giác vô quán. Nơi Nhị thiền, dùng phương tiện
an tịnh, lấy giác quán diệt mà thành vô giác vô quán.
Đấy là nói
đến hai nghiã.
Theo định mà khởi sanh lên, gọi là
định. Sơ thiền theo trí mà
sanh khởi. Nhị thiền thành tựu được, nhờ theo
định ở Sơ thiền mà sanh ra.
Lại nữa, nơi Nhị thiền, định
được cùng sanh ra một lượt với nhứt
tâm; định làm khởi sanh lên hỉ và lạc.
Hỉ lạc, trước đã có giải
thích rồi. Nhị thiền được gọi
như thế, vì Nhị thiền tiếp theo sau Sơ thiền. Nhập Chánh thọ
có nghiã là nhập vào Nhị thiền. Thiền: nội tín, hỉ,
lạc, nhứt tâm, gọi là Thiền.
Nhập chánh thọ và an trú là thành đắc Nhị
thiền: lià được hai chi (giác
và quán), thành tựu được hai chi (hỉ
và lạc), ba điều lành, mười tướng
đầy đủ, hai mươi ba công đức tương ưng. Đó là
công đức được sanh lên cõi Trời Diệu
Quang Thiên.
Như trước đã có nói, sanh lên cõi
Trời là, do theo định sanh ra hỉ lạc, vượt
khỏi được cõi nhơn gian, nên gọi là sanh lên cõi Trời.
Như Thế tôn có dạy chư Tỳ-kheo, nước trong hồ, chẳng phải do từ
bốn phương lại, cũng chẳng phải do nước mưa rơi xuống, mà từ nguồn suối
đến, trong và lạnh tẩm ướt cả hồ và
tràn đi xa. Cũng như thế, thân vị tì
kheo, do theo định mà sanh ra hỉ lạc,
khiến được mát mẻ, chẳng chỗ nào chẳng
thấm nhuần. Do theo định mà sanh ra hỉ
khắp cả thân tâm, cũng như nước suối. Khi nhập vào Nhị thiền, thân của
người ấy như thế nào, cũng có thể biết được.
Như chẳng do theo nước từ bốn phương chảy lại, chẳng do nước mưa rơi
xuống, giác và quán nơi người tọa thiền diệt mất như thế nào, cũng
có thể biết được. Cũng như nước do từ nguồn
suối chảy đến, chẳng khởi lên gợn sóng, người toạ thiền do từ
định khởi sanh ra hỉ, lạc, khiến thân tràn
đầy niềm vui, mà chẳng khiến tâm loạn
động, như lấy nước lạnh rưới lên khắp
mọi chỗ trên thân cho được mát mẻ. Như thế,
do định mà sanh ra hỉ lạc, khiến trọn cả thân tâm thành ra có
được đầy đủ hỉ lạc.
Công đức tu định được quả báo
là sanh lên cõi Trời Quang Diệu Thiên. Nhị thiền tu có ba
cấp: thấp, vừa và cao. Người tu thiền thấp, khi thọ mạng hết, sẽ sanh lên
cõi Thiểu Quang Thiên, sống lâu hai kiếp. Tu thiền vừa,
được sanh Vô Lượng Quang Thiên, thọ
mạng được bốn kiếp. Tu thiền cao sanh Quang
DiệuThiên, sống được tám kiếp.
Sau đây suy gẫm về các lỗi lầm của Nhị
thiền.
Vào thời đó, người toạ thiền
đã thuần thục về Nhị thiên, thân
được tự tại rồi, nhận thấy Nhị thiền còn
thô sơ, còn Tam thiền thì an tịnh hơn, thấy rõ
được các lỗi lầm của Nhị thiền và các
công đức của Tam thiền, mới liền khởi tu Tam
thiền.
Thế nào là các lỗi lầm của Nhị thiền? Vì gần với giác
quán là kẻ thù, cùng với nỗi mừng (hỉ) tràn
đầy vướng vít, cho nên Nhị thiền thành
thô. Vì nỗi mừng tràn đầy, tâm quá nhảy nhót
(loạn động), khiến chẳng thể khởi lên các thiền chi khác. Nếu dính
mắc lâu vào hỉ, ắt phải thất bại. Nếu biết
đó là thất, ắt chẳng còn thất nữa. Nếu
chẳng kham đắc được thiền thông chứng và
nếu vui theo Nhị thiền, thì chẳng đắc được
thắng phần. Vì vậy, phải nên biết các lỗi lầm của Nhị thiền và thấy
các công đức của Tam thiền. Để đối trị lại,
phải quán các lỗi lầm của Nhị thiền, kế thấy các công đức của Tam thiền,
rồi y theo tướng của Nhứt thiết nhập mà tác ý khiến tâm hỉ diệt
đi. Bỏ hỉ lạc mà sanh tâm thọ trì,
chẳng bao lâu thì hỉ lạc mất đi, khiến tâm
được an.
Giải thích các thiền chi của Tam thiền.
Người toạ thiền chẳng nhiễm nỗi mừng (hỉ),
đắc được xả(-niệm),
(chánh-) niệm, trí (-huệ); như bực Thánh có nói,
đắc được xả, niệm, trí thì vui
trú trong chánh thọ của Đệ tam thiền. Đấy là
công đức của Nhứt thiết nhập về Điạ, chẳng
vướng nhiễm hỉ (nỗi mừng) vậy. Hỉ là gì, trước
đã có nói rõ, chẳng nhiễm hỉ, dứt
đoạn hỉ, tức đắc được an trú vào
xả.
Thế nào là XẢ? Xả có nghiã là giữ sao cho chẳng lui mà
chẳng tới, tâm được bình
đẳng. Xả có tám thứ: thọ xả,
tinh tấn xả, kiến xả, Bồ-đề xả, vô lượng xả,
lục phần xả, thiền chi xả, thanh tịnh xả.
Xả nơi năm căn là thọ xả.
Vào lúc chẳng tác ý, liền khởi lên tướng xả là tinh tấn xả.
Nơi tập đế (chơn lý về nguyên
nhân của khổ), nghĩ biết rằng, ta nên đoạn
tận, đó là kiến xả. Tu theo Bồ-đề
giác là Bồ-đề xả. Tu bốn
tâm vô lượng: từ, bi, hỉ, xả, là vô lượng xả. Lấy mắt nhìn hình sắc
chẳng khởi lên khổ, chẳng khởi lên mừng, đó là
một trong lục phần xả (năm phần kia
thuộc về năm giác quan còn lại). Có hỉ mà chẳng bị nhiễm, lại trú
nơi xả, đó là thiền chi xả.
Niệm Xả thanh tịnh là thanh tịnh xả. Về tám món xả
đó, trừ thọ xả ra, còn bảy pháp xả
kia, đó gọi là bình
đẳng xả.
Lại nữa, có ba loại xả: (1) tương ưng thừa (= có liên hệ, như xe
đưa tới Định; thừa = xe); (2)
thiểu kinh doanh (= tâm ít tạo dựng); (3) vô kinh doanh (=
tâm chẳng tạo dựng). Nơi tất cả các loại thiền, sự khéo léo giữ cho bình
đẳng, chẳng quá gấp, chẳng quá huỡn, đó gọi là
xả tương ưng thừa . Xả nầy gần với Nhị thiền. Có khả năng
đoạn trừ được tâm quá nhảy nhót (loạn động), chẳng lo tạo dựng nhiều, đó
gọi là xả thiểu kinh doanh. Xả nầy gần với Tam thiền.
Cái khả năng đoạn trừ loạn tâm trước đó đã
khiến cho thân tâm chẳng động nữa, tâm chẳng
còn lo tạo dựng sự việc gì nữa, đó gọi
là xả vô kinh doanh, còn gọi là xả vô sự. Xả
nầy gần với Tứ thiền.
Thế nào là tướng, vị, khởi, xứ của XẢ?
Bình đẳng là tướng của xả;
chẳng dính mắc là vị (công năng) của
xả; chẳng lo tạo dựng thêm là khởi (sự sanh khởi lên) của
xả; chẳng bị nhiễm ô là xứ (phạm vi hoạt
động) của xả.
Hỏi: Tại sao nói đến xả ở Tam thiền, mà
chẳng nói đến Xả ở Sơ thiền và Nhị
thiền?
Đáp: Nơi Sơ thiền và Nhị thiền, hỉ tràn
đầy còn chưa diệt mất, tâm dính mắc vì
chạy theo hỉ lạc, quá nhảy nhót đầy cả thân
tâm, cho nên chẳng thể nói đến xả. Nơi
Tam thiền, hỉ chẳng đầy đủ, nên chẳng bị hỉ nhiễm, chẳng vướng mắc
vào cho nên thiền chi khởi lên; khi thiền chi nầy
được tự tại, nên mới nói
đến xả (-niệm), (chánh-)
niệm và chánh trí.
Thế nào là niệm tùy niệm? Niệm ấy biết rõ, nhớ lại, giữ gìn chẳng
quên niệm. Niệm căn, niệm lực và chánh
niệm, đó là nói về niệm.
Hỏi: Tướng, vị, khởi, xứ của NIỆM là gì?
Đáp: Tùy niệm (= niệm đi theo
niệm) là tướng của niệm; chẳng quên là vị (= công năng)
của niệm; giữ gìn, bảo vệ là khởi (= sư sanh khởi lên) của
niệm; bốn lãnh vực quán niệm (= thân, thọ, tâm và pháp) là xứ (=
phạm vi hoạt động) của niệm.
Thế nào là TRÍ? Lấy trí hiểu rõ
để làm huệ, là có chánh trí,
đó gọi là Trí. Chánh trí có bốn
loại: hữu nghiã trí, tự tướng trí, bất ngu si trí, và hành xứ trí. Nơi
Trí hữu nghiã, có bốn uy nghi (đi, đứng,
nằm, ngồi). Trí tự tướng là trí nhập vào Không-xứ. Trí
chẳng ngu si là trí hiểu biết tám pháp ở thế gian. Trí hành xứ
là có trí nơi sự việc. Tại bộ Kinh luận nầy, trí hành xứ
được nói đến để giữ lại.
Hỏi: Tướng, vị, khởi, xứ của TRÍ là gì?
Đáp: Chẳng ngu si là tướng của trí; theo nhơn duyên
mà liên hệ với, là vị (= công năng)
của trí; lựa chọn các pháp và giữ lấy, là khởi (= sự khởi
lên) của trí; tác ý chơn chánh là xứ (= phạm vi hoạt
động) của trí.
Hỏi: Tại sao chánh niệm và chánh trí phải có mặt ở tất cả mọi nơi,
chẳng chỗ nào là chẳng diệu khéo?
Đáp: Nếu người mất chánh niệm, chẳng khởi lên chánh trí, thì
chẳng kham vào được thiền ngoại hành.
Hỏi: Tại sao chỉ nói ở Tam thiền, mà chẳng thấy nói ở Sơ thiền và
Nhị thiền?
Đáp: Nơi Tam thiền nầy, đứng
đầu là hỉ và các thiền chi thô khác
đều diệt, chánh định lại vi tế nên đi
sâu vào chỗ tế nhị, khiến cho chánh trí khởi lên
được Tam thiền và do
đó, các thiền chi được tự tại.
Lại nữa, Tam thiền nầy dễ đi đến niềm vui
(= lạc) đầy khí vị (ngọt ngào)
mà tâm đang hướng về để nắm lấy. Do đó, các
thiền chi đắc được tự tại mà diệt bỏ nỗi mừng (= hỉ)
đi.
Hơn nữa, nỗi mừng (hỉ) và niềm vui (lạc) cùng làm bạn bè
khắn khít nhau, nhờ có chánh niệm và chánh trí mới phân biệt ra
được "có vui mà chẳng có mừng", và an
trú vào lạc (= vui). Cũng tựa như bê con cứ
đi theo sát bên bò mẹ, nếu chẳng bị ai
nắm hai vành tai mà giữ lại.
Như thế, chẳng mừng mà có vui, (vô hỉ hữu lạc) nhờ chánh niệm,
chánh trí phân biệt rõ ra được niềm vui (lạc)
mà an trú được vào
đấy. Nếu chẳng phân biệt ra được như thế, thì
thành ra thoái phần, có sự thất bại lùi lại. Khi các thiền chi nầy
được tự tại, nên mới nói
đến xả niệm, chánh niệm và
chánh trí được thành tựu; vì lẽ
đó, mới nói đến xả, niệm, trí
khi thân đã cảm thọ
được niềm vui (thân thọ lạc).
Hỏi: Thế nào là Tâm vui? (Tâm lạc).
Đáp: Tâm cảm thọ được niềm vui,
được gọi là tâm vui, tâm lạc. Niềm vui tiếp xúc với tâm, tâm
cảm thọ được, đó là niềm vui, hay là
lạc.
Hỏi: Thế nào là thân (vui)?
Đáp: Tưởng ấm, hành ấm, thức ấm,
đó gọi là thân, dùng thân
đó cảm thọ được niềm vui, nên gọi là
thân thọ lạc.
Hỏi: Tại sao niềm vui chẳng có mừng đó
chẳng do thân cảm thọ được?
Đáp: Nơi Tam thiền, lạc căn
được diệt đi. Tại sao vậy? Thế tôn có nói, nơi Tam thiền, lạc căn diệt. Đó
là niềm vui được các bực Thánh nói
đến. Bực Thánh là Đức Phật và
các đệ tử của Ngài,
đã khai thông, răn
dạy, phân biệt và chỉ rõ.
Hỏi: Tại sao bực Thánh chỉ nói đến ở
thân mà chẳng nói đến các nơi khác?
Đáp: Nơi Tam thiền nầy, người toạ thiền dễ
đi đến niềm vui chẳng có nỗi mừng, nhưng lại
chẳng nắm giữ lấy niềm vui đó. Còn bực Thánh thì an trú nơi niềm
vui nên được thành tựu. Cho nên, các
bực Thánh bảo, Tam thiền nầy thành tựu thắng phần có xả. Xả, niệm, lạc
đã được
phân biệt rõ rồi, thì thành tựu và an trú trong Tam thiền.
Nói Tam thiền là vì thiền nầy tiếp theo Nhị thiền. Tam thiền có xả,
chánh niệm, chánh trí, lạc và nhứt tâm.
Đó là thành tựu (năm thiền chi) của
Tam thiền, khi đã lìa được
hỉ ở Nhị thiền, chứng được năm phần (=
năm thiền chi) ba điều lành, mười tướng
đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, được
sanh lên cõi Trời ở cảnh Biến Tịnh Thiên. Như
đã được
nói qua trước đây, sanh lên cõi Trời tức là an trú vào niềm vui
chẳng có nỗi mừng (vô hỉ lạc), vượt
được cõi nhơn gian.
Cho nên Thế tôn có dạy các Tỳ-kheo rằng, trong
đầm có hoa uất-ba-la
(sen xanh) chen với hoa phân-đà-lợi
(sen trắng), từ trong nước khởi sanh lên, lớn lên trong nước, trú
trong nước, từ dưới gốc cho đến ngọn, cả bên
trong, đều thấm nhuần nước. Cùng thế
ấy, thân tâm của vị Tỳ-kheo đượm nhuần khắp
mọi chỗ niềm vui chẳng có nỗi mừng (vô hỉ lạc) giống như hoa
uất-ba-la chen với hoa phân-đà-lợi từ
trong nước mà khởi sanh lên. Như thế, khi nhập vào Tam thiền, thân người
ấy như ngó sen dưới nước, từ rễ chí ngọn, tất cả mọi chỗ
đều tràn
đầy nước, thân tâm được niềm vui chẳng có nỗi mừng thấm nhuần khắp cả.
Quả báo của công đức tu nhập Định ở Tam
thiền là sanh lên cõi Biến Tịnh Thiên. Tu Tam thiền có ba cấp:
cao, vừa và thấp. Người tọa thiền tu Tam thiền thấp, khi hết mạng sống, sẽ
sanh lên cõi Diệu Tịnh Thiên, thọ mạng được
sáu kiếp. Tu hạng vừa, sanh lên cõi Vô Lượng Tịnh Thiên, thọ mạng
được ba mươi hai kiếp. Tu hạng cao được sanh
lên cõi Biến Tịnh Thiên, sống sáu mươi bốn kiếp.
Suy gẫm về các lỗi lầm của Tam thiền.
Vào thời đó, người toạ thiền
sau khi đã thuần thục Tam thiền,
được tự tại rồi, liền khởi ý vượt khỏi Tam
thiền. Tam thiền thì thô, Tứ thiền thì diệu hơn; biết
được các lỗi lầm của Tam thiền, và
thấy ra được các công đức của Tứ thiền.
Thế nào là các lỗi lầm của Tam thiền? Vì gần với nỗi mừng (hỉ)
vốn là kẻ thù của chánh định, do niềm vui (lạc)
còn thô sơ nên chưa kham đắc các thiền thông
nơi Tam thiền, khiến thắng phần chẳng thành
được. Như vậy, nếu thấy được các lỗi lầm của
Tam thiền, và các công đức của Tứ
thiền để đối trị lại, người tọa thiền chỉ theo tướng của
Nhứt thiết nhập về Điạ mà tác ý khiến
cho lạc diệt đi, khi lạc
đã diệt mất thì tâm theo niệm xả
mà thọ trì. Như thế, tác ý chẳng bao lâu, tâm
được yên ổn, hiểu rõ bốn thiền chi.
Người toạ thiền ấy nhờ đoạn trừ được niềm vui
(lạc), nên diệt được các nỗi
khổ trước đó, nay nỗi mừng, nỗi lo đều đã diệt hết, khiến tâm chẳng
khởi niềm vui nữa, đắc được xả
và chánh niệm thanh tịnh, thành tựu
được Tứ thiền. Đó là công đức của Nhứt
thiết nhập về Điạ.
Đoạn trừ niềm vui là cắt bỏ các vui thú về thân thể.
Đoạn trừ khổ là dẹp bỏ các sự khổ trên
thân thể. Dẹp bỏ các thú vui trước, và các nỗi lo
đã diệt xong, có nghiã là, khi có
hỉ thì tâm vui, khi có lo thì tâm khổ, cả hai
đều được lià bỏ hết.
Hỏi: Ở đâu mà niềm vui (lạc),
nỗi khổ, lo âu (ưu) được đoạn diệt?
Đáp: Các điều đó được lìa
bỏ, bắt đầu từ Sơ thiền. Nơi Tứ thiền, Phật
nói, khổ diệt.
Hỏi: Ở đâu mà nguồn gốc Khổ khi
khởi lên, được diệt hết chẳng sót?
Đáp: Phật có dạy các Tỳ-kheo rằng, ở Sơ thiền thành tựu
được sự ly dục (= lià xa các ham
muốn); khổ bắt nguồn từ các sự ham muốn, diệt chúng xong thì khổ chẳng còn
sót lại nữa.
Hỏi: Tại sao nơi Sơ thiền, nguồn gốc khổ bị diệt?
Đáp: Vì nỗi mừng tràn đầy, thân
được vui; vì thân vui nên khổ căn (=
nguồn gốc khổ) diệt; lấy diệt mà đối
trị. Thế nên, ở Sơ thiền, khổ căn bị
diệt. Nơi Nhị thiền, ưu căn (nguồn gốc của sự lo âu) diệt, thành ra
chặt đứt ưu căn. Như Đức Phật có nói, nơi nào
khổ căn đã diệt, thời khổ chẳng còn
sót lại. Như thế, Tỳ-kheo đã lià bỏ
giác và quán, an trú vào chánh thọ của Tam thiền, nơi
đó ưu căn khởi lên
đã bị diệt chẳng còn sót lại. Tại sao
vậy? Vì giác quán lâu ngày, theo giác quán mà thân trở nên giãi
đãi, tâm trở nên lười nhác, do
đó ưu căn liền khởi lên. Nơi Nhị
thiền, giác quán được diệt bỏ, do đó mới nói
ưu căn cũng diệt. Nơi Tam thiền, niềm vui (lạc)
được xóa bỏ. Như Thế tôn có nói, nơi nào
lạc căn đã khởi thì nơi ấy lại diệt
đi chẳng còn sót lại. Cho nên, vị
Tỳ-kheo chán ghét sự vui, nên nhập vào chánh thọ của Tam thiền, an trú ở
đó, thì lạc căn
đã khởi trước đó sẽ bị diệt đi chẳng còn
dư sót lại.
Hỏi: Tại sao nơi Tam thiền, lạc căn bị
diệt?
Đáp: Vì hỉ đã diệt; mà
hỉ là nguyên nhân của lạc; cho nên ở Tam thiền, lạc căn
được diệt bỏ.
Hỏi: Nếu khổ, lạc, ưu nơi Tam thiền đã
được diệt xong, tại sao lại còn nói
diệt ở Tứ thiền nữa?
Đáp: Tam thiền là con đường dẫn
tới Tứ thiền; nơi Tam thiền, chúng (= khổ, lạc, ưu) chẳng được cảm thọ, nên
đến Tứ thiền mới nói chúng diệt.
Lại nữa, lấy sự chẳng khổ chẳng lạc để đối
trị lại với khổ và lạc, cho nên mới nói
đắc được sự chẳng khổ chẳng lạc là
diệt được khổ và lạc. Lại nữa, nơi Tứ
thiền, sự đối trị và sự chứng
đắc cùng xảy ra. Lại nữa, xả niệm
đoạn bỏ tất cả phiền não chẳng còn dư
sót lại. Chẳng khổ chẳng lạc có nghiã là ý thì chẳng nhiếp cảm thọ, tâm
thì chẳng vứt bỏ, đó gọi là chẳng khổ
chẳng lạc.
Thế nào là tướng, vị, khởi, xứ của CHẲNG KHỔ
CHẲNG LAC?
Ở ngay khoảng giữa, là tướng của chẳng khổ chẳng lạc; an
trú vào khoảng giữa, là vị (= cơ năng)
của chẳng khổ chẳng lạc; diệt trừ là khởi (= sự sanh khởi)
của chẳng khổ chẳng lạc; hỉ diệt là xứ (= phạm vi hoạt
động) của nó.
Thế nào là xả niệm thanh tịnh?
Xả là có trung tính (= tánh trung hoà, chẳng nghiêng theo bên nào).
Niệm là niệm theo sát chánh niệm. Nhờ có xả mà niệm
trở thành rõ ràng, trong trắng, đó gọi là
xả niệm thanh tịnh.
Hỏi: Tại sao niệm đó được rõ
ràng trong trắng nhờ xả?
Đáp: Xả nầy lìa tất cả phiền não, giống như và gần với sự
thọ đắc, nên trở thành bất
động, chẳng lo tạo dựng gì. Sự chẳng
tạo dựng cùng với xả gần nhau, khiến cho niệm vươn tới chỗ
chẳng động mà thành sự chẳng tạo dựng.
Do đó, niệm nầy nhờ xả
mà trở thành rõ ràng và trong trắng.
Tứ thiền vì theo sau Tam thiền, nên gọi là Tứ thiền. Nhập
định Tứ thiền là xả, niệm, nhứt
tâm, đó gọi là thành tựu Tứ thiền.
Nhập trú là thành đắc được Tứ thiền, lià
một phần (= lạc), thành tựu được ba phần (=
xả, niệm, nhứt tâm), ba điều lành, mười tướng
đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, quả
báo sanh lên cõi Trời Quả Thực Thiên. Như có nói trước
đây, sanh lên Trời là, vui trú nơi xả,
vượt khỏi cảnh nhơn gian.
Cho nên, Thế tôn có dạy các Tỳ-kheo: "Có người ngồi, dùng khăn
lông trắng quấn che khắp thân mình từ
đầu xuống đến chơn, chẳng chỗ nào
chẳng quấn che. Cùng thế ấy, Tỳ-kheo khiến tâm trong trắng tràn
đầy khắp châu thân, chẳng có chỗ nào
chẳng được tâm trong trắng ngập đến". Cũng
như người tự quấn che khăn lông trắng, người toạ thiền lìa
được hết tất cả phiền não tại Tứ thiền,
điều ấy cũng có thể biết. Cũng như dùng
khăn lông trắng quấn từ đầu đến chơn khiến
cho chẳng lạnh, chẳng nóng, thời tiết điều hòa, thân tâm tì kheo
được thanh tịnh, lại cũng như vậy. Như thế,
nhập vào Tứ thiền thì được
chẳng khổ chẳng vui, đấy là khiến
cho xả lạc tràn đầy khắp thân (
tâm).
Quả báo công đức của Tứ thiền
là được sanh lên cõi Quả Thực Thiên.
Tu Tứ thiền khi chết, thì phàm phu sanh lên cõi Quả Thực Thiên, nếu tâm
chán ghét lỗi lầm thì sanh cõi Vô Tưởng Thiên, thọ
được năm mươi kiếp; nếu Sa-môn thì
hoặc sanh lên Quả Thực Thiên hoặc sanh lên Ngũ Tịnh Cư Xứ.
Hỏi: Tại sao ở Tam thiền phân biệt ba cấp cao, vừa, thấp, còn ở Tứ
thiền chẳng thấy nói đến?
Đáp: Theo chỗ chứng đắc được
nơi Tam thiền, thì có thô, có diệu, cho nên thắng quả có khác nhau.
Còn ở Tứ thiền đã
đến được bờ bên kia vi diệu rồi, chẳng
có chỗ nào hơn nữa, thành ra chẳng cần phân biệt thắng quả chi nữa.
Suy gẫm về các lỗi lầm của Tứ thiền.
Vào thời đó, người toạ thiền
đã thuần thục và
được tự tại nơi Tứ thiền rồi, vui thấy khởi lên
định về Hư-không, lại suy nghĩ
về các loại định thuộc về sắc giới thì
thô, còn Hư-không định thì tế nhị hơn.
Người ấy thấy được các lỗi lầm của sắc và
nhận ra được công đức của Hư-không
định.
Thế nào là các lỗi lầm thuộc sắc giới? Như dùng khí giới, gậy gộc
tranh đấu, nói lưỡi hai chiều, nói dối, tay
đấm chơn đá, đau mắt, bịnh tật, lạnh, nóng, đói khát,... các loại khổ đó là
những lỗi lầm của sắc giới do tham dục tạo ra.
Thế nào là các lỗi lầm của Tứ thiền? Tứ thiền gần với hỉ
là kẻ thù, dựa nương theo các sự vật về sắc, thành ra
được gọi là thô, lại vui thích dính
mắc vào đó, khiến chẳng thành tựu
được phần thắng diệu. Y theo
Hư-không an tịch mà được giải thoát khiến
cho các loại định về sắc hết thô. Nơi sắc, thấy được các lỗi lầm của Tứ
thiền, nhận ra được các công đức của Hư-không là
đã đối
trị được các lỗi lầm đó. Người toạ thiền khi đã thấy các lỗi lầm
của sắc như thế, nhận ra được công đức của
Hư-không định, thì nhập
vào Vô biên Hư-không Định. Từ
nơi định ấy, khởi lên trừ
tướng của Nhứt thiết nhập Điạ, tu theo
tướng Hư-không định về
Điạ, thành mất
đi được sự tạo thêm việc nơi Hư-không,
đó là tác ý vô biên. Nếu tác ý
được như thế chẳng bao lâu thì
tướng của Nhứt thiết nhập Điạ sẽ mất đi.
Từ nơi tướng Điạ (đã
mất được rồi), tâm khởi vươn lên
Hư-không, đến khi vào
được tự tại trong tướng Hư-không,
thì tâm trở nên an ổn. Người toạ thiền ấy khi thấy khởi lên tất cả sắc
tướng có đối tưởng (= tư tưởng liên
quan về sắc) liền diệt đi; nơi mọi loại tư
tưởng đó chẳng hề khởi lên sự tác ý, nhờ
đó mà nhập vào chánh thọ và an trú ở
đấy.
Nói Vô biên Không-xứ là nói chẳng khởi lên sắc tướng ở bất cứ
nơi nào còn sót lại.
Thế nào là sắc tướng nhập? Về sắc giới, khởi lên
định, tưởng, trí, chánh trí, đó gọi nhập vào
sắc tướng.
Thế nào là việt, là vượt qua, là vươn lên? Nơi các sắc tướng
đó nếu có khởi lên tư tưởng liên quan
đến sắc (= đối tưởng) thì liền diệt
đi, đó gọi là vượt qua khỏi
đối tưởng.
Thế nào là có đối tưởng?
Tư tưởng về hình sắc (= sắc tưởng), về âm thanh (thanh tưởng), về mùi
(hương tưởng), về vị (vị tưởng), về xúc chạm (xúc tưởng),
đó gọi là
đối tưởng. Diệt đi là
chẳng hề tác ý đến tất cả các loại tư tưởng
vừa kể.
Thế nào là tất cả các loại tưởng? Người còn chưa nhập vào
định thì hoặc ý giới hoặc ý thức giới
hoà hiệp với tưởng; khi các đối tưởng khởi lên
thì diệt đi, chẳng tác ý đến chúng.
Hỏi: Tại sao chỉ nói đến sự vượt khỏi
tưởng, mà chẳng nói đến
thọ, hành, thức?
Đáp: Nếu vượt khỏi được
tưởng, thì tất cả đều vượt qua được
hết. Tại sao vậy? Nếu chẳng lià được
tưởng, thì tâm chẳng khởi đắc
được. Lại nữa, Thế tôn khi muốn nói đến sự vượt khỏi các sự việc về sắc,
thì Ngài nói đến sắc tưởng,
tất cả các sự Định đều do nơi tưởng
cả.
Hỏi: Nếu chẳng vượt qua được, thì
có hay chẳng có các đối tưởng và các
loại tưởng khác?
Đáp: Có người nhập vào định về
sắc giới mà vẫn có đối tưởng, và
các tưởng khác, vì chúng sẽ được diệt đi sau.
Hỏi: Tại sao người ấy chẳng tu tiếp tục theo
đạo?
Đáp: Vì chán ghét sắc, nên còn chưa diệt. Vì chưa tận diệt
hết các đối tưởng, nên nhập Sơ thiền,
âm thanh như gai nhọn (= chướng ngại). Như
Đức Phật có nói, nơi các đối tưởng vì chán ghét sắc, nên tu hành
theo đạo, đoạn trừ các đối tưởng xong, nhập vào
vô sắc định bất động, hành và
tưởng được an tịnh, nên tưởng
được giải thoát. Như Ca-lan (Alàra
Kàlàma) và Uất-đầu-lam-phất (Uddaka Ràmaputta)
nhập vào Vô tưởng định, có năm
trăm xe phiá trước đi qua lại mà chẳng thấy, chẳng nghe.
Đấy là cách diệt tưởng xứ.
Như thế, khi tất cả các sắc tưởng khởi, liền diệt,
đó là pháp
đoạn sắc giới. Khi có đối tưởng, liền diệt;
các loại tưởng khác, chẳng tác ý theo, đó là pháp
đoạn dục giới. Lại nữa, diệt được tất cả các
sắc tưởng gọi là đắc cõi vô sắc
giới. Khi có đối tưởng mà diệt
được xong, đó là
đoạn trừ sự loạn động từ bên ngoài
vào, khiến cho sự vô động được hiển hiện lên.
Các loại tưởng khác, cũng chẳng tác ý theo,
đó là định được sự loạn động từ bên
trong, khiến an tịnh hiển hiện lên mà giải thoát khỏi
được tưởng.
Hỏi: Nói Vô biên Hư-không, thế nào là Không?
Đáp: Cái Không nầy nhập vào Không gian (= không giới;
giới = cõi), rỗng rang (= không huyệt; huyệt = lỗ hổng), bốn
đại (= đất, nước, gió, lửa) chẳng tiếp xúc
được; đó gọi là Không.
Nơi cái Không đó, chính là khiến
tâm an ổn tràn đi khắp chốn đến nơi chẳng có
bờ bến nào (= vô biên); đấy gọi
là vô biên vô biên Không. Tâm và các tâm sở nhập vào Không
vô biên nầy, đó gọi là nhập vào
Hư-Không-xứ.
Nhập vào Hư-không, nghiã như thế nào? Bản tánh của Hư-không
là vô biên; tánh vô biên nầy là Không-xứ;
đó là nói
đến nghiã của Hư-không. Cũng như sanh lên cõi Trời
được gọi là
đến Thiên xứ,
đắc được định nơi Hư-Không-xứ được gọi là
nhập vào Hư-Không-xứ và an trú ở đấy.
Khi đắc vào
định Hư-Không-xứ, thì vượt lên
trên các sự việc về sắc, thành tựu được ba
phần, ba loại thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng,
an trú trong an tịnh.
Quả báo của công đức tu
định Hư-Không-xứ là
được sanh lên cõi Hư-không Thiên.
Như đã có nói trước
đây, công đức của tu Hư-Không-xứ là
khi chết được sanh lên cõi Hư-không
Thiên, thọ mạng được hai ngàn kiếp.
Suy gẫm về các lỗi lầm của Định Hư-không.
Vào thời đó, người toạ thiền ấy
nơi Hư-Không-xứ đã
được tự tại, liền khởi định
Nhứt thiết nhập về Thức. Vượt qua khỏi Nhứt thiết nhập về Hư-không,
suy nghĩ rằng Định Hư-không còn
thô, thấy thức xứ tế nhị hơn, lại thấy
được các lỗi lầm của Hư-không và nhận ra các công
đức của Thức xứ.
Thế nào là các lỗi lầm của Hư-Không Định?
Định nầy gần với sắc
là kẻ thù, thành ra thô, lại có đối tưởng, cùng
các loại tưởng khác còn chưa lià xa được,
khiến cho niệm bị vướng mắc, mà chẳng
đạt tới thắng phần. Như thế, thấy được các lỗi lầm của Hư-không, nhận ra
được công đức của Nhứt thiết nhập về Thức, là
để đối trị lại.
Giảng rõ về Vô biên Thức Định.
Người toạ thiền ấy đã thấy các lỗi
lầm của Hư-không định, lại nhận rõ
ràng các công đức của thức xứ, liền khởi niệm
tu Hư-không thức, tác ý đầy đủ khiến cho thức trở nên vô biên, tâm
thọ trì, giữ tư tưởng hướng theo thức xứ. Cứ như thế mà tác ý, chẳng bao
lâu theo từ tưởng Hư-Không-xứ mà tâm khởi lên vượt qua khỏi, tới
được thức xứ. Nhờ có tưởng về thức xứ mà
tâm được an. Người toạ thiền ấy vượt khỏi tất
cả Hư-Không-xứ, suy nghĩ hướng về thức vô biên,
đến khi thành tựu thì nhập vào chánh
thọ và an trú vào tất cả thức xứ. "Tất cả" có nghiã là chẳng sót
chỗ nào cả. "Vượt khỏi Hư-Không-xứ" có nghiã là băng
qua Không-xứ thẳng tới thức xứ. "Vô biên thức" có nghiã là
nơi Hư-Không-xứ, khởi tác ý vô biên lên khiến thành ra vô biên thức xứ.
Hỏi: Sắc pháp và phi sắc pháp, thứ nào là vô biên?
Đáp: Chỉ có vô sắc pháp mới là vô biên thôi. Tại sao vậy?
Các pháp vô sắc chẳng có biên bià, bờ bến gì cả, chẳng thể nắm giữ
được.
Lại nữa, Hư-không chẳng bờ bến, nên nói vô biên. Vô biên là, khi tác ý
vô biên thì thành vô biên, vì vậy chẳng có chi trở ngại. Thức nhập xứ
là tâm và các tâm sở nhập vào thức xứ, đó gọi
là thức xứ. Thức xứ, nghiã là gì? Thức xứ chẳng có bờ bến,
nên gọi là thức vô biên.
Thức xứ, cũng như ở cõi Trời thì gọi là Thiên xứ; thọ trì thức
đó, nhập vào
định, nên gọi là thức xứ
định. Nhập vào chánh thọ,
đắc được thức xứ định, thì vượt qua
được Hư-không, thành tựu
được ba phần, ba điều thiện, mười tướng đầy
đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú được an tịnh.
Quả báo tu định thức xứ là công
đức được sanh lên cõi thức xứ. Như
trước có nói rõ, tu hành thức xứ định khi
chết, thì sanh lên cõi Thức Xứ Thiên, thọ mạng
được bốn ngàn kiếp.
Đến đây Thức nhập chấm dứt.
Suy gẫm về lỗi lầm của Vô Biên Thức Định.
Vào lúc đó, người toạ thiền
đã đắc
được tự tại về Thức xứ, muốn khởi lên Vô sở hữu xứ
Định, vượt qua khỏi thức xứ, lại
suy nghĩ rằng thức xứ thì thô, còn vô sở hữu xứ thì tế nhị hơn, rồi thấy
các lỗi lầm của thức xứ, và nhận ra được các
công đức của vô sở hữu xứ định.
Thế nào là các lỗi lầm của thức xứ?
Định về Thức xứ còn gần với Hư-không là kẻ thù, khiến cho sự việc
nơi thức trở thành thô, vì suy tưởng đến vô
biên khiến cho tưởng bị dính mắc, chẳng
đắc được thắng phần, nên lấy các công
đức của vô sở hữu xứ mà
đối trị lại. Người tọa thiền ấy, như thế, nhờ
thấy các lỗi lầm của thức xứ, lại nhận ra được các công đức của vô sở hữu
xứ, liền từ thức xứ định khởi lên ý thức một cách an tường chẳng
tiếp tục tu theo đó nữa, chẳng tiếp tục phân
biệt nữa, khiến cho thức ấy mất đi, rồi tu theo tướng vô sở hữu xứ cho đến
khi được tự tại và tâm nguyện thọ trì. Tác ý như thế chẳng lâu, lià
được thức xứ, tâm an trú vào tưởng vô
sở hữu xứ
Giảng rõ về Vô biên thức định.
Người toạ thiền khởi lìa tất cả thức xứ, thấy
được vô sở hữu, nhập vào chánh thọ và
an trú ở đấy. Nói lià "tất cả" là lià
thức xứ trọn vẹn chẳng còn sót chỗ nào dư lại, thành ra vượt
được thức ấy, siêu nhập thẳng vào
chánh định vô sở hữu xứ. Vô sở hữu xứ là
chẳng tiếp tục hành theo đó, chẳng tiếp tục
phân biệt nữa, chỉ thấy vô sở hữu (= chẳng đâu là có cả),
đó gọi là vô sở hữu xứ. Khi
nhập vào vô sở hữu xứ, tâm và các tâm sở được
gọi là vô sở hữu xứ.
Vô sở hữu xứ, nghiã là gì? Đó là
rỗng rang, chẳng còn bản tánh của thức. Vô sở hữu xứ là thọ trì sự rỗng
rang nơi lời nói, nơi chánh định, đó gọi là
vô sở hữu định. Nhập vào chánh thọ là
đắc được vô sở hữu định, vượt qua khỏi ba
phần thức sự, thành tựu được ba điều
thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú vào
nơi an tịnh.
Quả báo tu vô sở hữu định là
công đức được sanh lên cõi Vô sở hữu
Thiên. Như trước có nói rõ, công đức tu hành
định, về vô sở hữu xứ, khi chết, được sanh lên
cõi Trời Vô Sở Hữu Thiên, sống lâu đến sáu ngàn
kiếp.
Đến đây xong phần nói về Vô sở hữu Định.
Suy gẫm về các lỗi lầm của Vô sở hữu xứ.
Vào thời đó, người tọa thiền
khi đã
được tự tại (= thuần thục) nơi vô sở hữu xứ, liền muốn khởi lên Phi
tưởng phi phi tưởng Định, vượt qua khỏi vô sở
hữu xứ. Lại nghĩ đến vô sở hữu
xứ còn thô, thấy Phi tưởng phi phi tưởng xứ tế nhị hơn, nhận ra
được các lỗi lầm của vô sở hữu xứ cùng
các công đức của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Thế nào là các lỗi lầm của Vô sở hữu xứ?
Định vô sở hữư xứ còn gần với thức xứ
là kẻ thù, cùng với sự phân biệt khởi lên tướng thô, khiến cho niệm bị
vướng mắc, chẳng đắc được thắng phần cao hơn.
Như thế là thấy được các lỗi lầm của
Vô sở hữu xứ và nhờ lấy công đức của
Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà đối trị
lại.
Lại nữa, thấy tướng thô đó như bịnh hoạn,
như ung nhọt, như gai nhọn, còn "chẳng có tưởng" mới là chơn
chánh, mới là an tịch, vi diệu, đó là
nói đến Phi tưởng phi phi tưởng vậy. Người
toạ thiền ấy do thấy niệm yên ổn nhập vào trong Vô sở hữu xứ, liền
từ sự an tịch ấy, tác ý khởi lên để tu theo
một thứ Định khác. Tác ý như thế chẳng bao lâu thì tư tưởng nơi tâm
lià được Vô sở hữu xứ mà vươn lên
được Phi tưởng phi phi tưởng, và tâm
an trú vào đó.
Giảng rõ về Định phi tưởng phi phi tưởng.
Người toạ thiền đã vượt
được tất cả vô sở hữu xứ mà
nhập trú vào chánh định phi tưởng phi phi
tưởng xứ. "Tất cả" nghiã là nói chẳng còn dư sót lại chỗ
nào. "Vượt được vô sở hữu xứ"
nghiã là qua khỏi vô sở hữu xứ, siêu nhập thẳng vào chánh
định, đó gọi là vượt
được tất cả vô sở hữũ xứ. "Phi
tưởng phi phi tưởng" nghiã là từ nơi vô sở hữu xứ kia
đã an tường, tác ý tu hành theo một
định khác, đó gọi là phi tưởng phi phi
tưởng xứ. "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" nghiã là tâm và các tâm sở
vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi
tưởng phi phi tưởng xứ nghiã là gì? Dứt bỏ tư tưởng phân biệt khiến
cho nơi vô tưởng, còn chút ít tư tưởng tế nhị sót lại, mà thành ra phi
tưởng phi phi tưởng, đó là xứ của
phi phi tưởng. "Nhập trú vào chánh
định phi tưởng phi phi tưởng xứ" là thành
đắc được chánh định nơi phi tưởng phi phi
tưởng xứ, vượt qua được vô sở hữu xứ, thành tựu
được ba phần, ba loại thiện, mười tướng đầy
đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú vào nơi an tịnh.
Quả báo tu theo Định Phi
tưởng phi phi tưởng là công đức được sanh
lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Như đã
có nói rõ trước, công đức tu hành
Định Phi tưởng phi phi tưởng là khi
chết được sanh lên cõi Trời Phi tưởng
phi phi tưởng Thiên, thọ mạng được tám vạn
bốn ngàn kiếp.
Hỏi: Tại sao nói đến Phi phi tưởng xứ
mà chẳng nói đến Thức xứ?
Đáp: Lià được sự chấp giữ vào
vô biên, khởi lên được tưởng tế nhị, khiến
cho Thức xứ chẳng thành được.
Lại hỏi: Tại sao tu theo Định nầy
chẳng thành được lậu tận (= sự tận
diệt hết các phiền não)?
Đáp: Lià được tư tưởng phân
biệt còn chưa kham được sự thấy Đạo (=
Kiến Đạo). Lại nữa, Định nầy thật hết sức vi tế, phi tưởng phi phi tưởng
chẳng thể phân biệt được, cho nên chẳng thành tựu
được sự lậu tận.
Phi tưởng phi phi tưởng Định đến đây chấm
dứt.
Giảng rõ thêm các đìều trên
đây.
Hỏi: Liên quan đến Định, có các lời
giảng linh tinh nào?
Đáp: Giảng thêm về: diệt âm thanh,
điên đảo,
khởi, vượt qua, ngoại hành, giác, thọ, và nghi.
Diệt âm thanh: nhập vào Sơ thiền thì ngưng nói năng;
nhập vào Tứ thiền thì hơi thở ra, vào
đều ngưng; tuần tự mà diệt được thanh
và hương. Người nhập định nghe âm
thanh mà chẳng nói lên được. Tại sao
vậy? Vì nơi người nhập định đó, nhĩ
thức chẳng hoà hiệp, nên chẳng biết có âm thanh. Lại nữa, khi nhập
vào sắc định, âm thanh khởi lên sự
loạn động. Như Thế tôn có nói, đối với người
nhập thiền, âm thanh là gai nhọn (= chướng ngại).
Điên đảo là, khi quán
Nhứt thiết nhập về Điạ, nơi chẳng phải Đất mà
lại tác ý theo tướng Đất.
Hỏi: Nếu đã như thế, tại sao
lại chẳng thành điên
đảo?
Đáp: Bốn tưởng điên
đảo đó chẳng khác nhau, nên phải biết
Tưởng về đất đó lại chính là tướng ấy,
vì thế mà điên
đảo chẳng thành.
Khởi là khởi ra khỏi Định, do năm nhơn
duyên: do đau đớn trong tư thế, do
vướng quá nhiều cảnh giới, do chướng ngại, do thiếu quân bình trong
sự khéo léo, do tùy ý muốn. Nếu nhập vào Định
vô sắc, các cảnh giới quá nhiều cũng chẳng khiến khởi ra khỏi Định vì
đang trú trong cảnh bất động. Nếu nhập vào
Diệt Định và Quả
Định, thì có thể khởi ra khỏi do hành
động trước, mà chẳng do các nguỳên
nhân khác còn lại.
Vượt qua có hai loại: vượt về phần và vượt về sự. Từ
sắc thiền vượt qua đến sắc định, đó là
vượt về phần. Từ sắc thiền vượt qua
đến sắc định, rồi từ sắc định vượt qua đến vô sắc định, đó gọi là
vượt về sự.
Ngoại hành là đến gần với tất cả các
định, ngoại hành có năm phần (= năm
yếu tố).
Giác thì từ Nhị Thiền trở lên, được
dứt trừ xong, chẳng gián đoạn, trở thành chẳng có giác
quán (= vô giắc quán)
Thọ thì từ Tứ thiền trở lên, được trừ
dứt chẳng gián đoạn, vượt qua đến với xả.
Nghi là vì chưa đoạn trừ hết tất cả
tham dục, mãi cả đến khi trú vào
cõi phi tưởng phi phi tưởng, đó được gọi là
còn dư sót lại, cũng tựa như sợ con rắn độc mà
leo trốn lên trên cây cao.
Có bốn hạng người chẳng thể đắc được
định, và ắt sẽ rơi vào các đường
dữ: chẳng có nguyên nhơn mà phạm tội ngũ nghịch và có tà kiến.
Chấm dứt phần Linh tinh và Nhứt thiết nhập
Điạ.
-ooOoo-
Phẩm 8, Chi 2 (tiếp): Các Nhứt thiết nhập khác
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Thủy? Thế nào là
tu, tướng, vị, khởi, công đức của Nhứt thiết
nhập Thủy? Giữ tướng của Nhứt thiết nhập Thủy
như thế nào?
Đáp: Tâm duyên theo tướng của Nước (= Thủy)
đó là Nhứt thiết nhập Thủy. Tâm trú
nơi đó chẳng loạn, đó là tu hành
theo Nhứt thiết nhập Thủy. Ý chuyên nghĩ tưởng
đến Nhứt thiết nhập Thủy là tướng.
Chẳng dứt nghĩ tưởng đến Nước là
vị (= công năng) của Nhứt thiết nhập
Thủy. Tâm chẳng khởi ý nào khác với tướng nước, là xứ (=
phạm vi hoạt động).
Có năm công đức nơi Nhứt thiết nhập Thủy
khác với các công đức của Nhứt thiết nhập Điạ: (1) nhập vào và ra
khỏi nước một cách đễ dàng; (2) khiến
cho đất, núi, cung điện bị lay động; (3)
khiến mưa xuống; (4) khiến thân tạo ra nước; (5) qua sông, qua biển được.
Còn các công đức khác của Nhứt thiết
nhập Thủy cũng giống với các công đức của Nhứt thiết nhập Điạ. Tu hành
theo Nhứt thiết nhập Thủy, thì nơi nơi đều
thấy ra nước cả.
Thế nào là giữ tướng của Nhứt thiết nhập Thủy?
Đang quán Nhứt thiết nhập Thủy là
đang giữ tướng của Nhứt thiết
nhập ấy, hoặc là nước tự nhiên, hoặc là nước tạo tác nên. Người
đã toạ thiền lâu ngay cả những nơi
chẳng có nước, cũng giữ được tướng
nước, người ấy thấy nước ở giếng, ở bình, ở
đầm, ở ao, ở sông, ở hồ, ở đại giang (= sông
lớn), ở biển cả, liền quán khiến tướng nước khởi lên; khác với
người mới toạ thiền còn chưa đủ khéo léo để
giữ được tướng nước ở những nơi chẳng có nước.
Người mới tập toạ thiền quán Nhứt thiết nhập Thủy, nên tìm một nơi
thanh tịnh, hoặc nơi chùa nhà, hoặc nơi hang
đá, nơi chẳng tối tăm, chẳng nắng chói, chẳng có gió bụi, chẳng có muỗi mòng,
chẳng bị mọi chướng ngại. Tại nơi ấy, lựa mặt
đất bằng phẳng đào một lỗ để chôn một
cái chén hay một cái chậu, rót vào nước mưa thật trong sạch, chẳng
tạp màu khác, đầy cao lên
đến vành chậu hay miệng chén và ngang
với mặt đất. Châu vi khoảng một tầm. Rồi ngồi
tác ý tưởng đến nước.
Có ba hành động khiến cho tướng
nước khởi lên để tâm nắm giữ lấy: (1) nên
quán sát một cách đều đặn; (2) khéo léo quán
sát; (3) lià xa sự loạn động. Còn
các việc khác cần làm cũng giống như khi đã
nói rộng về Nhứt thiết nhập Địa cho đến cảnh
Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Thủy.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Hoả? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng lưả cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn ở nơi tướng lửa (Hoả = lửa),
đó là Nhứt thiết nhập Hoả. Tâm trú vào
tướng lửa chẳng loạn, đó là tu hành
theo Nhứt thiết nhập Hoả. Tâm khéo theo tướng lửa phóng ý
đi, là tướng của Nhứt thiết
nhập Hoả. Chẳng ngừng tưởng đến lửa là
vị (= công năng). Chẳng khởi ý tưởng nào
khác ngoài lửa ra, đó là xứ
(phạm vi hoạt động).
Có năm công đức của Nhứt thiết nhập Hoả:
(1) có thể khởi lên khói lửa nóng; (2) có thể nhìn qua lửa thấy các
vật khác; (3) có thể khởi lên lửa đốt cháy
vật; (4) tùy ý muốn đốt cháy các vật
khác; (5) hiểu biết được lửa qua sức sáng chói lên. Còn các công
đức khác cũng giống như Nhứt thiết nhập Điạ.
Tu Nhứt thiết nhập Hoả, ở mọi nơi, đều thấy ra lửa cả. Làm cách sao
mà giữ tướng lửa? Nếu hiện đang quán Nhứt
thiết nhập Hoả, đó là đang giữ tướng
lửa, hoặc nơi lửa do mình tạo nên, hoặc nơi lửa thiên nhiên. Người
đã toạ thiền lâu, tại nơi nơi, khi
nhìn thấy lửa cỏ, lửa củi, lửa rừng, lửa cháy nhà, bùng bùng bốc cháy,
theo đó mà quán và thấy
được tướng bỉ phần của lửa khởi lên
trong tâm, khác với người mới toạ thiền. Người nầy chỉ thấy
được tướng lửa ở nơi đã chuẩn bị, còn
ở những nơi thiên nhiên thì chẳng có đủ khéo
léo để giữ được tướng lửa.
Người ấy trước nhứt phải gom các chà củi khô chất thành
đống nơi chỗ thanh vắng, rồi đốt lên
vào lúc mặt trời mọc, hay lúc mặt trời lặn. Lúc
đốt, bắt đầu từ phiá dưới; khi nhìn
vào lửa ngọn và khói thì chẳng tác ý; chỉ tác ý
để khởi lên tướng lửa vào ngay chỗ
chính giữa ngọn lửa.
Có ba cách để khởi và giữ tướng
tướng Nhứt thiết nhập Hoả: (1) phải quán sát bình
đẳng, đều đặn; (2) phải khéo léo; (3) phải lià
nơi loạn động, như đã nói qua trước
đây.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Hoả.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Phong? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng gió cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn ở nơi tướng gió (= Phong),
đó là Nhứt thiết nhập Phong .
Tâm an trú chẳng loạn nơi tướng gió,
đó là tu hành theo Nhứt thiết nhập Phong. Từ Nhứt thiết nhập
Phong, phóng ý đi, là tướng của
Nhứt thiết nhập Phong. Tư tưởng về gió chẳng ngưng dứt, là vị (=
công năng. Chẳng hề tác ý đến tư tưởng nào
khác, đó là xứ (= phạm vi hoạt
động).
Có ba công đức riêng cuả Nhứt thiết
nhập Phong chẳng đồng với các Nhứt thiết nhập
khác: (1) đi theo gió một cách tự tại; (2) có thể khiến gió khởi lên;
(3) tác ý để được sự mát mẻ. Các công đức
khác và phương tiện khéo tu, cũng giống với Nhứt thiết nhập
Điạ.
Giữ tướng gió như thế nào? Người mới bắt
đầu toạ thiền hiện tu theo Nhứt thiết nhập
Phong, do hai cách mà giữ được
tướng gió: hoặc do thấy, hoặc do xúc chạm.
Làm cách nào nhờ thấy mà giữ tướng gió? Người tọa thiền, hoặc
nơi vườn mía, hoặc nơi rừng trúc, hoặc nơi có cây cối xum xuê, theo gió
lay động mà khởi lên ý tưởng về gió,
đó là phong tưởng. Có ba cách
giữ tướng gió: (1) quán bình đẳng, đều đặn;
(2) phải khéo léo; (3) tránh sự loạn động.
Làm cách nào nhờ xúc chạm mà giữ tướng gió? Người mới toạ thiền
đến nơi thanh vắng, khoét một lỗ nhỏ ở tường,
đặt một ống trúc rỗng xuyên qua, ngồi kề gần,
để gió thổi lọt lên thân và tác ý giữ
tướng gió. Còn người toạ thiền đã lâu
thì ở mọi nơi, trong khi đi, đứng, nằm, ngồi,
lúc gió thổi đến xúc chạm vào thân, thì khởi lên quán tướng gió
theo đó, khiến cho tướng bỉ phần của gió khởi
lên trong tâm, chẳng giống với người mới bắt
đầu toạ thiền.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Phong.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Xanh? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng xanh cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn ở nơi tướng xanh,
đó là Nhứt thiết nhập Xanh. Tâm ấy an
trú chẳng loạn nơi tướng xanh, đó là
tu hành theo Nhứt thiết nhập Xanh. Từ Nhứt thiết nhập Xanh, phóng ý
đi, đó là tướng xanh. Tư tưởng
Xanh chẳng dứt, đó là vị (=
công năng). Chẳng hề có ý tưởng nào
khác hơn tưởng Xanh, đó là xứ
(= phạm vi hoạt động).
Có bốn công đức riêng cho Nhứt
thiết nhập Xanh: (1) tâm duyên theo Nhứt thiết nhập Xanh mà
đắc được thanh tịnh giải thoát; (2) chế ngự
được màu xanh như bông hoa xanh; (3) có thể hoá mọi thứ ra màu
xanh; (4) ở nơi nơi đều nhìn thấy ra
màu xanh.
Làm cách nào để giữ tướng
xanh? Giữ tướng Nhứt thiết nhập Xanh hoặc tại các nơi thiên nhiên,
hoặc tại các nơi đã tạo tác. Khác với
người mới tu tập, người toạ thiền lân năm
chẳng giữ tướng xanh tại các nơi có tạo tác, (có chuẩn bị
sẵn) mà giữ tướng ấy ở khắp nơi, hoặc tại bông hoa xanh, hoặc nơi áo xanh,
hay bất cứ màu xanh nào nhìn thấy trước mắt, dầu có thuận theo ý hay
không, cũng thấy được tướng bỉ phần của tướng
xanh hiện khởi trong tâm. Còn người mớí tu tập, nơi thiên nhiên
chẳng giữ được tướng xanh, nhưng ở nơi có
chuẩn bị, tạo tác sẵn, thì mới giữ
được. Nhờ khéo léo quán sát nơi áo, nơi gỗ, nơi tường, lấy hoa A
đa tư (Asita) màu xanh mà
tạo nên được hoa mạn-đà-la
hình ba góc hay bốn góc, dùng màu sắc khác viền vòng quanh bên ngoài,
để tạo nên màu xanh.
Do ba cách mà giữ được tướng xanh: do quán
sát bình đẳng, đều đặn, do khéo léo,
do tránh sự loạn động. Phần còn lại đã
được nói qua trước đây (ở các Nhứt thiết nhập
khác).
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Xanh.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Vàng? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng vàng cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn ở nơi tướng vàng,
đó là Nhứt thiết nhập Vàng. Tâm
ấy an trú chẳng loạn nơi tướng vàng,
đó là tu theo Nhứt thiết nhập Vàng. Từ Nhứt thiết nhập Vàng,
phóng ý đi, là tướng. Tư tưởng
về màu vàng chẳng hề ngừng nghỉ, đó là
vị (= công năng). Chẳng nghĩ đến ý
tưởng nào khác, đó là xứ
(phạm vi hoạt động) của Nhứt thiết nhập Vàng.
Có ba công đức riêng của Nhứt thiết
nhập Vàng, chẳng đồng với các Nhứt thiết nhập
khác: (1) tâm duyên theo Nhứt thiết nhập Vàng mà
đắc được thanh tịnh giải thoát; (2) chế ngự
được màu vàng của các loại hoa vàng khác; (3) tu Nhứt thiết nhập
Vàng, nơi nơi đều thấy ra màu vàng.
Giữ tướng vàng như thế nào? Hiện nơi Nhứt thiết nhập Vàng, giữ
tư tưởng màu vàng, hoặc nơi thiên nhiên, hoặc nơi có chuẩn bị tạo tác
khác, đều giữ tướng vàng ấy. Người toạ
thiền đã lâu thì ở bất cứ nơi nào,
thường thấy hoặc hoa vàng, áo vàng, hay màu vàng nào khác,
đều do theo đó mà khởi lên trong tâm
tướng bỉ phần của tướng vàng, dầu có thuận ý hay chẳng thuận ý, khác với
người mới tập toạ thiền. Người nầy cần quán sát ở nơi
đã chuẩn bị tạo tác trước, mới khởi
lên được tướng vàng trong tâm. Khéo
léo tu theo Nhứt thiết nhập vàng, người nầy hoặc nơi áo, nơi gỗ, nơi
tường, lấy hoa Ca ni ca la (Kanikàra) sắc vàng làm thành hoa
mạn-đà-la hình ba góc hay bốn góc, rồi
dùng màu khác viền chung quanh, để tác ý khởi
lên tư tưởng về màu vàng (hoàng tưởng).
Do ba cách để giữ tướng ấy: (1) do quán
sát bình đẳng, đều đặn; (2) do khéo
léo; (3) do tránh xa sự loạn động. Về phần còn lại, cũng như
đã được
nói trước đây.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Vàng.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập
Đỏ? Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công
đức? Giữ tướng
đỏ cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn theo tướng
đỏ,
đó là Nhứt thiết nhập Đỏ.
Tâm ấy an trú chẳng loạn nơi tướng đỏ,
đó là tu hành theo
Nhứt thiết nhập Đỏ. Từ nơi tướng đỏ phóng ý
tưởng đi, là tướng của Nhứt thiết nhập
Đỏ. Ý tưởng chẳng lià khỏi tư tưởng
đỏ, đó là vị (= công năng)
của Nhứt thiết nhập Đỏ. Chẳng hề tác ý nào khác hơn tư tưởng
đỏ, đó là xứ (= phạm vi hoạt
động) của Nhứt thiết nhập Đỏ.
Có bốn công đức riêng cho
Nhứt thiết nhập Đỏ, chẳng đồng với các Nhứt
thiết nhập khác: (1) tâm duyên theo Nhứt thiết nhập
Đỏ, đắc được thanh tịnh giải thoát; (2) tâm
nhập vào màu đỏ chế ngự được các màu
khác; (3) hoá các thứ khác thành màu đỏ; (4)
nơi nơi đều thấy ra màu đỏ. Các công
đức còn lại cũng giống với công đức
của Nhứt thiết nhập Điạ.
Giữ tướng Đỏ cách nào? Giữ
tướng đỏ đó là hiện
đang quán sát Nhứt thiết nhập Đỏ, hoặc ở nơi
thiên nhiên, hoặc tại nơi có chuẩn bị, tạo tác. Người toạ thiền
đã lâu có thể tại nơi thiên nhiên, nắm
giữ lấy tướng đỏ khi nhìn thấy hoa
đỏ, áo đỏ, hoặc màu sắc
đỏ, theo từ tướng ấy mà khởi lên trong
tâm tướng bỉ phần của tướng đỏ, cho dầu có
thuận ý hay chẳng thuận ý đi nữa, khác với người mới tập toạ thiền. Người
nầy chỉ khởi tướng đỏ ở những nơi được tạo tác, chớ nơi thiên nhiên
thì chẳng khởi được. Khéo tu theo Nhứt thiết
nhập Đỏ, người ấy ở nơi nào có áo, có gỗ, có tường, dùng màu hay
son sắc đỏ như hoa Bàn thâu thời bà (Bandhujivaka)
làm thành hoa mạn-đà-la hình ba
góc hay bốn góc, rồi dùng màu khác viền chung quanh,
để theo đó mà khởi lên ý tưởng về màu
đỏ.
Có ba cách để giữ tướng: do quán sát bình
đẳng, đều đặn; do sự khéo léo; do tránh sự
loạn động; như đã có nói rõ ở phần trước.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Đỏ.
Hoi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Trắng? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng trắng cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn theo tướng trắng,
đó là Nhứt thiết nhập Trắng.
Tâm ấy an trú nơi tướng trắng chẳng loạn, đó
là tu hành theo Nhứt thiết nhập Trắng. Phóng ý
đi từ nơi tướng trắng, đó là tướng
của Nhứt thiết nhập Trắng. Tư tưởng chẳng hề lìa ý tưởng trắng,
đó là vị (= công năng)
của Nhứt thiết nhập Trắng. Chẳng hề tác ý nào khác với tướng trắng,
đó là xứ (= phạm vi hoạt
động) của Nhứt thiết nhập Trắng.
Có tám công đức riêng cho Nhứt
thiết nhập Trắng: (1) Tâm duyên theo Nhứt thiết nhập Trắng
đắc được thanh tịnh giải thoát; (2) đắc được
trắng, (3) trừ các màu khác nhập vào; (4) chế phục
được sự giãi
đãi; (5)
được thiên nhãn; (6) trừ được sự tối
tăm; (7) khởi lên sức sáng chói; (8) nơi nơi thấy ra
được màu trắng. Còn các công
đức khác, cũng giống như ở Nhứt thiết nhập
Địa.
Giữ tướng trắng cách nào? Giữ tướng trắng là hiện
đang quán sát Nhứt thiết nhập Trắng, khởi lên
tướng trắng, hoặc ở nơi thiên nhiên, hoặc tại chỗ có chuẩn bị tạo tác.
Người tọa thiền đã lâu có thể tại nơi
thiên nhiên khởi lên tướng trắng, khi thấy hoa trắng, áo trắng, hay màu
sắc trắng, hoặc bóng trăng sáng, hay ánh nắng
chói, hoặc các vì tinh tú, hay nơi các kiếng soi hình tròn, nương
theo chỗ thấy ban đầu mà khởi lên
trong tâm tướng bỉ phần của tướng trắng, cho dầu có thuận ý cùng không,
chẳng giống như người mới tập toạ thiền. Người nầy chẳng thể từ nơi thiên
nhiên khởi lên tướng trắng được, mà
phải khéo nương nơi áo, nơi gỗ, nơi tường, nơi ánh mặt trời hoặc các ngôi
sao, lấy sắc đó mà làm một hoa mạn-đà-la
hình ba góc hay bốn góc, rồi lấy màu khác viền chung quanh,
để từ nơi ấy mà làm khởi lên tướng
trắng.
Có ba cách để giữ tướng trắng: (1) do quán
sát bình đẳng, đều đặn; (2) do khéo
léo; (3) do tránh sự loạn động; như đã
được nói qua trước đây.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Trắng.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Ánh sáng?
Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công đức?
Giữ tướng Ánh sáng cách nào?
Đáp: Tâm luôn luôn khởi tướng ánh sáng,
đó là Nhứt thiết nhập Ánh sáng. Tâm ấy
trú nơi tướng sáng chẳng loạn, đó là
tu hành theo Nhứt thiết nhập Ánh sáng. Từ tướng sáng phóng ý ra,
đó là tướng của Nhứt thiết nhập
Ánh sáng. Chẳng hề lià tướng sáng, đó là
vị (= công năng) của Nhứt thiết nhập
Ánh sáng. Chẳng tác ý nào khác hơn tư tưởng về ánh sáng,
đó là xứ (= phạm vi hoạt
động) của Nhứt thiết nhập Ánh sáng.
Công đức của Nhứt thiết nhập Ánh sáng cũng
đồng với công đức của Nhứt thiết nhập Trắng. Tu Nhứt thiết nhập Ánh sáng
thì nơi nơi đều thấy ra ánh sáng.
Giữ tướng sáng cách nào? Hiện đang quan
sát Nhứt thiết nhập Ánh sáng, tướng sáng khởi lên,
đó là giữ tướng sáng, hoặc nơi thiên
nhiên, hoặc nơi có chuẩn bi, tạo tác. Người tọa thiền
đã lâu giữ
được tướng sáng nơi nơi trong thiên
nhiên, khi nhìn thấy bóng trăng sáng, ánh
nắng chói, hoặc đèn soi, hay châu ngọc, do tướng sơ khởi
đó khởi lên trong tâm tướng bỉ phần
của tướng Ánh sáng, cho dầu có thuận ý hay không thuận ý
đi nữa, chẳng giống với người mới tập toạ
thiền. Người nầy giữ tướng được chẳng loạn, chỉ ở nơi tạo tác, chớ nơi thiên
nhiên thì chẳng được. Khéo tu Nhứt thiết nhập
Ánh sáng thì đến gần một bức tường
hướng về phương Đông hay phương Tây, lấy một cái bát rót đầy nước vào
và đem để chỗ có ánh nắng chiếu, ánh sáng rọi
lên từ đó thành một hoa mạn-đà-la,
rồi theo mạn-đà-la
đó mà khởi lên tướng sáng.
Có ba cách để giữ lấy tướng sáng: (1) do
quán sát đều đặn, bình đẳng; (2) do
khéo léo; (3) do lià xa sự loạn động,
như đã được nói qua trước đây.
Chấm dứt Nhứt thiết nhập Ánh sáng.
Xong Quyển thứ Năm của bộ
Luận Giải Thoát Đạo.
-ooOoo-