Phẩm 12:
Phân biệt
Đế
Chi 1: Phân biệt Trí,
Khởi diệt Trí, Quán diệt
Trí .
Vào thời đó, người toạ thiền
đã hiểu rõ ấm, giới, nhập, nhân
duyên và đế, đã nghe nói
đến hạnh đầu-đà và thiền rồi.
Phàm phu vì chưa được giải thoát nên
còn lo sợ về sự tái sanh vào các nẻo dữ, do quán tưởng về các nẻo dữ, về
sự sanh tử từ thuở vô thủy (= chẳng biết được
lúc mới bắt đầu), về một sát-na (= đơn vị thời gian hết sức ngắn) chẳng
thể đắc được, về thí dụ ba trăm mâu kích nhọn, về thí dụ muốn cứu lửa đang
cháy trên đầu, mà còn chưa
thông hiểu Bốn Thánh đế, thì
phải khởi lòng mong muốn, tinh tấn dõng mãnh, chuyên tâm trì niệm
đầy đủ, để có thể phân biệt rõ ràng
Bốn Thánh đế.
Hỏi: Như thế, phải làm thế nào?
Đáp: Người toạ thiền đó trước
hết, nên nghe giảng về Bốn Thánh đế
hoặc tóm tắt, hoặc nói rộng, hoặc vừa tóm vừa rộng, rồi do theo lời văn,
do nơi nghiã kinh, do sự đọc tụng mà
gắng thọ trì.
Vào thời đó, người toạ thiền đi đến nơi yên
tịnh, ngồi xuống, tâm chẳng tới lui, chẳng loạn
động, lòng khởi lên niệm Bốn Thánh
đế. Trước nhứt về Khổ đế, nên khởi
niệm hoặc qua ấm, hoặc qua nhập, hoặc qua ấm giới pháp.
Về ấm, khởi lên ý tưởng về các ấm tương ưng theo tự tướng,
đúng như đã
được giảng rõ về Mục: Ấm Phương
tiện. Về nhập, khởi lên ý tưởng về các nhập tương ưng với tự
tướng, đúng như đã học về Mục:
Nhập Phương tiện. Về giới, khởi lên ý tưởng về các giới
tương ưng với tự tướng, đúng như đã
nghe giảng rộng về Mục: Giới Phương tiện.
Người toạ thiền như thế đã hiểu rõ
ấm, nhập, giới rồi, biết rõ chỉ có ấm, nhập, giới mà thôi,
chớ chẳng hề có chúng sanh nào, chẳng hề có thọ mạng nào. Khi ý tưởng nầy
đã khởi lên trong tâm, người toạ thiền
đắc được hành và tưởng.
Bấy giờ, nói tóm lược lại thì chỉ có hai loại khởi lên: danh và
sắc. Như thế, sắc ấm, mười nhập, mười giới thuộc về sắc. Bốn
ấm kia, ý nhập và bảy giới thuộc về danh. Pháp nhập, pháp giới hoặc
thuộc về danh, hoặc thuộc về sắc.
Sắc là sắc, còn danh là danh, hai thứ khác
biệt hẳn. Sắc là không danh. Danh là không sắc.
Sắc chẳng lià danh; danh chẳng lià sắc, cũng như cái
trống và tiếng trống. Sắc dựa và danh mà sanh ra, danh
dựa vào sắc mà sanh ra, cũng người mù với kẻ què, cả hai nương
nhau mà đi xa.
Hỏi: Danh và sắc khác biệt nhau như thế nào?
Đáp: Danh thì chẳng có thân, còn sắc thì có thân.
Danh thì có chỗ biết, sắc chẳng có chỗ biết. Danh di chuyển nhẹ nhàng,
sắc di chuyển chậm chạp. Danh chẳng kết tụ, sắc hay kết tụ. Danh thì hay
biết (= giác), biết (= tri), suy nghĩ (= tư), hiểu
biết (= thức); sắc thì chẳng như thế. Sắc thì
đi, dựa, ngồi, nằm, co, duỗi; danh thì
chẳng như thế. Danh thì, biết tôi đi, tôi
dựa, tôi ngồi, tôi nằm, tôi co, tôi duỗi; sắc thì chẳng như thế.
Sắc thì uống, ăn, nhai, nếm; danh thì
chẳng như thế. Danh thì biết tôi uống, tôi
ăn, tôi nhai, tôi nếm; sắc thì chẳng như thế. Sắc thì vỗ vai, bỡn
cợt (= hí), cười (= tiếu), khóc (= đề), nói
năng đủ cách; danh thì chẳng thế. Danh thì biết tôi vỗ vai, tôi bỡn
cợt, tôi cười, tôi khóc, tôi nói năng đủ
cách; sắc thì chẳng thế.
Đó là chỗ sai biệt giữa danh và sắc. Người toạ
thiền như thế biết rõ chỉ có danh và sắc ở
đây mà thôi, chẳng có chúng sanh nào,
chẳng có thọ mạng nào, và do đó mà
đắc được hành và tưởng.
Giờ đây, nói tóm lược lại tất cả: Khổ đế là,
khiến tri kiến thanh tịnh như thật về Danh-Sắc khởi lên;
đó là lời nói chung mô tả Khổ
đế, cần phải được hiểu biết rõ. Người
toạ thiền, nhờ khởi lên được Khổ đế mà
có được tư tưởng đứng đắn về chúng sanh. Sau
đó, nên quán tiếp về nhân duyên gây ra Khổ.
Hỏi: Khổ đó, do nhân duyên nào,
do nguồn gốc nào?
Đáp: Người toạ thiền đó biết
như vầy: Khổ đó do
sanh làm nhân duyên mà ra. Sanh là, do hữu làm nhân
duyên. Hữu là, do thủ làm nhân duyên. Thủ là, do
khát ái làm nhân duyên. Ái là, do thọ làm nhân duyên.
Thọ là, do xúc làm nhân duyên. Xúc là, do sáu nhập
làm nhân duyên. Sáu nhập là, do Danh-Sắc làm nhân duyên.
Danh-Sắc là, do thức làm nhân duyên. Thức là, do
hành làm nhân duyên. Hành là, do vô minh làm nhân duyên.
Như thế, vô minh duyên hành, hành duyên thức, sanh duyên lão tử, mà
thành ra sầu lo, khổ não. Như thế, khổ ấm ắt thành và khởi lên.
Bằng cách đó, người toạ thiền dùng sợi
dây nhân duyên ràng buộc mà quán tưởng rộng ra.
Bấy giờ, nói tóm lược lại: chính thọ
đó đã làm nhân duyên cho ái mới
thành ra Khổ Tập, nguồn gốc của sự khổ. Khổ tập nầy
đã làm khởi lên, hoặc trí hiểu
biết về Pháp Nhân Duyên, hoặc trí thanh tịnh lià mọi nghi ngờ,
đấy là những lời lẽ diễn tả về Tập
đế đã
làm cho trí khởi lên. Người toạ thiền ấy khi
đã khởi lên
được Khổ tập, thì trong ba thời
(quá khứ, hiện tại và vị lai) vượt qua được
mọi sự nghi nan.
Giờ đây, quán tưởng về Khổ Diệt.
Cái chi diệt làm cho Khổ đó diệt đi?
Người toạ thiền ấy biết rằng sanh
đã diệt thì Khổ
đó diệt. Theo sau sự diệt của sanh
là sự diệt của hữu. Hữu đã
diệt thì thủ cũng diệt. Hễ thủ diệt, thì ái cũng
diệt. Theo sau sự tiêu diệt của vô minh là sự tiêu diệt của
hành. Hành đã diệt thì thức
diệt theo. Theo sau sự tận diệt của sanh là lão tử, sầu lo, khổ
não cũng dứt. Như thế, toàn bộ Khổ ấm thành ra tiêu diệt hết.
Như thế, người toạ thiền đã dựa theo
sợi dây nhân duyên gây tiêu diệt, mà quán tưởng rộng thêm ra.
Tóm lại, thọ đó duyên ái,
khi ái đó diệt thì khổ
diệt theo, khiến cho Diệt đế
khởi lên, thiền giả theo đó khởi lên
Diệt đế.
Bấy giờ, quán tưởng tiếp về Khổ Diệt
Đạo. Đạo là con
đường, đường nào? Phải có
đầy đủ những gì mới làm cho ái
diệt đi? Người toạ thiền ấy đã biết rõ
năm thọ ấm là như thế, nên quán tưởng
về các lỗi lầm của năm thọ ấm, đó là
đạo, là con
đường diệt khổ. Đó cũng là sự
đầy đủ làm cho ái diệt
đi để khiến khởi lên
Đạo đế, như
đã được
nói rộng qua trước đây trong Mục Phương tiện
Đế.
Như thế là người toạ thiền đã lần
lượt làm khởi lên trong trí mình Bốn Thánh
đế.
Vào thời đó, người toạ thiền
quán thấy năm thọ ấm, qua một trăm tám mươi
pháp lần lượt kết tụ và phân biệt với nhau. Người ấy quán sát mọi
sắc pháp trong quá khứ, vị lai và hiện tại, hoặc bên trong, hoặc
bên ngoài, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc thô, hoặc diệu, hoặc gần, hoặc xa, tất
cả sắc pháp đó đều là vô thường,
khổ, vô ngã. Cùng một thế quán rộng rãi
đó, người ấy quán tất cả thọ, tưởng, hành, thức. Nơi mỗi ấm
nầy, có mười hai cửa vào (= nhập), như thế thì tại năm
ấm, có năm lần mười hai pháp
môn (= cửa) thành ra sáu mươi; do đó
sanh ra sáu mươi vô thường kiến, sáu mươi khổ kiến,
và sáu mươi vô ngã kiến, tổng cộng lại là một trăm
tám mươi.
Lại nữa, còn có một trăm tám mươi pháp môn
tại các cửa vào: sáu nội nhập, sáu ngoại nhập, sáu thức thân, sáu
xúc thân, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân, sáu ái thân, sáu giác
thân, và sáu quán thân; mười lần sáu nầy thành ra sáu mươi. Do
đó mà sanh ra sáu mươi vô thường
kiến, sáu mươi khổ kiến, và sáu mươi vô ngã kiến, tổng
cộng lại ba lần sáu mươi ra một trăm tám
mươi.
Qua năm dài tháng rộng, từ mùa nầy
qua tháng khác, nửa tháng, rồi ngày, rồi đêm,
cho đến một niệm sát-na, tất cả các pháp hành
đó biến chuyển đổi thành mới, tương
tục nhau tựa như ngọn lửa mồi từ đèn
nọ truyền sang đèn kia mãi. Do theo lẽ
vô thường trong việc các hành biến chuyển
đó, người toạ thiền quán phân biệt về các hành
ấm.
Qua các nẻo dữ của tái sanh phải chịu cảnh khổ
đói lạnh, sợ hãi, mong cầu, chia lià
cùng người thân, già, bịnh, chết, sầu bi, khổ não, các pháp hành
đó thăng trầm tương tục mãi. Do theo
lẽ khổ đó trong việc các pháp hành
biến chuyển, người toạ thiền quán phân biệt về các hành ấm.
Tùy theo các ấm, nhập, giới, nhân duyên,
đế, nghiệp quả báo là nhân duyên khiến phải lại sanh ra, nên chẳng
có chúng sanh, lại bất động, chẳng có sự việc
nào do tự tánh mà thành khởi được. Do
lẽ vô ngã đó trong việc các
pháp hành biến chuyển, người tọa thiền quán phân biệt về các hành
ấm.
Sắc là vô thường, khi xét theo nghiã phải bị biến diệt. Sắc là
khổ, khi xét theo nghiã gây nên lo sợ. Sắc là vô ngã, khi
xét theo nghiã sắc là chẳng thật. Như thế đó,
người ấy đã quán phân biệt theo cách tóm tắt và theo cách rộng rãi.
Cùng theo cách kể trên, người ấy quán phân biệt thọ, tưởng, hành
và thức như thế, nghiã là quán thấy các ấm nầy vô thường với
nghiã biến diệt, khổ với nghiã gây lo sợ, vô ngã với nghiã
chẳng thật. Đấy là cách quán phân biệt
vừa tóm tắt, vừa rộng rãi.
Như thế, do phân biệt được lẽ vô
thường mà trừ bỏ được thường
tưởng, do phân biệt được lẽ khổ
mà trừ được lạc tưởng, do
phân biệt được lẽ vô ngã mà trừ
được ngã tưởng. (Lạc tưởng =
trước việc khổ mà lại có ý tưởng tưởng là vui)
Hỏi: Thế nào là phân biệt rộng rãi về lẽ vô thường?
Đáp: Người toạ thiền thấy đúng
như thật rằng chư hành đều chẳng hiện
hữu trước khi chúng khởi lên và chẳng tồn tại sau khi
đã diệt mất, người ấy khởi tâm trú vào
cảnh giới vô tướng và được an tâm. Như
thế là người ấy đã quán phân
biệt rộng rãi về lẽ vô thường.
Hỏi: Thế nào là phân biệt rộng rãi về lẽ khổ?
Đáp: Khi quán tưởng về chư hành tâm cảm thấy lo sợ, bởi do
sự mong muốn, và người ấy muốn an tâm nên trú vào cảnh giới vô nguyện
(= chẳng mong cầu). Đấy là cách phân
biệt rộng rãi về lẽ khổ.
Hỏi: Thế nào là phân biệt rộng rãi về lẽ vô ngã?
Đáp: Khi quán tưởng về tất cả mọi pháp (= sự vật), thấy
chúng đều tùy thuộc vào sự vật khác,
từ đó mà khởi lên tâm trú vào cảnh
giới Không, khiến được an tâm. Đấy là
cách quán phân biệt rộng rãi về lẽ vô ngã.
Cùng thế ấy mà quán phân biệt về ba cõi (= dục giới, sắc giới, vô sắc
giới), năm nẻo tái sanh, bảy nơi trú xứ của
thức, chín chốn cư trú của các loại chúng sanh. Người toạ thiền nhờ xét
đến các lẽ: lẽ biến diệt, lẽ gây lo sợ, và lẽ chẳng thật, mà khởi
lên sự quán tưởng.
Đến đây chấm dứt Phân biệt trí.
Người toạ thiền đã phân biệt rõ
về năm thọ ấm đều ứng vào nơi ba tướng
(= vô thường, khổ và vô ngã) rồi, liền mong muốn
được thoát khỏi tất cả mọi hành. Bấy
giờ, khi quán bên trong năm thọ ấm, người ấy
hiểu rõ việc nắm giữ ba tướng đó, lúc
khởi lên cũng như lúc diệt đi. Như
thế, người ấy thông đạt được rằng, mọi pháp (= sự vật) đều chẳng có trước
khi chúng khởi sanh, hiện chỉ có vào lúc sanh, và sẽ biến mất
đi khi sự sanh đã diệt.
Việc nắm giữ ba tướng vô thường, khổ và vô ngã thể hiện ra ba
hình thức: nắm giữ tướng các phiền não, nắm giữ tướng
định và nắm giữ tướng huệ. Nơi
đây, kẻ phàm phu mê mờ lúc thấy, nghe,
hay, biết về cảnh giới, thì ưa lấy cảnh thấy, nghe, hay, biết
đó làm thích thú, khởi lên lạc tưởng,
thường tưởng điên
đảo, rồi nắm giữ và bám níu vào, khiến
phải dính mắc phiền não, tựa như con thiêu thân
đâm đầu vào ngọn lửa.
Đấy gọi là chấp thủ (= bám níu) vào phiền não.
Hỏi: Thế nào là nắm giữ lấy tướng
định?
Đáp: Người toạ thiền muốn đắc
được định, nơi ba mươi tám đề tài
quán tưởng, dùng niệm chánh trí nắm giữ lấy tướng
định của mỗi
đề tài,
để cột tâm lại, tựa như người quản tượng dùng cây kích có móc câu
mà kềm giữ con voi.
Đấy gọi là nắm giữ tướng định.
Hỏi: Thế nào là nắm giữ lấy tướng huệ?
Đáp: Người siêng năng quán, lấy
trí huệ ban đầu tâm phân biệt được tự tướng của mỗi thứ: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, rồi muốn khởi tu tâm xả liền nắm giữ lấy tự tướng
đó, tựa như kẻ rượt đuổi con rắn độc. Đấy gọi
là nắm giữ lấy tướng huệ. Như vậy, nắm giữ
được tướng huệ là
điều đáng vui mừng.
Hỏi: Thế nào là nắm giữ tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức?
Đáp: Về tướng của sắc: hoặc do
điạ giới, hoặc do thủy giới, hoặc do hoả
giới, hoặc do phong giới, hoặc do căn nhập, hoặc do thân nhập, người toạ
thiền quán tưởng như thế và nắm giữ lấy tướng của sắc. Về
tướng của thọ: hoặc do vui, hoặc do khổ, hoặc do chẳng vui chẳng khổ,
người ấy quán tưởng như thế và nắm giữ lấy tướng của thọ. Về tướng của
tưởng: hoặc do sắc tướng, hoặc do pháp tướng, người ấy quán tưởng như thế
và nắm giữ lấy tướng của tưởng. Về tướng của hành: hoặc do cảm xúc, hoặc
do suy tư, hoặc do hay biết, hoặc do quán sát, hoặc do tác ý, người ấy
quán tưởng như thế và nắm giữ lấy tướng của hành. Về tướng của thức: hoặc
do nơi căn thức, hoặc do nơi ý thức, người ấy
quán tưởng như thế và nắm giữ tướng của thức. Như thế, người toạ
thiền khéo nắm giữ lấy các tướng và khéo khiến cho các tướng sắc, thọ,
tưởng, hành và thức, được khởi lên.
Lại nữa, bằng hai cách sau đây, người toạ
thiền khéo nắm giữ được tướng của tâm: do
đối tượng, và do tác ý.
Tâm khởi lên do theo đối tượng.
Do theo đối tượng của sắc, đối tượng
của thọ, đối tượng của tưởng, đối tượng của hành,
đối tượng của thức, mà tâm ta khởi
lên; người toạ thiền nên quán thấy như thế.
Như thế là do đối tượng mà nắm
giữ tướng của tâm.
Hỏi: Thế nào là do tác ý mà nắm giữ tướng của tâm?
Đáp: Khi ta tác ý vào sắc như vầy, tâm ta hiện
đang khởi lên, người toạ thiền nên
quán tưởng như thế. Khi ta tác ý, chăm chú vào
thọ, vào tưởng, vào hành, vào thức, tâm ta
hiện đang khởi lên, người toạ thiền
nên quán tưởng như thế.
Như thế, là do sự tác ý mà nắm giữ được
tướng của tâm.
Hỏi: Thế nào là khéo nắm giữ các tướng?
Đáp: Do các cách vừa kể trên, người toạ thiền quán tưởng về
các tướng của sắc, của thọ, của tưởng, của hành và của thức. Nếu do các
cách đó mà kham quán thêm hơn lên nữa,
thì người ấy sẽ nắm giữ được các tướng đó
thật khéo kéo.
Thông đạt sự sanh diệt của các tướng đó,
là thấy hiểu rõ có sự sanh khởi, có sự biến diệt của chúng. Như
thế, sắc đã sanh, hiện
đang có mặt, tướng sanh đó của sắc biến đổi
thành diệt đi mất. Khi hai giai đoạn
khởi sanh và biến diệt ấy
được huệ nhãn nhìn thấy rõ ràng,
đó gọi là thông
đạt sự khởi diệt.
Lại nữa, có ba cách để thông đạt được sự
khởi sanh các tướng và sự biến diệt của các tướng (khởi
diệt = khởi sanh và tiêu diệt): do nhân, do duyên, và do
tự vị (từc là do tự tánh).
Hỏi:Thế nào là do nhân mà thông
đạt được khởi tướng?
Đáp: Ái, vô minh và nghiệp làm nhân
để khởi lên ấm, nay nhờ có huệ nhãn
nhìn thấy được nguyên nhân
đó mà thông
đạt được tướng khởi sanh.
Hỏi: Thế nào là do duyên mà thông
đạt được khởi tướng?
Đáp: Do duyên thực phẩm mà sắc ấm khởi lên; do
duyên xúc chạm mà ba ấm khởi lên và do duyên Danh-Sắc mà thức
ấm khởi lên, nay nhờ có huệ nhãn nhìn thấy
được các duyên cớ đó mà
thông đạt được tướng khởi sanh.
Hỏi: Thế nào là do tự tánh mà thông
đạt được sự khởi tướng?
Đáp: Như ngọn đèn cứ
tiếp tục cháy chẳng ngừng tắt, chư hành tự
đổi mới trước sau chẳng gián đoạn, từ lúc sanh, lúc đang hiện có, rồi lúc
biến diệt đi, tự tánh ấy được
huệ nhãn nhìn thấy rõ mà thông đạt
được tướng khởi sanh.
Như thế, nhờ do nhân và do khởi lên sự thấy mà thấy
được tướng của Tập
đế. Nhờ do duyên, do tự
tánh và khởi lên niệm hay biết mà thấy
được Khổ đế, rồi lấy
tướng đó làm chỗ thấy và hay biết
được ngay trong sát-na cũng chẳng thể đắc.
Đó là ba cách, do nhân, do duyên, do tự tánh
giúp ta thông đạt được tướng khởi.
Hỏi: Thế nào là do ba cách, thông
đạt được tướng diệt?
Đáp: Ba cách đó là: do
nhân diệt, do duyên diệt và do tự tánh
diệt. Như thế, một khi ái diệt, vô minh diệt và nghiệp diệt, thì ấm
trở nên diệt, rồi do huệ nhãn nhìn thấy rõ các nguyên nhân
đã diệt nên thông
đạt được tướng diệt. Do thực
phẩm diệt, sắc ấm trở nên diệt; do sự xúc chạm diệt, ba ấm trở nên diệt;
do Danh-Sắc diệt, thức ấm trở nên diệt; rồi do huệ nhãn nhìn thấy rõ các
duyên cớ đã diệt nên thông
đạt được tướng diệt. Như ngọn
đèn tiếp tục cháy chẳng ngừng tắt, từ
lúc sơ khởi, qua lúc đang hiện có, cho đến
lúc tàn diệt đi, đều do nơi
tự tánh, rồi nhờ huệ nhãn nhìn thấy rõ mà thông
đạt được tướng diệt.
Như thế, qua sự tiêu diệt của nguyên nhân (= nhân diệt), người
toạ thiền nhìn thấy được Diệt
đế, và nhờ thấy
được tướng của Diệt đế mà thành chỗ
thấy và hay biết được tướng vô sanh. Do
duyên diệt, do tự tánh diệt, do chỗ
đã thấy diệt, người ấy lấy tướng của
Khổ đế làm thành cái thấy sơ
khởi và hay biết ngay trong sát-na chẳng thể
đắc được.
Hỏi: Nếu qua sự khởi sanh và biến diệt mà thấy Khổ
đế, và lấy tướng
đó làm chỗ thấy, thì làm thế nào mà
thượng trí khởi lên được?
Đáp: Khởi thấy diệt có dụng ích gì? Do tướng của
Khổ đế, ta thấy
được những điều chưa từng được thấy.
Khổ đó bao trùm tất cả, cho chí
đến tận các hành, khiến thấy
được các hành tướng
đó đúng như thật. Do niệm khởi, tâm vượt
thoát khỏi các hành, mới thấy được các
lỗi lầm của chư hành đúng như thật. Từ
hành tướng đó, khởi tâm niệm vượt
thoát khỏi các hành, mới nhìn thấy
được nơi nơi khổ đều tràn
đầy, đó gọi là
đã thấy
đến tận bờ ranh.
Đó cũng như con chim bay,
đang bị lửa cháy vây quanh, chẳng khỏi lo sợ
khi còn chưa vọt lên được trên
không trung. Từ trên không trung, chim nhìn xuống thấy ngọn lửa bao vây
tràn khắp bốn bên. Cùng thế đó mà
người tọa thiền nhìn thấy khổ như thế, cứ suy rộng ra cũng
có thể biết được.
Do nhân, do duyên và do thấy sự khởi sanh, người
toạ thiền thông đạt được tướng khởi của nhân
duyên. Mối tương quan giữa sự hiện hữu và sự khởi thành: cái nầy
khởi lên khiến cái kia cũng khởi lên theo. Khi nhân diệt và
duyên cũng diệt, thì thấy sự diệt của tướng nhân duyên, thành ra thông
đạt được: cái nầy chẳng có nên cái
kia chẳng thành, cái nầy diệt cho nên cái kia cũng diệt theo.
Do theo tự tánh, do theo tướng khởi diệt mà đã
thấy được sự khởi thành,
đó là thông
đạt nhân duyên pháp: biết
được sự khởi sanh, biết được sự tận diệt,
biết được sự định trụ.
Như thế, do thấy được sự khởi sanh cùng
sự tận diệt mà hiểu biết được bốn pháp:
pháp một tướng, pháp nhiều loại, pháp vô sự, và pháp chỉ
trú. Trong khi các hành nối tiếp nhau như một dòng tương tục, thấy
được sự khởi sanh của chúng thì tránh
được sự cố chấp khác loại (= chủng
chủng chấp). Trong khi các hành trước sau chuyển biến, thấy
được sự biến diệt của chúng thì tránh
được sự cố chấp vào một tướng (=
nhứt chấp). Thấy được các hành
trước sau đều chẳng động, chẳng có tự tánh,
thì lià được sự cố chấp có tự ngã
(= ngã chấp).
Thấy được các hành trước sau biến
chuyển đều do nhân duyên, thì tránh
được cái chấp về vô sự (= vô sự
chấp)
Kẻ phàm phu ít học còn chưa hiểu đúng được
tánh đồng nhứt, nên dính mắc vào thường kiến và
đoạn kiến. Do chẳng hiểu
đúng về pháp khác loại, thành ra phải
kẹt vào thường kiến. Vì còn chẳng hiểu được
pháp vô sự, thành ra chấp vào ngã kiến. Vì chẳng hiểu biết
được pháp nầy, nên mới nói vô sự. Như
vậy, nơi ngôn ngữ thông thường, lấy một tướng làm ngôn ngữ ưu thắng; lấy
tướng khác loại thâu nhiếp chư pháp làm thành một tướng; lấy nghiã phân
biệt làm thành tướng khác loại; lấy nghiã phiền não lập thành
đồng một tánh; lấy nghiã phương tiện
làm thành tánh khác loại; lấy nghiã thọ quả báo làm thành
đồng một tánh; lấy nghiã gây nghiệp
quả làm thành tánh thấy khác loại. Người toạ thiền như thế thấy tánh
đồng nhứt, nên chẳng còn chấp cái thấy
khác loại nữa. Nếu thấy được tánh khác loại,
nên chẳng còn chấp vào tánh đồng nhứt
nữa. Nếu hiện thấy một tánh, liền tác ý và hay biết
để đoạn trừ cái thấy ấy. Nếu hiện thấy một
tánh, thì liền trừ đoạn kiến
ấy. Nếu hiện thấy tánh khác loại, thì liền trừ thường kiến ấy.
Người toạ thiền như thế, do thấy được sự sanh
khởi và tiêu diệt của chư hành mà thấy
được pháp một tánh và pháp khác loại.
Hỏi: Thế nào là thấy các hành khởi lên mà lại vô sự? Tại sao chư
hành đã vô sự, bất
động, lại khởi lên
được và chỉ trú?
Đáp: Tự tánh và nhân duyên hoà hiệp với nguồn gốc
đã làm nhân duyên cho sự sanh khởi của
chư hành. Như thế, do pháp chỉ trú khiến sanh, nên
được sanh ra. Do theo nghiã chẳng có
thọ mạng và theo nghiã bất động, mà
pháp vô sự có thể biết được. Do theo nghiã
tự tánh và nghiã cơ duyên, như thế pháp chỉ trú có thể hiểu
được.
Khiến cho Không lại hiện lên, thành ra vô sự; khiến nghiệp
hiện lên thành ra có chỗ sở tác. Như thế, pháp chỉ trú khiến hiện lên vô
sự, nên được gọi là pháp. Như
thế, làm cho pháp chỉ trú hiện lên, đó gọi là
hành.
Như thế, do hay biết về pháp một tánh mà thành thông
đạt được tướng Khổ. Do hay biết
về pháp khác tánh như thế mà thành thông
đạt tướng vô thường. Do hay
biết về pháp vô sự cùng pháp chỉ trú như thế, mà
thành thông đạt được tướng vô ngã.
Hỏi: Người toạ thiền nên quán sự khởi sanh và sự tiêu diệt của chư
hành nơi tất cả mọi phạm vi chẳng sót, hay chỉ cần quán một phạm vi là
đủ?
Đáp: Nếu nơi một phạm vi, quán sát chư hành và nắm giữ lấy
tướng khởi diệt của chúng, thì thông đạt được
tất cả mọi chư hành khắp nơi đều đầy
đủ, cũng như một người nếm nước biển tại một nơi trên biển lớn, tức
biết rằng nước biển ở đâu cũng mặn như thế.
Như thế, có thể suy ra mà biết được.
Do hai cách sau đây mà biết
được chư hành
đầy đủ: do đối tượng, do
chẳng mê mờ. Do thông đạt việc nắm giữ
tướng khởi sanh và tiêu diệt của chư hành, người toạ thiền hiểu rõ
ràng và đầy đủ được đối tượng của mọi hành.
Do đó, đoạn trừ được sự vô tri, nên
các hành khác còn lại đều chẳng còn mê
mờ nữa mà được hiểu rõ ràng và
đầy đủ. Như thế, Khởi diệt trí
là trí phân biệt được tất cả chư hành,
phân biệt được từ lúc chư hành vừa
khởi sanh lên, phân biệt được cho đến lúc chư
hành tiêu diệt. Lại phân biệt được
trước khi khởi sanh ra, chư hành đều
rỗng vắng; cũng phân biệt được sau khi tiêu diệt, chư hành cũng
đều rỗng vắng; bởi vì chẳng có sự khởi
sanh nào cả vào lúc trước khi chư hành khởi sanh; và cũng chẳng còn có sự
tiêu diệt nào thêm nữa vào lúc sau khi chư hành
đã tiêu diệt.
Do đó, Khởi diệt trí trở
thành Phân biệt trí, biết rõ tất cả chư hành.
Khởi diệt trí chấm dứt.
Người toạ thiền như thế đã
chánh kiến (= thấy rõ thật đứng đắn) tướng
sanh diệt, khéo phân biệt được rằng chư hành rồi ra sẽ tán diệt,
liền muốn đắc được định. Bấy
giờ, người ấy chẳng tác ý và quán sự sanh khởi, chỉ thấy các tâm sở diệt:
do đối tượng của sắc mà tâm sở
khởi sanh rồi tiêu diệt, người ấy chỉ y theo
đối tượng đó sanh diệt mà quán thấy tâm sở
đang diệt. Cùng thế ấy, theo
đối tượng của thọ,
đối tượng của tưởng,
đối tượng của hành,
đối tượng của thức
đang khởi lên trong tâm, người
ấy quán sát sự sanh diệt của tâm sở liên hệ với
đối tượng ấy, và thấy
được sự sanh diệt của tâm.
Lại nữa, bằng ba cách nầy mà thấy được các
tâm sở diệt: do kết tụ, do song hành, do
phân biệt.
Hỏi: Thế nào là do kết tụ mà thấy
được các tâm sở diệt?
Đáp: Trong các oai nghi (= tư thế,
đi, đứng, nằm, ngồi) tại các nơi, khi tâm và
các tâm sở liên hệ khởi lên, người ấy nhìn thấy sự diệt
đi của các oai nghi và qua sự kết tụ,
mà thấy được tâm và các tâm sở diệt
theo.
Lại nữa, do quán sắc vô thường, thọ vô thường, tưởng vô thường,
hành vô thường, thức vô thường, lúc ấy khởi tâm và các tâm sở liên hệ với
các đối tượng vô thường đó, rồi do sự kết tụ
lại mà thấy được sự biến diệt của các
đối tưọng và các tâm sở liên hệ. Cùng một cách ấy, người ấy quán về
các đối tượng của khổ và vô
ngã.
Như thế, nên do kết tụ mà quán thấy sự diệt của tâm và các tâm
sở liên hệ.
Hỏi: Thế nào là do song hành mà quán thấy
được sự diệt của tâm và các tâm sở?
Đáp: Đã phân biệt được
sắc là vô thường, người ấy khởi tâm quán về vô thường, theo sự vô
thường mà thấy được tâm khi sanh khi diệt. Cùng
thế song hành ấy, người ấy quán thọ, tưởng, hành, thức cũng vô
thường, theo các đối tượng vô thường đó, tâm
và các tâm sở khởi lên rồi lại biến diệt, và thấy
được sự diệt của tâm và các tâm sở
liên hệ. Cùng một cách ấy mà quán tiếp về các
đối tượng của khổ, và vô ngã.
Như thế, nên do sự song hành mà quán thấy sự diệt của tâm và các
tâm sở liên hệ.
Hỏi: Thế nào là do phân biệt mà thấy
được sự diệt của tâm và các tâm
sở?
Đáp: Đã quán sắc là vô thường, và tùy theo
đối tượng của sự vô thường mà khởi
tâm, nên người ấy đã thấy
được sự diệt của tâm và các tâm
sở. Như thế, người ấy hiểu rõ quán phân biệt sự diệt của tâm và các
tâm sở liên hệ. Rồi cùng theo lối đó mà
quán về thọ, tưởng, hành, thức cũng vô thường, tùy theo
đối tượng vô thường mà khởi tâm, và
thấy được tâm sanh diệt, lấy
chính cái thấy đó mà nhìn chính cái
thấy đó diệt.
Đó là cách do sự phân biệt mà
thấy được tâm và các tâm sở diệt.
Cùng thế ấy mà quán khổ, quán vô ngã. Như thế, do sự phân
biệt mà hiện chỉ quán về sự diệt của chúng. Khi sự quán về sự diệt
đã nhuần nhã rồi, thấy rõ chư hành
trong sát-na, thì đắc được sự lợi lạc. Qua
trí huệ hiểu biết rõ ràng đó, người
toạ thiền ấy, chẳng còn tùy thuộc vào duyên nào khác, với tâm
chuyên nhứt, nhìn thấy toàn thể thế gian nầy, do theo tự tánh, tựa như hột
cải trên đầu cây dùi, trong sát-na
biến đổi từ sanh, già
đến chết.
Vào thời đó, người toạ thiền
nhìn thấy ra được như thế, như đã nói
trong bài Kệ sau đây:
Theo tự tánh, đôi "Danh-Sắc" đó
Chuyển, cùng chuyển và diệt, cùng diệt.
Đây sanh, nhân đó cũng sanh,
Diệt đây,
đó cũng duyên theo diệt liền.
Ấm vô thường vốn là pháp diệt;
Cùng là pháp diệt, pháp khổ sanh,
Như tiếng vang khi dùi đánh trống.
Sắc, hương,... cùng với năm pháp nọ,
Chẳng bởi do nơi mắt sanh ra,
Cũng chẳng khởi sanh do nơi sắc,
Nhưng chẳng lià cặp đôi "mắt sắc".
Các pháp hữu vi y duyên sanh
Như tiếng vang khi dùi đánh trống.
Sắc, hương,... cùng với năm pháp nọ,
Chẳng bởi do nơi tai sanh ra,
Cũng chẳng theo âm thanh sanh khởi,
Nhưng chẳng lìa cặp đôi "tai thanh"
Sắc, hương,... cùng với năm pháp nọ
Chẳng bởi do nơi mũi sanh ra,
Cũng chẳng theo mùi hương sanh khởi,
Nhưng chẳng lìa cặp đôi "mũi hương".
Sắc, hương,... cùng với năm pháp nọ,
Chẳng bởi do nơi lưỡi sanh ra,
Cũng chẳng theo vị nếm sanh khởi,
Nhưng chẳng lìa cặp đôi "lưỡi vị".
Sắc, hương,... cùng với năm pháp nọ,
Chẳng bởi do nơi thân sanh ra,
Cũng chẳng theo xúc chạm sanh khởi,
Nhưng chẳng lìa cặp đôi "thân xúc".
Các pháp đó sanh, chẳng do sắc,
Chẳng ra ngoài cõi ý bên trong,
Theo nhân duyên mà sanh khởi,
Như tiếng vang theo dùi đánh trống.
Căn của chúng rất là yếu ớt.
Nhân ban sơ cũng rất yếu mềm,
Nhân hiện tại chẳng mạnh chi hơn,
Buộc chung vào nên càng kiệt quệ,
Hoà hợp lại cũng chẳng tăng cường,
Có tương ưng cũng vẫn yếu mòn.
Chuyển động vượt qua còn lắt lẻo,
Lướt đi chậm yếu chẳng an trụ,
Chẳng có sức tự mình chuyển độ,
Thiếu khả năng làm khởi sanh lên,
Giống như ảo ảnh thành càn thát.
Ngay ban sơ, các pháp đó khởi,
Chẳng do tự thân mà sanh ra,
Chẳng do tự lực mà hiện hữu,
Tồn tại được cũng tùy pháp khác,
Lại khiến sanh thêm pháp hữu lậu.
Thân thể yếu mềm chẳng tự sanh,
Chẳng do tự nhân, chẳng tự sự,
Chẳng có tự tánh, luôn tuỳ thuộc
Vào chư hành, các pháp hữu vi.
Vì sanh thân yếu, đời sống ngắn,
Chẳng từ đâu đến, chẳng về đâu,
Gốc gác xa gần biết là đâu?
Tâm nầy vô ngã, chẳng thọ mạng,
Mỗi niệm buộc ràng với khổ, lạc,
Trong sát-na, vượt biển trèo non,
Trải tám vạn kiếp, một lần trú
Chưa hề trở lại, chẳng hai tâm.
Quá khứ, vị lai, cùng diệt mất,
Hiện trú đây, toàn là các ấm.
Kia đã qua rồi, nghe
đã mất,
Nọ còn chưa đến, khoảng còn vắng,
Đó chẳng khởi tướng dị biệt lên,
Do chẳng khởi sanh, hiện tại sanh.
Từ chỗ vô tâm, thế giới mất,
Trong nghiã đệ nhứt: chẳng đến, đì.
Tương lai chẳng tựu, chỉ chuyển sanh,
Các pháp sanh trụ như hột cải.
Pháp diệt, tức là buổi ban sơ,
Thế gian cùng pháp sơ chẳng lìa.
Chẳng thấy đến đi, chẳng thấy sanh,
Chư pháp chẳng sanh, tựa Hư-không,
Giống như điện chớp, phút chốc mất.
Người toạ thiền đó thấy sự diệt vô tận như
thế, nhập vào định. Cũng như khi cọ
xát hai khúc gỗ làm khói lửa khởi lên trong sát-na, trí quang minh
liền khởi lên trong sát-na, cùng với nỗi mừng vui, an lạc, giải thoát,
niệm xứ và xả ly cũng đồng khởi lên.
Lúc đó, nếu người toạ thiền còn chưa
hiểu rõ pháp thiền, tâm sẽ tán loạn hoặc sanh lòng tăng
thượng mạn (= kiêu căng).
Hỏi: Làm thế nào trừ tâm tán loạn
đó?
Đáp: Người toạ thiền đó khởi lên
mừng về pháp thiền, nỗi mừng đó khiến cho tâm
được an, và pháp thiền sẽ điều nhiếp
tâm, khiến cho tâm thông đạt theo sự quán định mà lià xa thường
tưởng. Như thế mà diệt sự tán loạn tâm.
Hỏi: Thế nào là khởi lòng tăng
thượng mạn?
Đáp: Người toạ thiền nơi pháp thiền khởi lên
được tướng sáng, tưởng rằng
đã đắc
được pháp xuất thế gian rồi, nhưng vì còn chưa
đắc mà lại chẳng khởi thêm tinh tấn,
do đó mà sanh lòng tăng
thượng mạn. Còn người toạ thiền hiểu biết, rõ
được phiền não ấy, vốn là một pháp ở
thế gian, đã làm cho
định bị tán loạn, trong khi pháp xuất thế
gian chính là đối tượng Niết-bàn,
nên dùng sự hiểu biết đó mà trừ
được tâm tán loạn, trừ được lòng kiêu
mạn và chỉ nhìn thấy sự tịch diệt, đó là
khéo tu hành, biết tu hành nhiều.
Trí quán về Diệt chấm dứt.
(Giải Thoát Đạo Luận: Quyển
thứ Mười Một).
-----*-----