PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm Hiểu về Phẩm
2: Phân biệt về Giới
Chuyển tiếp: Phẩm 1: Nhân duyên giải nghiã thế nào là
Giải thoát đạo và chỉ rõ
đường tu theo ba môn học: Giới,
Định, Huệ. Trong Phẩm 2 nầy:
Phân biệt về Giới, nói rõ về việc giữ gìn Giới cho thanh tịnh,
tức là giai đoạn đầu tiên của ba
môn học vô lậu đó.
006. Trước, cần phân biệt nghiã của chữ Giới.
Nhận xét chung về Phẩm 2: Phân biệt về Giới, thì thấy Phẩm nầy
khá dài, chẳng những nói về các điều răn
cấm của Đức Phật, gọi là giới luật,
để giữ kỷ luật tu hành và thanh danh
của Tăng đoàn mà thôi, lại còn bàn
đến những thái độ làm giảm mất
đức hạnh đáng kính của tu sĩ và
những hành vi vi phạm kỷ luật, gây trở ngại cho việc tu hành chẳng tiến
bộ.
Vậy, trước nên tìm hiểu: (1) định nghiã
của chữ Giới, (2) các Giới căn bản
được Đức Phật đặt ra, và
(3) cách chế tài các vi phạm giới (chế tài = trừng phạt),
rồi sau sẽ học đến các điều khác được nói
trong Phẩm nầy.
007. Giới luật cho bốn hạng đệ tử Phật.
Các đệ tử Phật gọi chung là tứ
chúng, gồm có bốn hạng:
1) Sa-di và Tỳ-kheo,
2) Sa-di-ni và Tỳ-kheo-ni.
3) Ưu-bà-tắc hay là cận sự nam hoặc thiện nam.
4) Ưu-bà-di hay là cận sự nữ hoặc tín nữ.
Hai hạng trên là hàng xuất gia, đi
tu ở chùa. Sa-di và Sa-di-ni (ni = nữ tu sĩ)
vừa mới vào chùa tu, còn phải trải qua một thời gian tập sự, thường là hai
năm, học giới luật và cách sống trong
chùa. Hai hạng tu sĩ nầy thọ Sa-di giới, còn gọi là
Thức-xoa-ma-ni hay là Bất cụ túc giới, nghiã là Giới còn
chưa đầy đủ, vì chỉ có mười giới
luật.
Còn Tỳ-kheo thọ Cụ túc giới, gồm có 250
điều giới luật, và vớiTỳ-kheo-ni
thì giới cụ túc lên đến 348 giới
điều.
Hai hạng sau là những người chưa xuất gia, nam hay nữ, còn là cư sĩ tu
tại gia. Cả hai hạng thọ ngũ giới (= năm
điều giới răn), hoặc bát quan trai giới (= tám
điều giới luật, khi vào chùa tu chỉ
trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ theo phép
Bát quan trai).
008. Từ Ngũ giới đến Cụ
túc giới.
81. Năm giới của cư sĩ tu
tại gia gồm có:
(1) chẳng sát sanh: chẳng giết hại sanh vật;
(2) chẳng trộm cướp: chẳng lấy vật chưa
được cho mà cứ lấy,
(3) chẳng tà dâm: chẳng dâm dục với ngưòi nào khác hơn là vợ hay
chồng mình;
(4) chẳng nói dối: chẳng nói sai với sự thật;
(5) chẳng uống rượu và chẳng dùng các chất say.
82. Bát quan trai giới của cư sĩ tu ở chùa trong 24 giờ, gồm có
năm giới căn bản kể trên, cộng
thêm:
(6) chẳng trang sức: chẳng xức dầu, dồi phấn;
(7) chẳng ăn phi thời: chẳng
ăn thêm quá giờ ngọ;
(8) chẳng nghe ca hát, chẳng nằm giường cao.
83. Sa-di giới hay Bất cụ túc giới, hay Thức-xoa-ma-ni
mười giới điều, gồm có năm
giới căn bản của người cư sĩ, cộng thêm năm
điều nữa.
(3) Giới dâm dục: từ bỏ dâm dục (khác với cư sĩ);
(6) Chẳng trang sức
(7) Chẳng ăn phi thời
(8) Chẳng nghe ca hát
(9) Chẳng nằm giường cao
(10) Chẳng được giữ tiền bạc, vòng
vàng.
84. Cụ túc giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni còn gọi là Giới
bổn, hay Biệt giải thoát, tiếng Pàli là Pàtimokkha phiên
âm thành Ba-la-đề-mộc-xoa. Gọi
là cụ túc, đầy đủ, có nghiã là
những giới điều nầy được đặt ra đầy đủ để
ngăn chận các tội lỗi, diệt trừ các phiền não, khiến cho việc tu
hành được viên mãn. Gọi là Biệt
giải thoát, có nghiã là vì tuân phục theo
đúng các giới điều nên kỷ luật tu hành
được hoàn toàn đúng đắn, khiến cho
người tu sĩ được thoát khỏi các mối ràng buộc bên trong cũng như
bên ngoài, mà được giải thoát, được tự tại.
Cụ túc giới có 250 điều cho Tỳ-kheo, và
348 điều cho Tỳ-kheo-ni. Người chẳng thọ Cụ
túc giới, chẳng có quyền tìm biết đến
các giới điều ấy gồm có những gì; nếu soi mói
để biết thì phạm tội trộm giới.
009. Chế tài sự vi phạm Giới luật và Sám hối.
Trong Luật tạng có ghi rõ sự chế tài các vi phạm về Giới luật,
để trừng phạt những người chẳng tuân hành,
có mục đích là
để giữ vững kỷ luật sống chung trong Tăng đoàn
và để cải hoá người phạm tội khiến cho việc
giữ giới được thanh tịnh.
Nói cách tổng quát, Luật tạng phân biệt hai loại vi phạm:
trọng tội (= tội nặng) và khinh tội (= tội nhẹ). Trọng
tội còn gọi là Ba-la-di, phiên âm tiếng Pàli Pàràjika, gồm
có:
1) tội dâm,
2) trộm cắp,
3) sát sanh: giết người
4) tăng thượng mạn: mình chưa chứng
đắc mà khoe mình
đã chứng
đắc quả vị.
Phạm một trong bốn trọng tội sẽ bị mất qui chế Tỳ-kheo và bị trục xuất
khỏi Tăng đoàn.
Còn các khinh tội khác, thì có thể sám hối trước Tăng
đoàn, hoặc trước một vị Tỳ-kheo khác và chịu hình phạt biệt cư
(phải ở riêng, chẳng được tiếp xúc với các
Tỳ-kheo khác) trong một thời gian. Chữ Sám hối (sám:
do tiếng Phạn Ksamayati; Hối = tiếng Hán Việt,
ăn năn tội lỗi) gồm có hai việc: (1) nhìn
nhận lỗi đã phạm; (2) hứa kể từ nay
chẳng tái phạm nữa. Sau khi đã thành
tâm sám hối thì tội phạm kể như được tiêu
diệt.
010. Tìm hiểu nghiã các chữ khó trong Phẩm 2:
Sau khi đã nhận
định rõ thế nào là Giới, Giới luật
trong đạo Phật, bây giờ trở lại Phẩm 2,
để tìm hiểu trước về (1) nghiã các chữ khó, kế (2)
sắp xếp các ý tưởng nêu trong Phẩm nầy lại
để lập thành dàn bài chi tiết
và hầu rút ra được (3) ý chánh.
Tư giới: Tư = suy tư, suy nghĩ; Tư giới là suy nghĩ
về Giới, tức là lo nghĩ: làm như vầy chẳng biết có phạm giới
không; hễ phạm giới thì có hại điều gì...
Uy nghi giới: Uy nghi = thái
độ, hành động đứng đắn; có bốn uy
nghi, hay bốn oai nghi khi đi, khi
đứng, khi nằm, khi ngồi.
Uy nghi giới là cách đi, đứng, nằm,
ngồi, đúng theo cách một người tu hành
đàng hoàng. Uy nghi giới là những cách thức tế nhị mà tu sĩ
thực hành trong lối sống hằng ngày; còn gọi là tế hạnh, các cử chỉ
khéo léo, nghiêm trang của người tu. Ở Phẩm nầy, chữ uy nghi giới
được cắt nghiã là lià xa các dịp gây
nên tội lỗi, làm thiếu mất tư cách của tu sĩ.
Bất việt giới: Bất = chẳng; việt = vượt quá; Bất
việt giới là các cử chỉ chẳng hề vượt quá giới luật, giữ sao cho
đúng giới luật.
Hộ giới: Hộ = thủ hộ, phòng hộ, giữ gìn cho
được nguyên vẹn; Hộ giới có
nghiã là giữ gìn chẳng để mất, hay thiếu sót.
Giác và Quán: Giác = nghiã thường là biết; nghiã
đặc biệt là giác ngộ, trước
chưa biết nay đã biết và hiểu tường
tận. Nghiã, ở đây, chữ giác nói
về một thiền chi (chi = nhánh, ngành) tức là một giai
đoạn trong Sơ thiền. Khi người ngồi thiền bắt
đầu quán tưởng, ý nghĩ đầu tiên về đề
mục, biết về đề mục ấy, gọi là giác, khiến cho tâm chú ý
đến đề mục.
Đó là ý tưởng sơ khởi về
đề mục. Chữ Giác nầy dùng
để dịch chữ Pàli Vitakka, còn
được dịch là tầm. Trong
các bản dịch Anh văn, chữ Giác
nầy được dịch là initial thought.
Quán: Quán = thường được đọc là
Quan, trong chữ quan sát, với nghiã là xét xem kỹ lưỡng.
Nhưng trong Thiền học, chữ đó thường được đọc
là Quán, cũng có nghiã xem xét kỹ lưỡng, nhưng hướng nhiều
về bên trong tâm hơn; như trong các chữ quán tưởng, quán chiếu, quán
kiến v.v. Ở đây, trong Phẩm nầy và
các Phẩm kế tiếp, chữ Quán được dùng
làm một thiền chi, tiếp theo thiền chi giác. Như một thiền chi,
Quán có nghiã là ý tưởng của tâm đi sâu vào
đề mục, quán sát kỹ đề mục, trong khi thiền
chi Giác chỉ chú ý đến đề mục mà
chưa đi sâu vào chi tiết. Chữ Quán
dùng để dịch chữ Pàli Vicàra,
còn được dịch là tứ.
Trong các bản Anh văn, chữ Quán
nầy được dịch là applied thought.
Hỉ: Hỉ = mừng, tình cảm thích thú thường biểu lộ ra bằng
hành động bồng bột như tâm nhảy nhót, tâm rất
động.
Lạc: Lạc = vui, tâm trạng dễ chịu, sảng khoái và lắng dịu,
kéo dài sau cơn mừng bồng bột, tâm trở nên dịu lại.
Hỉ, Lạc khác nhau rất tế nhị. Hỉ khác, Lạc khác, cũng
như Mừng khác, Vui khác. Giác, quán, hỉ, lạc là bốn
thiền chi.
Không định: Không = tánh
Không, sự rỗng rang và vắng lặng; Định =
tình trạng tâm đang dừng các ý
nghĩ lại. Không định ở
đây nói đến tình trạng tâm của thiền
giả đã
đạt đến cõi Không vô biên xứ.
Các Phẩm sau về Định sẽ nói
rõ các cấp Định, như Không
định, Thức định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng
phi phi tưởng xứ định, Diệt thọ tưởng định.
Vô thường: Vô = chẳng; Thường = còn hoài, chẳng biến
đổi. Vô thường là
đặc tướng của muôn sự vật, luôn luôn biến
đổi, để đi đến hoại diệt.
Thường tưởng: Thường = thường hằng, còn hoài hoài, chẳng
biến đổi, chẳng bị hoại diệt. Tưởng
= ý tưởng.
Thường tưởng là một tà kiến, cần phải dùng
đến chánh kiến về vô thường tưởng
mà đánh đổ và dẹp bỏ
đi.
Vô ngã: Vô = chẳng; Ngã = ta; Vô ngã là một
đắc tướng của muôn sự vật. Vì bản thể
rỗng rang do nhiều sự vật khác kết hợp lại, nên chẳng có sự vật nào có
tự ngã cả. Vì chẳng có tự ngã, nên mới gọi là vô ngã. (Tự
ngã, nói tóm tắt, là tự mình có lấy được
một mình, chẳng dựa vào sự vật khác mới hiện hữu).
Khổ hoạn: Khổ = tình trạng chẳng vừa ý, khó chịu,
đau đớn cả thể chất lẫn tinh thần.
Hoạn = tai hoạ, lo sợ. Khổ hoạn có nghiã là nạn khổ, cái khổ
gây thành tai hoạ.
Khổ là một đặc tướng của muôn sự vật,
gây nên sự bất toại nguyện, chẳng vừa ý. Ba
đặc tướng Khổ, Vô thường, Vô
ngã là căn bản giáo lý
của Đạo Phật.
Vô nhiễm: Vô = chẳng; nhiễm = dính dơ. Vô nhiễm
là chẳng hề bị nhuốm dơ. Bực Thánh là bực vô nhiễm, vì chẳng bị
phiền não khuấy động nữa.
Tham dục: Tham = ham muốn quá mức; dục = tình cảm ham
muốn. Chữ tham dục trỏ vào các ham muốn chẳng lành và quá mức, có ý
nghiã chẳng tốt.
Diệt tận: Diệt = tiêu diệt, mất
đi; tận = cùng cực, chẳng sót. Diệt tận là tiêu mất
chẳng còn sót lại.
Thâm hậu: Thâm = sâu; Hậu = dầy.
Vô tướng: Vô = chẳng; Tướng = hình tướng, hình dạng.
Vô tướng là chẳng còn hình tướng nữa, tức là hướng về tánh
Không.
Vô tác: Vô = chẳng; tác = làm; ở
đây chữ tác có nghiã là tác
nguyện, khởi lên sự mong cầu. Vô tác, ở
đây, là chẳng mong cầu, ước nguyện gì
cả.
Tăng thượng huệ: Tăng
thượng = tăng là thêm lên; thượng là cao; Tăng
thượng huệ là trí huệ cao hơn trí thông thường.
Chấp trước: Chấp = cầm nắm và giữ lấy; Trước = bị
dính mắc. Chấp trước, chấp thủ, cố chấp, các chữ nầy chỉ cho sự bấu
níu vào rồi bị kẹt luôn vào chỗ được nắm giữ.
Tri kiến như thực: Tri kiến = các sự hiểu biết; Như thực
= đúng như sự thật, đúng theo Chơn lý.
Đồng nghiã với chánh kiến; trái nghiã với tà kiến.
Vô minh: Vô = chẳng; Minh = sáng; Vô minh chỉ
cho sự ngu tối, mê mờ. Trái nghiã với Trí huệ, Bát-nhã.
Tu-đà-huờn: phiên âm chữ Pàli
Sotapanna, người đã bước vào
dòng Thánh, còn dịch là Nhập lưu (= vào dòng nước Thánh) hoặc
Thất lai (= còn phải tái sanh bảy lần nữa).
Đây là quả vị thứ nhứt trong hàng
Thanh văn.
Tư-đà-hàm: phiên âm chữ Pàli
Sakadàgàmì, còn được dịch là
Nhứt lai (= chỉ còn phải tái sanh một lần).
Đây là thánh quả thứ hai trong hàng
Thanh văn
A-na-hàm: phiên âm chữ Pàli Anàgàmì, còn
được dịch là Bất lai (= chẳng
còn phải tái sanh lại cõi trần nầy).
Đây là thánh quả thứ ba trong hàng Thanh văn.
A-la-hán: phiên âm chữ Pàli Arhant,
đây là thánh quả thứ tư và cao nhứt
trong hàng Thanh văn.
Bốn đạo và quả nầy sẽ
được giảng rõ ở các Phẩm sau.
Thô phù: thô thiển, thô tháo, cục mịch, vụng về.
Vi tế: nhỏ nhiệm, tế nhị, khéo léo, tỉ mỉ.
Phi uy nghi: Phi = chẳng phải là, Uy nghi = thái
độ đứng đắn. Phi uy nghi là có
thái độ thiếu trang nghiêm.
Căn pháp: Căn
= nguồn gốc, ở đây có nghiã
là các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Căn
pháp là pháp (= phép tu) giữ gìn các căn,
nghiã là chẳng để mắt chạy theo hình
sắc, chẳng để tai chạy theo âm thanh,... mà
biết kềm giữ các căn lại: thấy hình
sắc, biết có hình sắc mà tâm chẳng chạy theo hình sắc
đó. Đối với các căn khác, cũng kềm giữ như
thế.
Vị: Vị của Giới = ở đây có nghiã
là chức năng, công dụng của Giới. Bộ Luận nói
vị của Giới là khiến có niềm vui,
được sự sảng khoái, vì biết mình chẳng
có lỗi lầm chi.
Khởi: Khởi của Giới = ở đây có
nghiã là sự khởi phát, sự bộc lộ lên của Giới. Khi nào biết
mình có Giới khởi lên? Đó là biết mình
chẳng hề lo buồn, chẳng hề hối tiếc. Tại sao? Vì mình giữ
đúng Giới, chẳng phạm lỗi nhỏ nào
để lo sợ, hối tiếc.
Túc xứ: Túc = đầy đủ;
xứ = nơi chốn. Túc xứ của Giới là nơi có
đầy đủ điều kiện khiến cho Giới khởi lên.
Ở đây, túc xứ của Giới là ba
giai đoạn của điều thiện: sơ thiện, trung
thiện và hậu thiện. Luận văn nói
Túc xứ của Giới còn có nghiã là
đóng cửa các căn lại, nghiã
là khi nhìn, mắt biết hình sắc mà tâm chẳng chạy theo hình sắc, vì cửa
mắt đóng chặt khiến hình sắc chẳng
lọt vào trong để tâm có dịp chạy theo sắc. Vì
tâm chẳng duyên theo sắc trần, nên gọi là biết giữ Giới.
Gỗ chiên đàn: một loại gỗ có
mùi thơm như trầm.
Nghiêm túc: Nghiêm = trang nghiêm; Túc =
đầy đủ. Nghiêm túc là
đầy đủ sự trang nghiêm,
đàng hoàng.
Thọ trì: Thọ = nhận, chịu lấy; Trì = giữ gìn. Thọ
trì là nhận lấy và giữ gìn. Thọ trì Kinh là
đọc hiểu bản Kinh, áp dụng bản Kinh ấy để tu
tập và luôn luôn giữ gìn sự ứng dụng bản Kinh mãi mãi vào
đời sống.
Kiêu mạn, cao mạn, ngạo mạn: Cả ba
điều mạn nầy đều mang ý nghiã
tự cao, làm phách, coi mình trọng và khi dể kẻ khác.(Mạn = gốc từ
tiếng Pàli màna = hãnh diện)
Nhẫn nhục: chịu nhịn, bền chí.
Khẩu vị: Khẩu = miệng; Vị = mùi vị của thức
ăn. Khẩu vị là sự thích món
ăn khoái miệng.
Tiết giảm: giảm bớt, giữ cho đúng
chừng mực.
Đối trị: chống cự lại, chữa trị cho lành căn
bịnh.
Tín niệm: Tín = lòng tin tưởng; niệm = ý nghĩ trong
lòng. Tín niệm là lòng tin vững chắc.
An trú: An = yên; Trú = ở, cư trú. An trú trong
Giới, ở đây, có nghiã là tâm
đang ở yên mãi trong sự giữ gìn Giới
luật.
Lợi dưỡng: Lợi = lợi lộc, ích lợi; Dưỡng = nuôi.
Lợi dưỡng ở đây chỉ sự hưởng thọ các tiện
nghi vật chất do người khác cung cấp cho.
Giới cấm thủ: Giới cấm = đây là
những giới cấm của ngoại đạo đầy sự mê
tín, như đốt lửa, giết thú cúng tế thần, v.v.
Chấp chặt vào các điều giới cấm của
ngoại đạo, tà giáo, được gọi là
Giới cấm thủ (Thủ = chấp thủ = giữ chặt một cách mù quáng).
Phạm hạnh: Phạm = cõi trời Phạm; hạnh = hạnh kiểm,
tánh hạnh. Phạm hạnh là hạnh kiểm của người tu hành giữ giới thanh
tịnh, sẽ được tái sanh lên cõi Trời
Phạm. Phạm hạnh còn được gọi là
giới hạnh của bực Thánh.
Duyên giác: Duyên = nhân duyên; Giác = giác ngộ.
Duyên giác, còn gọi là Độc giác,
hay Bích chi Phật, là bực đã tự
mình giác ngộ, nhờ thông đạt được lý Nhân duyên;
bực Độc giác chẳng phát nguyện
cứu độ chúng sanh, chỉ lo tự độ thôi. (Bích-chi-Phật
phiên âm tiếng Pàli Paccekabuddha).
Xả bỏ thọ mạng: chết.
Cảm thọ: Cảm = cảm giác, cảm xúc, tình cảm; Thọ =
nhận chịu; Cảm thọ, ở đây, là
một tình cảm khởi lên trong tâm khi tiếp xúc với cảnh bên ngoài, hoặc xúc
động vì ý bên trong.
Xúc giới, Vô xúc giới: Xúc = tiếp xúc với, va chạm
đến; Giới = chữ Giới có
nghiã tổng quát là phạm vi hay lãnh vực, hoặc vùng. Xúc giới là
lãnh vực được tiếp xúc đến, tức là nơi
mà mình có thể chạm đến, rờ mó hay cảm giác
được. Còn Vô xúc giới là vùng mà ta chẳng tiếp xúc
đến được.
Nhưng ở đây, trong đoạn văn nầy (đoạn
nhóm ba loại: xúc giới, vô xúc giới và Phạm hạnh) thì chữ
Giới lại có nghiã là các điều răn cấm.
Cho nên ở đây, xúc giới
là sự vi phạm vào giới luật; vô xúc giới là chẳng vi phạm giới.
Y thế, y thân, y pháp: Y = nương tựa, dựa theo. Y thế
là dựa theo đời sống thế tục; Y
thân là nương tựa vào thân thể; Y pháp là nương theo, tuân theo
Chánh Pháp.
Sở nguyện: Sở = nơi; Nguyện = cầu nguyện, thề nguyện,
ước nguyện. Sở nguyện là điều mong
cầu.
Điạ ngục: Điạ = đất; ngục = nơi giam tù.
Điạ ngục là một
đường dữ, phải chịu hình phạt vì
đã làm các việc ác lúc sống. Còn hai
đường dữ kia là ngạ qủi (= qủi
đói) và súc sanh (= thú vật).
Ô nhiễm: Ô = đen, dơ dáy;Nhiễm
= dính vào. Ô nhiễm là làm cho dính dơ. Trái nghiã với Vô
nhiễm.
Tịch kiến: Tịch = yên lặng; Kiến = ý kiến, tư tưởng;
Tịch kiến là có tư tưởng về sự yên lặng, an vui của Niết-bàn.
Bạch y: Bạch = trắng; Y = áo; chữ Bạch y trỏ
vào những người tu tại gia, gồm có đàn
ông gọi là ưu-bà-tắc (Pàli: upàsaka) hay là cận sự nam;
đàn bà tu tại gia
được gọi là ưu-bà-di (Pàli:
Upàsikà) hay là cận sự nữ.
Đến chùa, họ mặc áo trắng, để phân
biệt với áo vàng của tu sĩ.
Tánh giới: Tánh = ở đây có nghiã
là họ hàng; giới = giới luật. Chữ Tánh giới ở
đoạn nầy có nghiã là những tục lệ
truyền thống theo thiên nhiên của một bộ tộc,
đây là bộ tộc Uất-thiền-việt, sống vào thời
Đức Phật Thích-ca, ở miền Bắc Ấn
Hạnh giới: Hạnh = nghiã thông thường là hạnh kiểm, thái
độ thường ngày; ở
đây, hạnh giới có nghiã là lối
sống đúng theo luật lệ của quốc gia.
Bồ-tát: Bồ-tát, phiên âm chữ Pàli, Bodhisatta, chữ
Phạn Bodhisatva, đủ chữ là
Bồ-đề-tát-đoã, có nghiã là một
chúng sanh đã giác ngộ. Riêng trong
Giáo lý Phật giáo Nguyên thủy, chữ Bồ-tát dành riêng cho
Đức Phật Thích-ca, khi Ngài chưa thành
Phật, còn tu theo hạnh Bồ-tát. Trong Giáo lý Phật giáo Bắc tông,
chữ Bồ-tát chỉ đến các vị đã
được giác ngộ (tự giác)
và đi giáo hoá chúng sanh khác để họ
giác ngộ theo (giác tha).
Đức Phật là bực
đã tự giác,
đi giác tha, và việc giáo hoá
chúng sanh đã thành công, gọi là
giác hành viên mãn.
Tứ chánh cần: Tứ = bốn; chánh = chơn chánh,
đúng đắn; cần = siêng năng.
Tứ chánh cần là bốn điều siêng
năng:
(1) điều ác chưa phát sanh thì
chận đừng cho phát sanh;
(2) điều ác đã phát sanh, thì liền diệt bỏ
đi;
(3) điều lành chưa sanh, thì khiến cho sanh ra;
(4) điều lành
đã sanh, thì làm cho tăng
lớn lên.
Trong Bát Chánh đạo, chánh tinh
tấn, sự cố gắng chơn chánh, chính là tứ chánh cần.
Đạo sư: Đạo = con đường,
đường lối tu hành, Sư = thầy dạy. Ở
đây, trong đoạn giới uy nghi Ba-la-đề-mộc-xoa,
chữ Đạo sư chỉ đến Đức Phật
Thích-ca.
Thế tục: Thế = đời;
Tục = thông thường ngoài đời. Sống theo
thế tục là sống theo tục lệ ngoài
đời, chưa phải là người xuất gia
tu hành.
Hành xứ: Hành = đi, ở đây có
nghiã là tới lui và hành động. Trong
đoạn nói về Hành xứ và phi hành xứ, chữ hành xứ chỉ
cho các nơi mà người tu hành được phép tới
lui; còn chữ phi hành xứ là những chốn mà giới luật
cấm người tu hành đi đến; thí dụ như xóm
điếm, quán rượu, v.v.
Sa-môn: phiên âm tiếng Pàli là samana, có nghiã là tu sĩ ẩn
cư. Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn
giải thích chữ Sa-môn bằng ba nghiã: (1) cần giả, người
siêng làm điều thiện; (2) tức giả,
người ngưng dứt hẳn mọi nghiệp ác; (3) phạp giả, người có hạnh
nguyện chịu nghèo khó, thiếu thốn. Đức
Phật Thích-ca thường được các tu sĩ ngoại đạo
gọi là Sa-môn Cồ-đàm; Cồ-đàm
(Pàli: Gotama) là họ của Đức Phật
Thích-ca.
Tịnh xá: Tịnh = yên vắng; Xá = nhà. Tịnh xá là
am, cốc, nhà nhỏ, nơi cư trú yên tịnh của người tu hành.
Nữ sắc: Nữ = phụ nữ, thuộc về đàn
bà, cô gái; sắc = nhan sắc. Mua bán nữ sắc là mua bán dâm.
Tứ sự cúng dường: Tứ = bốn; Sự = sự vật; chữ Cúng
dường là đọc trại chữ Hán Việt
Cung dưỡng (= cung cấp và nuôi dưỡng) thành ra sự dâng hiến phẩm vật
cho các vị tu sĩ. Tứ sự cúng dường gồm có bốn việc: (1) thức
ăn, vật uống; (2) y phục; (3) phòng,
giường; (4) thuốc men.
Hoá duyên: Hoá = thay đổi, ở
đây có nghiã khuyến hoá, khuyên mời việc bố thí,
để kết duyên với Phật pháp. Duyên =
cơ duyên, dịp tốt gặp được Đạo Phật. Đi
quyên tiền nơi dân chúng, để cho họ có
dịp biết đến đạo Phật, và hùn phước vào các việc cất chùa, in kinh
v.v., gọi là hoá duyên.
Điều phục: bắt phải tuân theo lịnh của mình, kềm chế, nhiếp
phục. Điều phục các căn có
nghiã là giữ gìn các giác quan, chẳng chạy theo cảnh vật bên ngoài và ý
bên trong. Nói cách khác, điều phục các
căn là "đóng bớt cửa" các căn
lại, để giữ cho tâm chẳng loạn
động.
Thủ hộ: Thủ = nắm giữ; Hộ = bảo vệ, hộ trì. Thủ hộ
các căn là giữ gìn các căn,
hay giác quan, chẳng cho cảnh vật bên ngoài len vào khuấy
động tâm.
Tác ý: Tác = làm; ý = ý kiến; tác ý, theo
nghiã gốc, là sự khởi lên các ý kiến. Trong Tâm lý học, chữ tác ý
thường được dùng
để chỉ một tâm sở trong ấy tâm
chú ý đến đối tượng và khởi lên ý nghĩ
về đối tượng đó.
Tự tại: Tự = chính mình; tại = ngay tại
đó. Chữ tự tại có nghiã là
đang ở trong hoàn cảnh tự do, an
nhiên, chẳng bị ràng buộc, thoải mái. Ở vài
đoạn trong Luận văn, chữ tự tại lại
được dùng như chữ thuần thục,
thí dụ nói "tu Sơ thiền được tự tại rồi
mới học sang Nhị thiền", tức là tu hành có thuần thục ở Sơ
thiền rồi mới học đến Nhị thiền.
Dục lạc: Dục = sự ham muốn các thú vật chất; Lạc =
vui; ráp hai chữ lại, dục lạc có nghiã chẳng tốt, chỉ sự tìm cầu
các thú vui thấp kém, làm trở ngại cho việc tu hành. Dục lạc
đồng nghiã với Tham dục.
Năm món dục lạc Ngũ dục: Ngũ
= năm; Dục = dục lạc, ham
muốn được vui. Năm món đó là: (1)
sắc dục, ham muốn về hình sắc, nhứt là sắc
đẹp; (2) thanh dục, ham muốn về
âm thanh, như đàn ngọt hát hay, lời
khen; (3) hương dục, ham mùi thơm; (4) vị dục, ham muốn
ăn ngon uống ngọt.
Đoàn thực: Đoàn
= vo tròn thành viên; thực = ăn,
thức ăn. Theo phong tục người Ấn khi ăn, lấy tay vo tròn thức
ăn để vào miệng nhai; chữ
đoàn thực chỉ các thức
ăn vật chất dùng
để nuôi thân.
Có Tứ thực, bốn loại "ăn": (1)
đoàn thực, thức
ăn vật chất; (2) xúc thực,
"thức ăn" cho các cảm thọ, như sự vui
mừng, sự nghe ca hát, v.v. (3) tư thực, "thức
ăn" bằng sự suy nghĩ, khi nghĩ đến các tư
tưởng cao đẹp, để nuôi tinh thần; (4) thức thực,
"thức ăn" bằng sự hiểu biết, dùng sự
hiểu biết các kiến thức để nuôi ý thức và
trí huệ của mình.
Thắng pháp: Thắng = ưu thắng, cao hơn hết; Pháp =
pháp tu. Tu đắc được thắng pháp
là tu hành đắc được pháp cao thâm. Còn
gọi là pháp thù thắng.
Tà mạng: Tà = sái quấy, xiêng xéo; Mạng = lối mưu
sanh để nuôi thân mạng. Tà mạng
là lối mưu sanh sái quấy; trái nghiã với Chánh mạng.
Tội chướng: Tội = tội phạm; Chướng = trở ngại. Tội
chướng là những tội lỗi gây thành chướng ngại khiến việc tu hành bị
lùi sụt.
Chiên-đà-la: phiên âm chữ Pàli
Candàla, là giai cấp hạ tiện nhứt. Bốn giai cấp Ấn
độ ngày xưa: (1) Bà-la-môn,
Brahmana, giới tu sĩ; (2) Sát-đế-lợi,
Khattiya, giới vua chúa; (3) Phệ-xá, Vessa, hạng buôn
bán; (4) Thủ-đà-la, Sudda, hạng
làm nghề canh nông và công nghệ.
011. Dàn bài của Phẩm 2: Phân biệt về Giới nằm ngay trong tiểu
đoạn mở đầu của Phẩm đó.
Sau khi đã tìm hiểu xong nghiã các
chữ khó trong Phẩm 2: Phân biệt về Giới, ta lại thấy rằng dàn bài
nằm ngay trong những câu hỏi nêu tại phần đầu
của Phẩm nầy.
Từ các câu hỏi "Giới là gì? Giới tướng ra sao"? cho
đến câu hỏi "Giới và Hạnh khác nhau
ra sao?", ta thấy tác giả muốn định
nghiã chữ Giới một cách rộng rãi, kế
đến nêu ra những trường hợp nào
Giới phát sanh ra, ích lợi của Giới và các chướng ngại gây khó khăn
cho việc giữ giới cho thanh tịnh.
Phần thứ hai, có lẽ là phần gây rối rắm cho ta là khi
đọc qua các loại giới,
được tác giả xếp loại căn cứ trên
hai loại, ba loại và bốn loại, nhưng chẳng thấy nêu rõ
đã dùng tiêu chuẩn nào
để sắp xếp giới nầy thuộc hạng hai
loại, giới kia thuộc hạng ba loại, bốn loại. Ta sẽ cố gắng tìm
ra tiêu chuẩn đó.
Phần sau cùng, có lẽ là quan trọng nhứt, là xét
đến những gì làm cho giới
được thanh tịnh, và làm cách nào
để sống an trú trong Giới hạnh.
Như thế, ta có được dàn bài
sau đây:
012. Dàn bài của Phẩm 2: Phân biệt Giới
Phần I: Giới là gì?
11. Định nghiã rộng rãi: Tất
cả pháp lành đều là Giới:
111. Tư giới, uy nghi giới, bất việt giới, hộ giới
112. Một đoạn của Luận A-tỳ-đàm
nói về Giới.
113. Giới tướng là gì?
12. Vị, Khởi, Túc xứ, Công đức của Giới.
13. Ý nghiã đầu, lạnh
và an của Giới.
Phần II: Các loại giới và các chướng ngại cho Giới.
21. Các giai đoạn của Giới: sơ, trung, và
hậu thiện
22. Các chướng ngại gây khó khăn cho việc
giữ Giới
23. Các loại Giới: hai, ba, bốn loại.
Phần III: Thế nào là Thọ trì Giới?
31. Giải thích về Giới Ba-la-đề-mộc-xoa:
311. Uy nghi che phủ của Ba-la-đề-mộc-xoa
312. Chánh hạnh và phi hạnh
313. Hành xứ và phi hành xứ
32. Thế nào là Giới thanh tịnh?
321. Chẳng phạm tà mạng
322. Thủ hộ các căn
323. Giới về Tứ sự cúng dường và 8
điều quán
33. Giới thanh tịnh:
331. Thọ trì Giới cách nào cho thanh tịnh?
332. Làm cách nào để sống an trú trong
Giới?
013. Tiêu chuẩn để phân loại các Giới.
1. Tiêu chuẩn Giới riêng cho mỗi hạng người:
11. Bốn hạng đệ tử (Tứ chúng):
111. Bạch y giới và Bát quan trai giới dành cho cư sĩ
tu tại gia: 5 điều và 8
điều.
112. Sa-di giới hay Bất cụ túc giới: 10
điều;
113. Cụ túc giới cho Tỳ-kheo: 250
điều;
114. Cụ túc giới cho Tỳ-kheo-ni: 348
điều.
12. Giới thanh tịnh của hàng Thanh văn
và Giới vô phạm của hàng Duyên giác.
13. Giới tại thế cho người tu tại gia, và Giới xuất thế
cho người xuất gia đắc quả
14. Người thất học có Giới học; bực A-la-hán có
Giới vô học, kẻ phàm phu có Giới chẳng học chẳng vô học.
2. Tiêu chuẩn về hạn lượng của giới:
21. Giới hữu biên và giới vô biên.
22. Giới có thời hạn và giới trọn
đời.
23. Giới hữu lượng và giới vô lượng.
24. Giới hữu tâm và Giới vô tâm.
25. Giới căn bản và Giới
vi tế.
3. Tiểu chuẩn về cách giữ giới:
31. Tánh giới và chế giới.
32. Thoái giới và đắc giới.
33. Giới khéo và giới chẳng khéo.
34. Giới hữu y và giới vô y
35. Giới thấp, giới trung và giới cao.
36. Giới sợ, giới lo và giới ngu.
37. Giới thanh tịnh, giới chẳng thanh tịnh và giới
có nghi ngờ.
38. Xúc giới, vô xúc giới và Phạm giới.
39. Giới ngưng ác chẳng phạm, Giới cảm thọ chẳng phạm
và Giới đoạn trừ chẳng phạm.
4. Tiêu chuẩn về uy nghi:
41. uy nghi Ba-la-đề-mộc-xoa;
42. uy nghi về chánh mạng;
43. uy nghi về các căn;
44. uy nghi về hoá duyên.
5. Tiêu chuẩn về chứng đắc:
51. Giới thoái phần, Giới trú phần, Giới thắng phần
và Giới đạt phần.
52.Giới giới, Tập giới, Diệt giới và Diệt
đạo cụ túc
6. Tiêu chuẩn y cứ:
61. Giới y thế, giới y thân, giới y pháp
62. Giới sở nguyện chẳng đồng,
Giới sở nguyện đồng đều
và Giới vô sở nguyện.
63. Tánh giới, Hạnh giới, Pháp chí giới, và Sơ nhân giới.
014. Ý chánh của Phẩm 2: Phân biệt về Giới.
Tu hành là sửa đổi lại cho đúng, nên
cần có kỷ luật để tuân theo. Kỷ luật tu ở chùa
và tại nhà đã
được Đức Phật chỉ dạy, ghi trong
Luật tạng, thành Giới luật. Thái
độ tu sĩ phải nghiêm trang, đứng đắn,
nên thanh qui (= các điều lệ ở
mỗi tu viện) có ấn định các tế hạnh, khiến cho cử chỉ, lời
nói và hành động phù hợp với lối sống
ở chùa. Học về giới luật và thực hành các tế hạnh,
đó là ý chánh của Phẩm
2: Phân biệt về Giới.
Khai triển ý chánh đó, Luận văn đã
trích dẫn lời Phật nói để giảng thêm
về thế nào là Giới, sự khởi phát, sự ích lợi, các chướng ngại liên
quan đến Giới. Phần quan trọng nhứt là
việc thọ trì Giới, nghiã là xem việc giữ
đúng theo Giới hạnh như là mạng
sống tu hành của mình. Luận văn chỉ rõ
cách giữ sao cho giới được thanh tịnh,
đặc biệt là cho bực xuất
gia ở chùa.
Khi đọc bản dịch Luận văn, có sự khó khăn
ở đoạn Giới có mấy loại. Tuy
được Luận văn sắp xếp có vẻ gọn gàng, thành hai loại, ba loại,
bốn loại, nhưng rất khó mà hiểu và nhớ hết tất cả các loại ấy, vì
thiếu các tiêu chuẩn để xếp loại. Cho dù
có sắp xếp lại theo tiêu chuẩn đi nữa,
các loại giới được nêu trong Luận văn
chỉ là phụ thuộc, chẳng cần nhớ hết ngay,
điều quan trọng chính là các giới
luật phải tuân theo thật nghiêm chỉnh, và các tế hạnh
phải thực hành cho thật nhuần nhã.
Với các điều vừa nêu qua về ý tứ
trong bài, hi vọng khi đọc kỹ lại bản dịch
Luận văn sẽ thấy rõ và hiểu đúng những
lời dạy về Giới.
015. Suy gẫm về vài ý tưởng được nói trong
Phẩm 2: Phân biệt về Giới.
1) Luận văn (bản dịch trang: 6, 7),
trích dẫn một đoạn Luận tạng: "... Lấy sự xa lià
để cắt bỏ mọi ham muốn là GIỚI; có khả
năng rời dứt mọi ác là tư giới, hộ
giới, uy nghi giới. Lấy sự chẳng giận dẹp bỏ sự giận..."
Đấy là
định nghiã rộng rãi của chữ GIỚI = cắt bỏ mọi ham muốn,
dứt trừ mọi ác. Hiểu đúng được định
nghiã nầy, thì Giới luật sở dĩ
được đặt ra là để cho người nào
mà tuân theo thì tránh được các tội ác,
mà tội ác lại bắt nguồn từ sự ham muốn. Do
đó, người càng ít ham muốn, càng ít có
dịp phạm tội ác, và đồng thời lại có nhiều
triển vọng giữ giới được trọn vẹn. Như thế, bước đầu quan trọng cho người
tu hành, chính là ít muốn, biết đủ,
hay nói theo danh từ Hán Việt là thiểu dục, tri
túc. Thực hiện bước đầu nầy, chẳng
chi hơn là quay vào trong tâm, tự hỏi mình sắp làm như thế, có
phải là do lòng mình còn ham muốn nhiều chăng?
Nếu thấy còn có ham muốn nhiều, tự kềm chế lại chẳng làm,
đấy chính là biết giữ giới
đó, dưới hình thức ngưng lại
chẳng làm. Ai biết thường ngưng lại như thế, sẽ có khá nhiều triển vọng
khéo léo giữ được giới thanh tịnh.
Thí dụ, rằm ăn chay, vào ngày chúa
nhựt, bạn rủ đi 'làm' bát phở. Nếu
đi thì cứ
đi, nhưng chẳng ăn phở, chỉ ăn bánh mì nướng,
đó là đã
biết giữ giới chẳng sát sanh, bằng quyết
định ngưng lại chẳng
ăn phở, chỉ ăn bánh mì nướng.
Trọn đoạn văn trích dẫn khá dài
trong Luận tạng, nên đọc với tinh thần
biết ngưng lại như trên, sẽ thấy được
chỗ cao thâm trong các lời khuyên về sự giận hờn, về sự si mê, về
sự hối tiếc, v.v. cần nên dẹp bỏ và dẹp bỏ bằng cách nào.
Và xin ghi nhớ: Việc giữ giới phải bắt
đầu bằng sự bớt ham muốn
2) Nghiã của Giới, như đã
được nói đến ở cuối trang 8 của Luận văn, là
nghiã đầu, nghiã lạnh và
nghiã an. Trong ba nghiã đó, nghiã
đầu quan trọng nhứt, vì mất
đầu rồi thì còn sống làm sao! Nghiã
đầu là sao? Còn biết giữ giới,
giới mình giữ chẳng bị mình vi phạm, đó là
còn đầu, còn
được sống với đời sống tu hành, mất
đầu đi lỡ vi phạm giới thì còn
lại cái mình cũng chẳng có làm chi! Đó là
muốn nói, dầu cho thuộc muôn Kinh ngàn Kệ, dầu cho bố thí, làm phước thật
nhiều đi nữa, mà chẳng giữ giới cho
trọn vẹn, để cho sứt mẻ, thì bao nhiêu
công đức, bao nhiêu phước
đức, kể cũng là như công dã tràng. Tại
sao? Vì phước đức, công đức đã tạo
đó làm sao có
đủ duyên lành
để đến được với kẻ còn thiếu sót
đức hạnh. Vì lẽ
đó, chẳng nên chọn giới quá cao, quá
khó mà tu, thà cứ giữ cho trọn năm giới
căn bản của người tu tại nhà, mà phải giữ cho kỹ, giữ chẳng
sót, giữ chẳng phạm, đó là biết qúi
trọng cái đầu của mình,
để được ... còn sống
để mà tiếp tục tu hành.
Hai nghiã lạnh và an nói đến
ích lợi của sự giữ tròn các giới. Khi giới
được giữ thật thanh tịnh, thì thân tâm
nhẹ nhàng, tinh thần an ổn, đó là vui
được mát lạnh, vui
được lâng lâng.
Đây chẳng phải là lời nói suông theo
lý thuyết, mà là nhận xét đầy thực tế, mỗi
khi mình biết tự kềm chế mình trong giới luật, tránh
được tội lỗi, cảm giác an lành
và mát lạnh chắc chắn khởi lên trong tâm. Còn chi qúi bằng!
3) Giới khởi lên qua mấy giai đoạn?
Ai cũng dư biết bất cứ việc gì cũng có lúc khởi
đầu, đoạn giữa và hồi kết cuộc.
Giới cũng thế, khởi đầu bằng sự
thọ trì, kéo dài hoài qua sự chẳng vi phạm, và hồi kết thúc
là được niềm vui an lành.
Đấy là lý thuyết. Thực tế cho thấy
việc giữ đúng giới còn phức tạp hơn
nhiều, nhứt là giai đoạn giữa chẳng
vi phạm.
Thí dụ: thọ giới chẳng ăn phi thời,
nói giản dị là ngoài bữa ăn chánh
ra, chẳng ăn tạp nhạp thêm gì nữa. Vào khoảng tám, chín giờ tối,
sót ruột, bụng cồn cào, nhìn thấy có nải chuối
để trên bàn, muốn
ăn. Tay sắp bẻ trái chuối, nhưng bụng nghĩ,
sao lại ăn, phi thời mất rồi.
Bụng lại nghĩ, ối! Giờ nầy Phật ngủ rồi,
ăn có sao, sót ruột quá mà! Giằng
co như thế, một đằng muốn ăn là bụng
mình. Một đằng muốn ngưng lại,
chẳng nên ăn, vì phi thời, cũng là
mình, mình biết và nhớ đến giới cấm
ăn phi thời.
Đằng nầy xúi mình bẻ chuối;
đằng kia biểu đừng. Đằng nầy là...
ma chăng, đang xúi mình cứ
ăn cho khoái miệng, no bụng. Đằng kia là...
Thánh chăng, nhỏ nhẹ khuyên
mình chớ có phạm giới. Thật ra, ma cũng là mình, mà Thánh cũng lại là
mình. Nếu biết bước ra bàn nước, uống vào một ly nước mát, cố quên trái
chuối đi, đó là mình thắng mình,
một trận chiến nhỏ nhoi mà kẻ chiến thắng cũng vinh quang lắm
đấy chớ! Đức Phật há chẳng nói:
Thắng ngàn ngàn người nơi quân trận,
Chưa vẻ vang bằng mình thắng được mình!
(Kinh Pháp cú, Kệ số 103)
Hoá cho nên, cả ba giai đoạn của Giới,
giai đoạn giằng co giữa cám dỗ và quyết tâm giữ giới,
mới là quan trọng. Cả cuộc đời giữ giới chỉ
nằm trong một khoảnh khắc ngắn ngủi: biết dừng lại, chẳng vi
phạm đó thôi.
4) Giới uy nghi thủ hộ các căn,
được nói đến ở khoảng giữa trang 20 của Luận
văn, là một tiểu đoạn có tầm quan
trọng rất lớn trong việc tu tập và giữ giới.
Luận văn dạy rất tóm tắt: "Khi
thấy hình sắc, nghe âm thanh, ngữi mùi, nếm vị, va chạm
đến vật, nghĩ tới pháp (= sự vật), mà
chẳng để vướng mắc phiền não và thọ
trì chẳng vi phạm, đó là biết giữ gìn
các căn theo đúng giới uy nghi..."
Hiểu rõ lời dạy nầy là đã hiểu việc
thủ hộ các căn, tức là giữ gìn
các căn sao cho đúng uy nghi, là khi
các căn (= giác quan) tiếp xúc
với cảnh vật bên ngoài và ý tưởng về sự vật (= pháp) bên trong tâm, thì
tâm chẳng để cho bị vướng mắc vào các
phiền não, (tức là tâm chẳng khởi lên thương, thích hay giận, ghét
liên quan đến đối tượng) và thọ trì
chẳng vi phạm (tức là, có hành động
đúng theo giới, nghiã là thấy sắc
đẹp chẳng chạy theo, nghe lời khen chẳng nở mũi, nghe lời chê chẳng
xụ mặt, v.v.). Việc thủ hộ các căn như thế,
cũng chẳng quá khó, điều thật khó là phải thường xuyên thủ hộ
các căn, chẳng có lúc nào lơ là cả,
thì mới tránh được sự vi phạm giới. Trọn
cuộc đời tu hành, có lẽ việc thủ hộ các căn
là việc cần chăm chỉ làm,
làm hoài hoài, chưa thấy bao giờ là làm xong cả.
Luận văn dạy tám hành
động
để thủ hộ các căn:
1) trừ các ác tướng khởi lên nơi các căn:
ác tướng là hình tướng thô xấu, nguy hại của sự vật
đang ở trước các căn;
2) đối trị việc chẳng tác ý: nghiã là gặp việc thì ứng phó
điềm tỉnh mà chẳng khởi ý lên chê,
khen, thương, giận...
3) chẳng tạm ngưng nghỉ như cứu lửa cháy
đầu: lúc nào cũng kềm giữ các căn,
cấp thiết và cẩn mật như việc chữa lửa
đang cháy bừng bừng trên
đầu.
4) qua sự tiết chế: tiết chế là giữ cho thật
đúng mức; tức là chẳng vì thấy
đẹp mà dòm lom lom, chẳng vì nghe
lời nhạc lã lướt mà nhún nhẩy theo, v.v.
5) điều phục ác tâm: ác tâm
là lòng xấu; điều phục chỗ xấu bụng
bằng cách chẳng cho ý ác khởi lên trong tâm.
6) đắc
định tâm tự tại: tức là thường
giữ tâm an định, chớ có buông lơi tâm rong
chạy rồi thành ra lơ là việc giữ giới.
7) tránh xa người chẳng biết giữ gìn các căn.
8) sống gần người biết giữ gìn các căn.
Tám điều tỉ mỉ trên
đây, nếu biết làm theo, thì
đủ sức để thủ hộ các căn
mà giữ được giới cho thanh
tịnh. Nhưng, có kẻ nói, nếu lúc nào cũng như thế, hoá ra có mắt
chẳng dám nhìn, có tai chẳng dám nghe, nào có khác chi người mù, kẻ
điếc. Không phải vậy đâu! Cứ thấy, cứ nghe,
nhưng phải giữ lòng dửng dưng trước cảnh vật, giữ làm sao cho hình
sắc, âm thanh nếu có len vào tâm thì cũng chẳng khuấy
động nổi được tâm. Nói là
đóng cửa các căn cũng chỉ có
nghiã là khép bớt cửa tâm lại,
đừng để cho tâm xao xuyến vì cảnh vật, rồi sanh ra hành vi phạm
giới. Chỉ có thế thôi!
Xin kể một câu chuyện vui trong Truyện cổ Phật giáo. Có một cô lái
đò trẻ
đẹp đưa khách sang sông. Một tu sĩ đang ngồi cùng khách sang
đò. Đến
bờ, mỗi người trả một tiền; cô lái đò
đòi vị tu sĩ phải trả hai tiền. Hỏi tại sao, cô mỉm cười
đáp: "Một tiền trả công đưa đò, còn
một tiền để mua cái nhìn gái
đẹp đưa đò!" Hôm sau, vị tu sĩ ngồi
đò, lấy tay áo che mặt lại. Sang bờ,
cô lái đòi bốn tiền. Hỏi tại sao, cô
đáp: "Hôm qua thầy nhìn bằng mắt
thịt tính một tiền, hôm nay thầy nhìn bằng mắt tâm, nên phải
tính ba tiền!"
Xin ghi nhớ về thủ hộ các căn:
Thọ trì giới là phải Giữ gìn các Căn
thường xuyên.
5) "Sợ cả các lỗi nhỏ" trong khi giữ
Giới, được nói đến ở giữa trang 16, cuối
trang 18 và đầu trang 19 Luận văn, khi
nhắc đến lời Đức Phật giảng cho các Tỳ-kheo thế nào là giới uy
nghi Ba-la-đề-mộc-xoa,
đã giải thích rõ ràng và cặn kẽ lời
Phật dạy, xin khỏi bàn thêm. Chỉ suy gẫm về thái
độ thường tình của người
đời đối với lỗi nhỏ gọi là
"chuyện nhỏ nhặt".
"À! Có chút xiú mà, ăn nhằm gì
đến giới!", người dễ dãi với
chính mình thường tự nghĩ như thế, rồi lặng lẽ hái quả ớt bên nhà láng
diềng, chẳng có lời hỏi xin. Đó là
đang phạm giới trộm cắp, dầu là
ăn cắp "trái ớt có chút xiú". Thử nghĩ, quen
tay hái trộm như thế, thì đến khi thấy
buồng chuối già chín ở sau vườn kẻ khác,
đâu còn ngần ngại gì chẳng
đốn để đem vào... cúng chùa. Cúng như
thế, ai mà chứng cho! Các sự vi phạm nhỏ đó
tích lũy lâu ngày trở thành tội lớn khiến cho giới
thể bị hoen ố, chẳng được thanh tịnh.
Ngược lại, các điều lành nhỏ,
xin đừng coi thường, cũng đừng chê
nhỏ nhặt mà chẳng thèm làm. Các điều lành
nhỏ, quen làm, tạo nên tập quán tốt: siêng làm việc thiện, tích trữ
lâu ngày, trở nên phước đức lớn.
Vì lẽ đó, xin nhắc lại lời khuyên
của ông bà mình:
Chớ thấy việc ác nhỏ mà làm,
Chớ chê việc lành nhỏ mà chẳng làm.
Việc nhỏ còn biết để ý đến thì tới
khi gặp việc lớn, mới đủ bình tỉnh,
đủ thiện chí, đủ hăng hái, mà có hành
động đúng theo giới luật.
6) "Phẩm 2: Phân biệt về Giới" khá dài, những
đoạn ở cuối Phẩm bàn
đến các tế hạnh của các bực
đã xuất gia, như khi sống ở chùa, như
khi đi khất thực. Người cư sĩ tu tại gia cũng
nên đọc qua cho biết, biết để cố gắng
học noi theo thái độ an nhiên,
thanh thản, phảng phất trên dáng điệu từ
tốn, thoang thoảng trong lời nói dịu hiền, thướt tha trong bước đi trầm
lặng của ngưòi tu sĩ. Thái độ đó, dáng
điệu đó, lời nói đó, bước đi đó tỏa ra từ bực chơn tu đã giữ vẹn
giới thanh tịnh.
Xin nói thêm một chút nữa, trước khi chấm dứt việc tìm hiểu về Phẩm 2
nầy. Trong khi tập ngồi Thiền, nếu còn chưa
đắc được Định, dầu là trong một giây phút, xin hãy tự xét mình, xét
xem mình có bớt được chút nào các
ham muốn hay chưa. Nếu chưa, thì khó vào
Định lắm, vì cấp Sơ thiền, chính do sự ly dục (= lià xa các
ham muốn) mà sanh ra Định.
-ooOoo-