Quyển Sáu
Phẩm 8, Chi 3: Các
Nhứt thiết nhập (tiếp)
Mười Tưởng bất tịnh & Mười Niệm
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Hư-không? Thế nào là
tu, tướng, vị, xứ và công đức? Giữ tướng ấy
thế nào?
Đáp: Nhứt thiết nhập Hư-không có hai loại: (1) Hư-không lià
khỏi sắc; (2) Hư-không chẳng lìa sắc. Tướng của Nhứt thiết nhập Hư-không
là Hư-không lìa khỏi sắc. Nắm giữ tướng Hư-không nơi trống vắng là
Hư-không còn chưa lià sắc. Tu hành giữ tướng
đó khi tâm an trú chẳng loạn động, đó gọi là tu. Từ nơi
tưởng về Hư-không mà phóng ý ra, đó gọi là
tướng. Chẳng hề lìa tư tưởng về Hư-không là vị (tức là chức
năng của Nhứt thiết nhập Hư-không). Sự tác ý
(= khởi lên suy nghĩ) chẳng hề sai khác với tư tưởng
đó, đó là xứ (tức là phạm vi
hoạt động của Nhứt thiết nhập Hư-không). Về
công đức (= sự ích lợi)
của Nhứt thiết nhập Hư-không, có hai công đức
chẳng đồng với các Nhứt thiết nhập khác: (1) vượt xuyên qua chẳng
bị ngăn ngại khi gặp tường vách, núi non; (2)
thân đi qua lại chẳng ngại, tự tại và chẳng lo sợ.
Giữ tướng Hư-không bằng cách nào? Nơi Nhứt thiết nhập
Hư-không, nắm giữ tướng Hư-không. Nếu ở nơi thiên nhiên, người quen toạ
thiền có thể giữ được tướng Hư-không khi thấy
lỗ hổng nơi song cửa, hoặc giữa cây cối, theo đó mà thường nhìn,
dầu vui hay chẳng vui cũng sẽ thấy được tướng
bỉ phần của Hư-không khởi lên, chẳng giống như người mới tập thiền.
Người nầy chỉ thấy được tướng đó ở những nơi
có tạo tác, chuẩn bị sẵn, chớ ở nơi thiên nhiên thì chẳng thấy
được. Hoặc tại trong nhà, hoặc ở
ngoài, nơi chẳng có ngăn ngại, người ấy khoét
một lỗ trống nơi tường vách, và khởi lên tưởng về Hư-không.
Có ba cách để nắm giữ tướng ấy: (1) nên
quán (= nhìn xem kỹ) cho đều đặn, bình
đẳng; (2) biết khéo nhìn; (3) tránh
nơi loạn động. Nhứt thiết nhập Hư-không đưa
đến Tứ thiền, Ngũ thiền. Phần còn lại
đã được nói rộng qua trước đây.
Nhứt thiết nhập Hư-không chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Nhứt thiết nhập Thức?
Đáp: Đó là Thức
Hư-không, sự nhập định về Thức vô biên
xứ. Phần còn lại đã
được nói rộng qua trước đây.
Mười Nhứt thiết nhập chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Tán cú về Nhứt thiết nhập? (tức là
các vấn đề linh tinh về Nhứt
thiết nhập)
Đáp: Nếu một tướng được tự tại
(thuần thục), các tướng khác của các Nhứt thiết nhập còn lại cũng
được tự tại, tác ý được tùy theo ý
muốn. Nếu từ nơi một Nhứt thiết nhập mà vào
được Sơ thiền và an trú ở đó, thì
các Nhứt thiết nhập còn lại có thể khởi lên Nhị thiền. Như thế,
được tự tại ở Nhị thiền, thì có thể
khởi lên Tam thiền; từ Tam thiền có thể sang Tứ thiền.
Hỏi: Trong các Nhứt thiết nhập, cái nào là tối thắng (= cao
đẹp hơn hết)?
Đáp: Bốn Nhứt thiết nhập về Màu Sắc là tối thắng, vì thành
được sự giải thoát. Nhứt thiết nhập Bạch (=
trắng) là tối thắng vì chiếu sáng lên khiến tâm
được tự tại.
Nhập vào định nơi các nhứt thiết nhập thì
đắc được mười sáu việc an tường: (1) khởi lên
tướng tùy nơi mình muốn; (2) tùy ý mình thích mà vào
định; (3) tùy ý; (4) chẳng trở ngại;
(5) đi lên theo thứ tự; (6)
đi xuống theo thứ tự; (7) lên và xuống
theo thứ tự; (8) khiến tăng trưởng mỗi thứ;
(9) khiến tăng trưởng chung; (10) hoặc bỏ đoạn giữa; (11) hoặc bỏ một
phần; (12) hoặc bỏ đối tượng; (13) hoặc bỏ một phần và
đối tượng; (14) hoặc đầy đủ các phần; (15)
hoặc đầy đủ đối tượng; (16) hoặc đầy đủ vừa phần vừa đối tượng.
(1) Tùy nơi mình thích là hoặc tại thôn xóm, hoặc nơi yên
vắng, nếu đó là chỗ mình thích thì
liền nhập vào Tam-muội (= chánh định).
(2) Tùy ý mình thích là khi vui hành thiền liền nhập vào
thiền định.
(3 4) Tùy lúc mình thích là theo ý mình muốn mà nhập vào
Tam-muội hoặc nhiều lần nhập vào chánh thọ.
(5) Đi lên theo thứ tự là từ
nhập vào Sơ thiền, theo thứ lớp vượt lần sang
đến Phi phi tưởng xứ.
(6) Đi xuống theo thứ tự là từ cõi
định Phi phi tưởng xứ lần lượt xuống đến Sơ
thiền.
(7) Lên, xuống theo thứ tự là khéo
đi và trở lại, từ Sơ thiền vào Tam
thiền, từ Tam thiền vào Nhị thiền, từ Nhị thiền vào Tứ thiền, cứ như thế
cho đến Định Phi phi tưởng.
(8) Khiến tăng trưởng mỗi thứ
là theo thứ lớp nhập vào Tứ thiền, hoặc
đi lên, hoặc
đi xuống.
(9) Khiến tăng trưởng chung
là nhập vào Tứ thiền rồi từ đó vào
Hư-không, rồi vào Tam thiền. Như thế, nhập vào
định do hai ngã
đó.
(10) Bỏ đoạn giữa là
đã nhập vào Sơ thiền, từ
đó liền nhập vào Phi phi tưởng xứ,
từ nơi đây lại nhập vào Nhị thiền,
để đi thẳng đến Vô sở hữu xứ. Như thế, hiện
nhập chánh thọ và hiểu được
Hư-Không-xứ.
(11) Bỏ một phần là nhập thiền nơi tám nhứt thiết nhập rồi
nhập vào định;
(12) Bỏ đối tượng là
nơi hai nhứt thiết nhập liền nhập vào định;
(13) Bỏ phần và đối tượng
là hai định và nhứt thiết nhập;
(14) Đầy đủ phần là nơi hai
nhứt thiết nhập nhập vào hai Nhị thiền;
(15) Đầy đủ đối tượng là nơi
hai hai nhứt thiết nhập nhập hai Nhị thiền;
(16) Đầy đủ cả phần lẫn đối tượng
là nói gồm lại cả hai câu (14) và (15) trên
đây.
Phần tán cú (= linh tinh) chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Tướng sình chướng? Thế nào là tu,
tướng, vị, xứ, công đức của tướng
sình chướng? Giữ tướng đó
cách nào?
Đáp: Tướng sình chướng là tình trạng sưng phù trướng lên của
một xác chết bốc mùi hôi thúi khắp chốn. Nơi tướng sình chướng
đó, dùng chánh trí mà biết
đến, đó gọi là tưởng sình chướng.
Tu theo tưởng đó, tâm an trú chẳng loạn,
đó gọi là tu. Quan sát kỹ lưỡng theo
đúng nơi tưởng sình chướng ấy gây nên
sự chán ghét tướng sình chướng, đó là
vị, hay chức năng của tướng sình
chướng. Khởi lên ý tưởng (= tác ý) về sự ô uế, bất tịnh (= chẳng
sạch), đó là xứ, hay là phạm vi
hoạt động của tướng sình chướng. Tướng
sình chướng có chín công đức (= ích lợi) giúp
cho hành giả: (1) thấy rõ được niệm về
nội thân, (2) có được tư tưởng về vô thường, (3) có tư tưởng về sự chết (=
tử niệm), (4) được sự nhàm chán về lỗi lầm, (5) khắc phục
được các sự ham muốn về giác quan, (6) cắt
đứt sự kiêu mạn về sắc đẹp, (7) bỏ
được sự kiêu mạn về chẳng bịnh hoạn, (8) hướng về các
đường lành, (9) hướng về Niết-bàn.
Giữ tướng sình chướng cách nào? Người mới tập thiền hiện giữ tướng
sình chướng bất tịnh, một mình đi đến nơi có
nhiều tử thi ô uế. Người ấy giữ tâm niệm chẳng động, chẳng ngu si, các căn
hướng vào trong, tâm chẳng lang thang bên ngoài.
Đến chốn ấy, tránh ngược gió, cách tướng bất
tịnh chẳng gần cũng chẳng xa, hoặc ngồi, hoặc đứng dựa. Gần nơi bất tịnh,
hoặc có phiến đá, hoặc gò đất, hoặc
bụi cây, hay giây leo, người ấy lấy vật nầy làm tướng, vật kia làm
đối tượng, rồi khởi lên suy nghĩ:
"Phiến đá nầy bất tịnh, đó là tướng
bất tịnh; gò đất kia bất tịnh, đó là
đối tượng bất tịnh..." Sau khi tướng và
đối tượng đã lập xong, người ấy bắt
đầu thực tập quán tướng bất tịnh sình
chướng, theo mười cách nầy: (1) theo sắc, (2) theo hình nam hay nữ, (3)
theo phương hướng, (4) theo xứ sở, (5) theo phân biệt, (6) theo
đốt xương, (7) theo lỗ hổng (= khổng huyệt),
(8) theo hang hố, (9) theo bằng phẳng, và (10) theo mọi khiá cạnh.
(1) Theo sắc là, nếu đen quán
thấy đen, nếu chẳng đen chẳng trắng quán thấy chẳng đen chẳng trắng, nếu
trắng quán thấy trắng, nếu da hôi thúi quán thấy da hôi thúi.
(2) Theo hình là, nếu hình người nữ, người nam theo
đó mà quán trẻ,
đứng tuổi hay đã già; nếu cao lớn
quán thấy cao lớn, nếu thấp lùn quán thấy thấp lùn, nếu mập mạp quán
thấy mập mạp, nếu gầy ốm quán thấy gầy ốm, tùy theo hình dạng mà quán.
(3) Theo phương hướng là, đầu ở
hướng nầy, tay ở hướng kia, chơn ở hướng nọ, lưng ở hướng nầy, bụng ở
hướng kia, còn ta đang ngồi theo
phương nầy và tướng bất tịnh ở phương kia.
(4) Theo xứ sở là, chỗ nầy ánh sáng chiếu vào là tay, chỗ kia ánh
sáng chiếu vào là chơn, chỗ nọ ánh sáng chiếu vào là
đầu, còn ta
đang ngồi nơi dưới ánh sáng nầy và
tướng bất tịnh đang ở phiá dưới ánh sáng
kia.
(5) Theo phân biệt là, từ đầu
chí đến chơn, từ dưới lên trên đầu,
tóc, còn da ở ngoài bìa, tất cả đều
trông như một đống phân.
(6) Theo đốt xương là,
nơi hai tay có sáu đốt xương, nơi hai chơn
có sáu đốt, và đốt xương cổ, đốt
xương mông, cả thảy là mười bốn đốt
xương lớn.
(7) Theo khổng huyệt (= lỗ hổng) là, quán miệng hoặc há ra
hay ngậm lại, quán mắt mở hay nhắm, quán nơi lòng bàn tay, gang bàn
chơn.
(8) & (9) Theo hang hố, theo bằng phẳng là, quán tùy theo tướng
bất tịnh ở vào chỗ trủng thấp hay ở trên
đất, hoặc tướng bất tịnh đang ở trên mặt
đất, còn ta
đang ở nơi trủng thấp, hay ngược lại.
(10) Theo mọi khía cạnh là, ta chẳng ngồi gần quá hay xa
quá, cách tướng bất tịnh chừng hai hay ba tầm (một tầm dài
độ hơn ba thước), nhìn vào mọi khía
cạnh.
Người toạ thiền ấy tùy theo tất cả sự vật mà chánh quán, thấy
được tướng sình chướng
đó: Lành thay! Lành thay!
Như thế mà thọ trì, khéo được tự an. Người
toạ thiền ấy đã khéo giữ tướng, đã
khéo thọ trì, đã khéo tự an,
đi một mình chẳng có bạn, tâm niệm
chẳng động, chẳng ngu si, các căn hướng vào
trong, tâm chẳng ra ngoài, bước tới bước lui trên
đường. Khi đi hoặc khi ngồi, đều quán tướng
bất tịnh ấy, tâm thường thọ trì. Chẳng có bạn
đồng hành, nghiã là gì? Khiến cho
thân được yên tịch. Khiến cho nìệm
chẳng động có nghiã là, chẳng ngu
si, hướng các căn quay vào trong, tâm
chẳng ra ngoài. Đi tới đi lui trên
đường, nghiã là gì? Khiến cho thân
được yên tịch. Lià nơi ngược gió,
nghiã là gì? Vì muốn tránh mùi hôi thúi. Ngồi chẳng gần chẳng xa,
nghiã là gì? Nếu ngồi xa, chẳng nắm giữ
được tướng. Nếu ngồi gần, chẳng sanh ra chán ghét tướng ấy,
chẳng thấy được bản tánh của tướng ấy. Khi
chẳng thấy được bản tánh thì tướng ấy chẳng khởi lên, bởi
thế cho nên chẳng ngồi gần mà cũng chẳng ngồi xa. Quán tướng khắp mọi
khía cạnh, nghiã là gì? Khiến trừ được sự
ngu si. Chẳng ngu si là, khi người toạ thiền
đến nơi yên vắng, thấy trước mặt
tướng bất tịnh, tâm phát lên lo sợ, nếu tử thi có
đứng dậy, thì anh cũng chẳng
đứng lên, mà tâm lại suy nghĩ: dùng
chánh niệm, chánh trí mà quán tướng ấy khắp mọi khiá cạnh; cứ như
thế mà tác ý, đó là chẳng ngu si.
Hỏi: Nắm giữ tướng bất tịnh theo mười cách, nghiã gì?
Đáp: Vì để cột tâm lại nơi
tướng mà quán.
Đi tới đi lui trên đường,
nghiã gì? Để có thứ tự trong việc thực
tập theo pháp. Thực tập thứ tự theo pháp nghiã là, dầu người
toạ thiền đã
đến nơi yên vắng, nhưng tâm có lúc xao
động, nếu chẳng thường quán, thì tướng
bất tịnh chẳng khởi lên, bởi thế cho nên người ấy phải luôn luôn nhiếp
tâm, phải quán khi đi tới đi lui trên
đường, phải quán khi ngồi, phải quán khắp mọi
khía cạnh, phải quán theo mười cách nói trên
để nắm giữ tướng. Người toạ thiền ấy quán như
thế nhiều lần, cho đến khi tướng khởi lên như thấy
được trước mắt, đó là có tiến bộ trong
việc thực tập thứ tự theo pháp.
Người mới tập thiền quán tướng tử thi xem như trân bảo, tâm sanh hoan
hỉ, thường thọ trì tu hành, diệt được các
triền cái, khởi lên các thiền chi. Người ấy lià
được các ham muốn, và các pháp chẳng
lành, có giác, có quán, an tịch khiến sanh mừng (hỉ), vui (lạc), nhập vào
định của Sơ thiền, qua tướng sình
chướng.
Hỏi: Tại sao Tướng bất tịnh khởi lên Sơ thiền mà chẳng khởi
các Thiền khác?
Đáp: Cách nầy vì khởi lên sự quán làm thành một nơi
cột buộc tâm, thường tùy vào đó mà
giác quán; khi có giác quán thì tướng mới hiện
được, chẳng giác quán thì
tướng chẳng hiện lên; bởi thế chỉ khởi lên có Sơ thiền, còn các thiền
khác chẳng khởi. Lại có thuyết cho rằng, nơi tướng bất tịnh nầy, sắc,
hình, và các thứ khác, chẳng do cùng một cách tư duy mà khiến khởi lên;
khi tư duy, các thứ sắc, hình, là đối tượng
của giác và quán, nếu lìa giác quán thì tư duy về chúng chẳng thành
được, do đó chỉ có Sơ thiền khởi lên,
các thiền khác chẳng khởi. Lại còn có thuyết cho rằng, tướng bất tịnh là
một đối tượng chẳng kham chịu đựng, tâm khó
cất lên nổi. Tại một nơi bất tịnh, mừng vui chỉ có thể khởi lên khi
nào khéo léo dẹp bỏ được giác và quán
về đối tượng khó kham chịu là hôi
thúi, do đó chỉ có Sơ thiền khởi lên
thôi, các thiền khác thì không.
Hỏi: Trước một đối tượng khó kham chịu
đựng, vì sao khởi lên được hỉ (= mừng)
và lạc (= vui)?
Đáp: Đối tượng khó kham chịu được chẳng phải là nguyên nhân
làm khởi lên mừng vui. Vả lại, do khéo léo dẹp bỏ
được sức nóng bức của triền cái, tâm được tự
tại, mừng vui mới khởi lên. Các điều còn
lại đã
được nói rộng qua trước đây.
Tướng sình chướng chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng bầm xanh? Thế nào là tu, tướng,
vị xứ, công đức? Giữ tướng ấy cách nào?
Đáp: Tướng bầm xanh là, hoặc chết một
đêm, hay hai ba
đêm, thân thành tướng bầm xanh, như bị
nhiễm màu tái xanh, đó gọi là tướng
bầm xanh. Lấy chánh trí mà biểu biết về tướng
đó, là tưởng bầm xanh. Tâm an
trú chẳng loạn nơi tướng đó, gọi là
tu. Sự thọ trì tướng bầm xanh là tướng. Chán ghét là
vị, tức là chức năng của tướng bầm xanh.
Ý tưởng về sự chẳng kham chịu nổi là xứ, tức là phạm vi hoạt
động của tướng bầm xanh. Công đức (= sự ich
lợi) cũng giống như Tướng sình chướng. Nắm giữ tướng ấy cách nào,
giống như đã nói rộng qua trước
đây.
Tướng bầm xanh chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng rỉ mủ? Thế nào là tu, tướng,
vị, công đức? Giữ tướng ấy cách nào?
Đáp: Rỉ mủ là, hoặc chết hai, ba
đêm, mủ máu rỉ chảy ra như chất bơ
trâu rưới khắp châu thân, đó gọi là
rỉ mủ. Nơi tướng rỉ mủ, lấy chánh trí mà hiểu biết,
đó gọi là tưởng rỉ mủ. Tâm am
trú chẳng loạn nơi tưởng đó, gọi là
tu. Thọ trì tướng rỉ mủ là tướng. Ghê chán là vị, hay
chức năng của tướng rỉ mủ. Khởi lên ý
chẳng kham chiụ nổi là xứ, tức là phạm vi hoạt
động của tướng rỉ mủ. Công
đức (ích lợi) của tướng rỉ mủ cũng
giống như tướng sình chướng. Về cách nắm giữ tướng rỉ mủ, có thể biết
được, như đã nói rộng qua ở trước.
Tướng rỉ mủ chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng đâm chém
nát? Thế nào là tu, tướng, vị, xứ, công
đức của tướng đâm chém nát? Giữ tướng đó cách
nào?
Đáp: Đâm chém nát là, hoặc dùng dao, kiếm
đâm chém thân thể nát ra. Lại nữa, khi vứt bỏ
tử thi, đó cũng gọi là đâm chém nát.
Nơi bị đâm chém nát mà dùng chánh trí
để hiểu biết, đó gọi là tưởng
đâm chém nát. Tâm trú chẳng loạn
vào tưởng đó, gọi là tu. Suy
gẫm đến tướng đâm chém nát là
tướng; khởi sanh sự chán ghét tướng đó là
vị, hay chức năng của tướng đâm chém
nát. Có ý tưởng về sự bất tịnh (= chẳng sạch) là xứ, hay
phạm vi hoạt động của tướng đâm chém nát.
Công đức, hay sự ích
lợi, giống như tướng sình chướng.
Hỏi: Nắm giữ tướng đó cách nào?
Đáp: Nắm giữ tướng đâm chém nát
tại nơi hai vành tai hay hai ngón tay tách khỏi thân thể, cách một
hai khoảng trống. Phần còn lại nói về tướng nầy cũng giống như
đã được
nói rộng qua trước đây.
Tướng đâm chém nát chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng bị gặm nhấm? Thế nào là tu,
tướng, vị, xứ, công đức? Giữ tướng đó cách nào?
Đáp: Bị gặm nhấm là, hoặc quạ, chim thước, chim ưng, chim
điêu, chím thứu, chó, cọp, sói, beo
cắn xé, đó gọi là bị gặm nhấm. Nơi
tướng ấy, dùng chánh trí mà hiểu biết, gọi là tưởng bi gặm nhấm.
Tam trú vào tướng đó chẳng loạn, gọi là
tu. Tư tưởng về sự bị gặm nhấm là tướng. Khởi lên sự chán
ghét là vị, hay chức năng của tướng bị
gặm nhấm. Có ý tưởng về sư bất tịnh (= chẳng sạch) là xứ,
hay phạm vi hoạt động của tướng bị gặm nhấm.
Sự ích lợi (công đức)
của tướng nầy giống như tướng sình chướng. Chỗ còn lại cũng như
đẵ được nói rộng qua trước đây.
Tướng bi gặm nhấm chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng vứt bỏ rã rời? Thế nào là tu,
tướng, vị, xứ, công đức? Giữ tướng đó cách nào?
Đáp: Vứt bỏ là, đầu mình
và tay chơn bị phân tán rã rời, vứt bỏ đó đây
khắp nơi. Nơi tướng bị vứt bỏ đó, dùng chánh trí mà hiểu biết, gọi
là tưởng vứt bỏ rã rời. Tâm trú chẳng loạn vào tướng nầy là tu.
Thọ trì tưởng vứt bỏ rã rời là tướng. Sự chán ghét là vị,
hay chức năng của tướng vứt bỏ rã
rời. Có ý tưởng về sự bất tịnh (= chẳng sạch) là xứ, hay phạm vi
hoạt động của tướng ấy. Công
đức (ích lợi) của tướng nầy giống
như tướng sình chướng.
Nắm giữ tướng vứt bỏ rã rời cách nào? Gom hết các phần thân thể lại tại
một nơi, sắp xếp các phần cách nhau chừng đôi
phân, rồi khởi lên tướng vứt bỏ rã rời
để nắm giữ.
Phần còn lại như đã
được nói rộng qua trước đây.
Tướng vứt bỏ rã rời chấm dứt.
Hỏi: Thế nào tướng giết chết vứt bỏ? Thế nào là tu,
tướng, vị, xứ, công đức? Giữ tướng ấy cách nào?
Đáp: Bị giết chết vứt bỏ là, hoặc do
đao, gậy, hoặc do cung tên,
đâm chém khắp nơi trên thân người chết
và vứt bỏ đi. Nơi tướng đâm chém giết hại đó,
dùng chánh trí mà hiểu biết đến, gọi là
tưởng giết chết vứt bỏ. Tâm trú chẳng loạn vào tướng ấy, là tu.
Thọ trì tưởng giết chết vứt bỏ là tướng. Khởi lên sự chán ghét
là vị, hay chức năng của tướng đó. Có
ý tưởng về sự bất tịnh (= chẳng sạch) là xứ, hay phạm vi
hoạt động của tướng giết chết vứt bỏ.
Công đức (ích lợi) của tướng
nầy cũng giống như tướng sình chướng. Nắm giữ tướng ấy cách nào, như
đã được
nói rộng qua trước đây.
Tướng giết chết vứt bỏ chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Tướng dính máu huyết? Thế nào là tu,
tướng, vị, công đức? Giữ tướng đó cách nào?
Đáp: Dính máu huyết là, hoặc chém
đứt đầu mình tay chơn lià ra, máu
đổ dính đầy thân thể. Nơi tướng dính máu đó,
dùng chánh trí mà hiểu biết, đó gọi là
tưởng dính máu huyết. Tâm trú chẳng loạn nơi tướng ấy là tu.
Thọ trì tư tưởng dính máu huyết là tướng. Khởi lên sự chán ghét là
vị, hay chức năng của tướng đó. Có ý
tưởng về sự bất tịnh (= chẳng sạch) là xứ, hay phạm vi hoạt
động của tướng dính máu huyết. Công
đức (ích lợi) của tướng nầy cũng
giống với tướng sình chướng.
Nắm giữ tướng nầy cách nào đã
được nói rộng qua trước đây.
Tướng dính máu huyết chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng trùng hôi? Thế nào là tu,
tướng, vị, xứ, công đức? Giữ tướng đó cách nào?
Đáp: Trùng hôi là, các loại trùng sanh sản khắp thi thể, tụ
lại giống như trái châu trắng. Nơi tướng trùng hôi
đó, dùng chánh trí mà hiểu biết
đến, gọi là tưởng trùng hôi.
Tâm trú chẳng loạn vào tướng ấy là tu. Thọ trì tư tưởng trùng hôi
là tướng. Khởi lên sự chán ghét là vị, hay chức năng
của tướng trùng hôi. Có ý tưởng về sự bất tịnh (= chẳng sạch) là
xứ, hay phạm vi hoạt động của tướng ấy.
Công đức (ích lợi) cũng
giống với tướng sình chướng.
Nắm giữ tướng trùng hôi cách nào, cũng giống như
đã nói rộng qua trước
đây.
Tướng trùng hôi chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là tướng xương? Thế nào là tu, tướng,
vị, xứ, công đức? Giữ tướng ấy cách nào?
Đáp: Xương là, các khúc xương còn dính liền nhau như móc câu
nhờ máu, thịt và gân nối lại, hoặc chẳng còn máu thịt chỉ còn gân. Nơi
tướng xương đó, dùng chánh trí mà hiểu
biết đến, đó gọi là tưởng xương.
Tâm trú chẳng loạn vào tướng ấy, là tu. Thọ trì tưởng xương là
tướng. Khởi lên sự chán ghét là vị, hay chức năng
của tướng xương. Có ý tưởng về sự bất tịnh (chẳng sạch), là xứ,
hay phạm vi hoạt động của tướng xương.
Công đức (ích lợi) cũng
giống như trường hợp tướng sình chướng. Giữ tướng xương cách nào,
đã được
nói rộng qua ở trước.
Tướng xương chấm dứt.
Hỏi: Về bất tịnh xứ (= các nơi dơ), có các
vấn đề linh tinh (=
tán cú) nào?
Đáp: Người mới tập thiền có nhiều phiền não nặng nề, chẳng
nên nắm giữ tướng chẳng cùng một loại phiền não. "Chẳng cùng một loại
phiền não" có nghiã như thân người nam với thân người nữ. Nếu nghiệp
chẳng thanh tịnh, chẳng nên nhơn tướng bất tịnh mà tác ý. Tại sao vậy? Vì
thường quán về đối tượng ấy, nên sự
nhàm chán chẳng khởi sanh lên. Nơi thân súc sanh, chẳng khởi
được tưởng tịnh. Nơi một khúc xương, nếu
tướng xương khởi lên, nên nắm giữ lấy cho thuần thục.
Đối với một đống xương, cũng lại như thế. Nếu
tướng bất tịnh do từ sắc mà khởi lên, nên quán nhứt thiết nhập. Nếu
tướng ấy khởi lên từ hư không, nên quán tướng nam. Nếu tướng bất tịnh
khởi, nên quán về bất tịnh.
Hỏi: Tại sao chỉ có mười tưởng bất tịnh, chẳng nhiều hay chẳng ít
hơn?
Đáp: Vì sự lỗi lầm của thân có mười loại. Lại nữa có mười
loại tánh người, thành ra có mười loại tưởng về bất tịnh. Người nhiều tham
dục nên quán tướng sình chướng. Người tham ái sắc dục nhiều, nên quán
tướng bầm xanh; người muốn tịnh lòng dục nên quán tướng rỉ mủ; các hạng
người còn lại có thể suy ra để tự biết được.
Lại nữa, tưởng bất tịnh rất khó đắc được,
bởi vì tất cả các tưởng bất tịnh là để
đối trị lòng dục. Vì thế, nếu người nhiều lòng dục thấy
được tướng bất tịnh, nên liền nắm giữ
lấy. Bởi lẽ ấy mới nói tất cả các tuớng bất tịnh thuộc vào mười loại tưởng
bất tịnh.
Hỏi: Tại sao chẳng khiến các tướng bất tịnh tăng
trưởng lên?
Đáp: Nếu có người muốn chán ghét lòng ham muốn, người ấy nên
khiến khởi lên tự tánh về thân tướng của mình. Tại sao? Nếu có
được tưởng về tự tánh của thân mình,
nhờ đó mau khởi lên sự chán ghét mà
đắc được tướng bỉ phần. Nếu khiến cho tướng
bất tịnh tăng trưởng thêm, thì thân tưởng lại bị mất, khiến cho sự
chán ghét chẳng mau khởi lên được. Vì
lẽ đó, chẳng nên khiến tướng bất tịnh
tăng trưởng thêm.
Lại có thuyết cho rằng, người đã
dứt được ham muốn, muốn tu thành
đại tâm, nên tăng
trưởng tướng bất tịnh, như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận
tạng) có nói: "Người đã ly dục
nhập vào Sơ thiền, trú trong chánh thọ về tướng sình chướng, khởi lên
được đối tượng vô biên."
Như Đại đức Singalapita có nói kệ:
"Tỳ-kheo hưởng gia tài Phật,
Nơi cảnh rừng đáng lo sợ,
Đã tu hành về tưởng xương,
Khiến cho tràn khắp đất nầy,
Ta biết vị Tỳ-kheo ấy
Sớm đoạn được lòng ham muốn."
Hỏi: Thế nào là Niệm Phật? Thế nào là tu, tướng, vị,
xứ, công đức? Tu hành niệm Phật
cách nào?
Đáp: Phật là, được đời tôn
trọng, tự nhiên chẳng có thầy mà hiểu
đứng đắn Chơn lý nhiệm mầu chưa từng nghe nói đến, biết tất cả, đầy đủ
quyền lực và tự tại, đó gọi là
Phật. Niệm Phật là niệm Đức Phật, Thế tôn,
chánh biến tri, công đức đạo Bồ-đề. Niệm phải theo sát niệm, chẳng mất
niệm căn và niệm lực, luôn luôn giữ niệm trong chánh niệm,
đó gọi là niệm Phật. Tâm an trú
chẳng loạn là tu. Khiến khởi lên công
đức của Phật là tướng. Sanh lòng cung kính là vị, hay
chức năng của việc niệm Phật. Làm cho
lòng tin được tăng thêm lên là xứ,
hay phạm vi hoạt động của việc niệm Phật.
Nếu tu hành niệm Phật thành thì
đắc được mười tám công đức:
có sự tăng trưởng về (1) niềm tin; (2) niệm;
(3) trí huệ; (4) cung kính; (5) công đức; (6) được nhiều hoan hỉ; (7) kham
chịu được khổ hạnh; (8) lià xa sự lo sợ; (9)
đối vớc các pháp chẳng lành, biết tự
thẹn (tàm) và biết xấu hổ với người (qúi); (10) thường
được gần thầy; (11) tâm vui nơi đất Phật;
(12) đi hướng về nẻo lành; (13) sau rốt chứng
được Niết-bàn...
Như có nói trong Kinh Niết Để (Netri
Sutra), "Người muốn niệm Phật, phải nên kính ngưỡng nơi có tượng
Phật."
Thế nào là tu hành? Người mới tập thiền
đi đến nơi yên vắng, nhiếp tâm chẳng
loạn, lấy tâm chẳng loạn ấy mà niệm: Như Lai Thế tôn, Ứng cúng, Chánh
biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư,
Phật, Thế tôn. Do tất cả các công đức đó,
Ngài đã
đến bờ bên kia.
Thế tôn là, được thế gian khen
ngợi, nên gọi là Thế tôn; lại được
diệu pháp, nên gọi là Thế tôn; được sự
cúng dường, nên gọi là Thế tôn; đầy đủ
phước đức, nên gọi là Thế tôn; làm bực giáo chủ, nên gọi là Thế
tôn; do các nhân duyên đó nên gọi là
Thế tôn. Cũng do các nhân duyên đó và
được sự cúng dường, nên gọi là
A-la-hán. Đã giết xong các
giặc phiền não, nên gọi là A-la-hán. Bẻ gãy vòng sanh tử, nên gọi
là A-la-hán.
Chánh biến tri là, biết rõ thật
đứng đắn tất cả mọi hành động, mọi
pháp, nên gọi là chánh biến giác (chánh = chơn chánh,
đứng đắn; biến = khắp cả;
giác = biết); lại diệt được vô minh (= sự
ngu tối), nên gọi là chánh biến giác; do tự lực chính mình mà
được đạo Bồ-đề vô thượng, nên gọi là
chánh biến giác.
Minh hạnh túc là, minh là ba minh: (1)
túc mạng minh, (2) chúng sanh sanh tử minh, (3) lậu tận
minh. Thế tôn dùng trí túc mạng minh (= biết
đời trước) cắt đứt sự vô minh trong quá khứ,
dùng trí sanh tử minh (= biết lẽ sống chết) cắt
đứt sự vô minh trong tương lai, và trí
lậu tận minh (= tận diệt các phiền não) cắt
đứt sự vô minh trong hiện tại. Đã cắt
đứt xong sự vô minh trong quá khứ, Thế tôn khi niệm
đến quá khứ liền thấy tất cả hành
động về đời trước hiện lên.
Đã cắt
đứt sự vô minh trong tương lai, Thế tôn khi niệm đến tương lai liền thấy
tất cả hành động vào
đời sau hiện lên.
Đã cắt
đứt sự vô minh trong hiện tại, Thế tôn khi niệm đến hiện tại liền thấy tất
cả hành động trong hiện tại hiện lên.
Hạnh là, giới và định
đều đầy đủ. Giới là, có đầy
đủ tất cả các pháp lành, nên gọi là minh hạnh túc (túc =
đầy đủ); lại có đầy đủ các thần thông, nên
gọi là minh hạnh túc. Đầy đủ
là, Thế tôn đắc tất cả định.
Như thế, do nhứt thiết trí (= trí hiểu biết tất cả mọi sự vật), do ba
minh và do chánh hạnh, Thế tôn đắc đại từ bi,
làm lợi ích cho cả thế gian, nên được
sự tự tại. Do biết khắp cả mọi cõi, Ngài luận
Đạo chẳng ai thắng nổi. Đã diệt xong
các phiền não, do chánh hạnh thanh tịnh, do
đầy đủ ba minh, Ngài là con mắt của thế gian hiện
đem lợi ích đến nơi nào còn thiếu lợi
ích. Do đầy đủ các hạnh, Ngài thành
nơi nương tựa của thế gian, cứu vớt mọi sự lo sợ. Do minh trí giải thoát
theo ý nghiã bực nhứt, do đắc sự thông đạt,
do chánh hạnh, Ngài thành bực tế độ
cho cả thế gian. Nơi tất cả mọi sự việc, chẳng cần học với thầy nào,
bằng vào hành động thật bình
đẳng, Ngài
đắc được sự an tịch vô thượng. (...)
Thiện thệ là, tới được nơi đường lành,
nên gọi là thiện thệ. Chẳng hề lùi trở lại,
đã đến cõi
Niết-bàn vô vi, nên gọi là thiện thệ. Lại nữa, nói pháp chẳng
điên đảo,
nên gọi là thiện thệ. Pháp của Ngài chẳng chút tì vết, nên gọi là
thiện thệ. Pháp của Ngài chẳng chút lỗi lầm, nên gọi là thiện thệ. Pháp
của Ngài chẳng nhiều cũng chẳng ít, nên gọi là thiện thệ.
Thế gian giải là, thế gian có hai thứ: (1) chúng sanh
thế gian và (2) hành thế gian. Thế tôn, qua tất cả hành
động, biết rõ mọi chúng sanh trên
thế gian, Ngài biết mọi ham muốn của họ, mọi căn
cơ sai biệt, mọi đời sống kiếp trước. Ngài dùng thiên nhãn theo dõi
sự chết đi sanh lại, sự hoà hiệp, sự
thành tựu, loài nào dễ cảm hóa, loài nào chẳng kham giáo hoá, mọi nẻo tái
sanh, mọi đưởng lành dữ, mọi nghiệp
báo, mọi loại phiền não, mọi pháp thiện ác, mọi sự trói buộc cởi mở. (...)
Lại nữa, Thế tôn biết tất cả mọi hành (= mọi hành vi tạo
nghiệp), qua các nhân và các quả của nghiệp, qua
định tướng, qua tự tướng, qua nhân duyên
lành, chẳng lành, và vô ký, qua mọi ấm, giới, và nhập, qua sự biết rõ về
vô thường, khổ, vô ngã, qua sự sanh, sự bất sanh, tất cả mọi hành như thế.
(...)
Vô thượng là, ở thế gian, chẳng gì cao hơn nữa, chẳng có ai
bằng được, tối thắng chẳng ai so sánh được,
chẳng ai vượt qua nổi, nên gọi là vô thượng.
Điều ngự trượng phu là, có ba hạng người: (1) nghe pháp
liền ngộ, (2) nghe thuyết về nhân duyên; (3) nghe thuyết về
đời kiếp trước, nhưng Thế tôn lại còn
điêu luyện thuần thục con
đường giải thoát tám ngành nữa, nên
thâu phục và thuần hoá được chúng sanh, mới
gọi là vị điều ngự trượng phu.
Thiên nhơn sư là, Thế tôn hay độ
thoát cho Trời, người, qua khỏi cảnh sanh, già, chết, trong rừng
đời đầy lo sợ, nên gọi là Thầy của
Trời và người. Lại nữa, Ngài dạy cho thấy con
đường Đạo, nên gọi là thầy của Trời và người.
Do môn nầy, do việc tu hành nầy, người toạ thiền nên như thế mà
niệm Như Lai.
Lại nữa, theo lời dạy của thầy bổn sư, có bốn cách
để niệm công đức của Phật Thế tôn: (1) do
nhân duyên tích xưa, (2) do khởi tự thân, (3) do
đắc được pháp tối thắng, (4) do làm
lợi ích cho chúng sanh.
Từ sở nguyện ban sơ cho chí đến đời sống
cuối cùng, trong khoảng giữa thời gian dài lâu hai mươi a tăng
kỳ kiếp, Ngài đã quán thấy hàng
trăm ngàn ức chúng sanh với căn
cơ của họ, nên sanh lòng thương xót chúng sanh ở thế gian: "Ta
đã được
giải thoát, phải nên khiến họ được
giải thoát; Ta đã nhập Niết-bàn, phải nên khiến họ
được nhập Niết-bàn." Bố thí, trì giới,
xuất ly, nhẫn nhục, diệu đế, thọ trì,
từ, xả, tinh tấn, trí huệ, tất cả các công
đức đều đầy đủ, nên Ngài mới đắc đạo
Bồ-đề.
Thế tôn có nói về sự tích bổn sanh của Ngài, lúc còn ở
quả vị Bồ-tát, như Ngài từng sanh làm con thỏ thường theo hạnh bố
thí. Về sự tích sanh làm Khả hộ (Samkhapàla), nên niệm trì
giới; về sự tích sanh làm Ma-ha Cồ-tần-đà
(Maha Govinda), thì niệm hạnh xuất ly; về sự tích sanh làm
Phổ minh (Khanti) thì niệm hạnh nhẫn nhục; về sự tích sanh làm
Ổ-kiến (Maha Sutasoma) thì niệm hạnh thực ngữ (= nói lời
chơn thật); về sự tích sanh làm Đế-Thích
(Sakkha), niệm hạnh từ bi; về sự tích sanh làm Mao
thụ (Lomahamsa) thì niệm hạnh xả; về sự tích sanh làm thương
chủ, thì niệm hạnh chánh trực; về sự tích sanh làm con chương
(= nai con), thì niệm hạnh trí huệ; về sự tích sanh làm Trường thọ
(Dighiti Kosala), thì niệm lời của người cha; về sự tích sanh làm
con voi trắng sáu ngà, thì niệm sự cung kính
đối với chư Thiên; về sự tích sanh làm
con ngựa trắng thì niệm việc sang nước La sát
để cứu độ chúng sanh; về sự tích sanh làm
con nai, thì niệm việc bỏ mạng mình để
cứu mạng kẻ khác; về sự tích sanh làm con khỉ, thì niệm việc
giải thoát cho một người đang bị đau khổ nặng
nề; và cũng niệm việc con khỉ cứu người sa xuống hố sâu,
đem hoa trái cho ăn, nhưng người lại đòi
ăn thịt, nên bị người
đập lỗ đầu, mà rồi lại cũng chỉ
đường lành cho người. Như thế, qua các
sự tích bổn sanh, nên niệm công đức của Thế
tôn.
Thế nào là niệm công đức Thế tôn
hy sanh thân mình? Thế tôn đã
có đầy đủ công đức về các đời sống trước.
Ngay trong đời nầy, từ thuở thiếu thời, đã lià các nơi cư trú, lià
cha mẹ, vợ con, bạn bè, một mình đi đến nơi
hoang vắng, để cầu Niết-bàn vô vi, tịch diệt. Tại nước Ma-già-đà
(Magadha, Ma-kiệt-đà), lội qua
sông Ni-liên-thiền (Neranjarà), ngồi dưới cội cây Bồ-đề,
hàng phục Ma vương và các qủi binh. Vào khoảng canh
đầu, nhớ lại các đời kiếp trước. Vào
khoảng canh giữa, đắc được thiên nhãn.
Đến canh cuối, chứng được Khổ, Đoạn, Tập, cùng
Bát Chánh đạo, đắc được lậu tận, thành
tựu Bồ-đề giác. Ngài
đã khởi thân ra khỏi cảnh thế gian, an
trú vào cõi thanh tịnh bực nhứt, dứt tận mọi phiền não. Như thế, nên theo
các hành môn đó mà niệm công
đức của Thế tôn đã khởi thân ra khỏi
cảnh thế gian.
Thế nào là niệm công đức Thế
tôn đắc pháp tối thắng? Nên
niệm Thế tôn được tâm giải thoát, có đủ mười
lực, mười bốn thứ Trí huệ Phật, mười tám pháp của Phật, và nhiều
thiền pháp khác, thành tựu được sự tự tại và
đến bờ bên kia.
Thế nào là Thế tôn thành tựu được
mười lực? Như Lai biết rõ chỗ sai, chỗ
đúng, biết đúng như thật. Như Lai biết rõ
nhân duyên, nghiệp lành, quả báo trong ba đời
quá khứ, vị lai, hiện tại, biết đúng như thật. Như Lai biết thấu tất cả
mọi cảnh giới đầy đủ, biết đúng như thật. Như Lai biết rõ sự sai
biệt giữa mọi giới hạnh chúng sanh trên thế gian, biết
đúng như thực. Như Lai biết rõ mọi
tham muốn của mọi loài chúng sanh, biết đúng
như thật. Như Lai biết rõ mọi căn cơ
của mọi loài chúng sanh, biết đúng như
thật. Như Lai biết rõ thiền, giải thoát,
định, chánh thọ, còn phiền não, chẳng
còn phiền não, biết đúng như thật. Như Lai
biết rõ đời sống quá khứ, biết đúng
như thật. Như Lai biết sự sống chết của chúng sanh, biết đúng như thật.
Như Lai biết rõ sự tận diệt các lậu hoặc, biết
đúng như thật. Đó là mười sức mạnh (thập
lực) Thế tôn đã thành tựu.
Thế nào là Thế tôn thành tựu mười bốn loại trí huệ Phật?
Các loại Trí huệ Phật là: Khổ trí, Tập trí, Diệt trí,
Đạo trí, Trí phân biện nghiã, Trí phân
biện pháp, Trí phân biện chữ, Trí phân biện vui nói, Trí hiểu biết các căn,
Trí hiểu biết các ham muốn của chúng sanh, Trí hiểu biết các phiền não
và kết sử, Trí song biến, Trí đại từ bi, Nhứt
thiết trí, Trí vô ngại. Mười bốn loại trí đó, Thế tôn đều thành
tựu.
Thế nào là Thế tôn thành tựu mười tám pháp? Phật trí vô
ngại về quá khứ, Phật trí vô ngại về vị lai, Phật trí vô ngại về hiện tại;
tùy nơi Phật trí mà khởi lên khắp thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Do
sáu pháp vừa kể, Thế tôn thành tựu được ý chí
chẳng thoái chuyển, tinh tấn chẳng thoái chuyển, niệm chẳng thoái chuyển,
định chẳng thoái chuyển, huệ chẳng thoái chuyển, giải thoát chẳng thoái
chuyển. Do mười hai pháp vừa kể, Thế tôn thành tựu sự vắng bóng
việc khả nghi, sự vắng bóng việc vu dối, sự vắng bóng
điều chẳng phân minh, sự vắng bóng việc vội vã,
sự vắng bóng nơi ẩn dấu, sứ vắng bóng xả chẳng quán. Vắng bóng việc khả
nghi có nghiã là, uy nghi của Ngài chẳng có
điều gì khiến ta có thể nghi là lừa
dối. Vắng bóng việc vu dối, có nghiã là uy nghi chẳng hề lừa
đảo. Vắng bóng
điều chẳng phân minh có nghiã là,
chẳng có điều gì mà Trí của Ngài chẳng
tiếp xúc đến được. Vắng bóng việc
vội vã có nghiã là, uy nghi chẳng hề vội vàng. Vắng bóng nơi ẩn dấu
có nghiã là, chẳng có tâm hành nào mà chẳng nhớ biết
đến. Vắng bóng xả chẳng quán có
nghiã là, bất cứ hành động xả nào cũng
đều quán biết hết cả. Như thế, Thế tôn thành
tựu mười tám Phật pháp.
Lại nữa, Thế tôn lấy bốn điều chẳng sợ,
bốn lãnh vực quán niệm, bốn chánh cần, bốn thần túc như ý, năm
căn, năm lực, sáu thần thông, bảy phần Bồ-đề, tám phần bát chánh đạo, tám
sự điều ngự, tám điều giải thoát, chín cấp định theo thứ lớp, mười nơi
Thánh trú, mười sức tận diệt lậu hoặc, và các loại thiện pháp khác
nữa, nên Thế tôn đã
đến bờ bên kia viên mãn.
Như thế, theo các hành môn đó mà
niệm công đức Thế tôn đắc được các thắng
pháp.
Thế nào là niệm công đức Thế tôn
làm lợi ích cho thế gian? Thế tôn
đã thành tựu tất cả các công
đức, đến bờ bên kia, vì lòng từ bi
thương xót chúng sanh nên chuyển Pháp luân, cả thế gian chẳng ai chuyển
nổi. Chẳng dùng đường lối bí mật cả trong
Pháp lẫn ngoài Pháp, Ngài đã mở
rộng cửa Đạo cho Trời và người. Biết
bao nhiêu chúng sanh đã hưởng
được một phần, khiến được hưởng đầy đủ trọn
phần công đức. Do ba loại biến hoá: thân biến, thuyết biến và giáo
biến, khiến thế gian tin tưởng, chế phục tà kiến, tà sư, ác
đạo, khai mở đường lành, sanh lên cõi
Trời, được quả giải thoát. Dùng
PhápThanh văn, chế định giới luật, giảng giới
bổn (Pàtimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa),
khiến hàng Thanh văn được an trú, đắc lợi
dưỡng tốt, được Phật pháp tối thắng, và
được tự tại. Khắp cả thế gian, mọi loài
chúng sanh, đều cung kính, tôn trọng, cho đến
hàng Trời, người cũng đều nghe biết.
An trú bất động nơi tâm từ bi, Thế tôn làm lợi ích cho thế gian như
thế.
Người toạ thiền nên theo cách hành trì đó
mà niệm công đức của Như Lai, dùng
công đức đó mà niệm cho tâm thêm tin
tưởng; nhờ tin tưởng đưa đến sự tự tại, và
khi niệm được tự tại rồi thì tâm chẳng
còn thường loạn nữa. Nếu đã chẳng
loạn, tâm ấy diệt được các triền cái, khởi
các thiền chi thành tựu thiền nội hành mà an trú.
Hỏi: Tại sao niệm Phật làm khởi lên nội hành mà chẳng
được an?
Đáp: Niệm công đức Phật là
một đề tài thâm sâu, ý nghiã rất cao
và vi tế, vì thế nên tâm chẳng được an. Lại
nưã, vì phải niệm rất nhiều công đức
khác nhau mà người toạ thiền phải nhớ nghĩ
đến, tâm duyên theo
đó tác ý cùng khởi lên, thành ra chẳng
được an; đấy là hành tướng của tất cả
thiền ngoại hành.
Hỏi: Nếu niệm nhiều công đức, tâm đã
chẳng gom lại làm một, thì thiền ngoại hành chẳng thành
được. Nếu chuyên nhứt tâm, thiền ngoại
hành có thể thành chăng?
Đáp: Nếu niệm công đức của Như
Lai và niệm Phật mà thành nhứt tâm, thì chẳng có gì trở ngại. Lại
nữa, có thuyết cho rằng, niệm Phật có thể khởi lên Tứ thiền.
Niệm Phật chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Niệm Pháp? Thế nào là tu, tướng, vị,
xứ? Tu niệm Pháp như thế nào?
Đáp: Pháp là, sự tịch diệt, hay Niết-bàn, và sự tu
hành dẫn đến Niết-bàn.
Thế nào là Niết-bàn? Diệt tất cả mọi hành
động, lià tất cả phiền não, trừ bỏ sự
tham ái, trở nên chẳng nhiễm dơ và yên tịch,
đó là Nê-hoàn, hay là Niết-bàn.
Thế nào là tu hành dẫn đến Niết-bàn?
Tu bốn lãnh vực quán niệm, bốn chánh cần, bốn thần túc như ý, năm
căn, năm lực, bảy yếu tố giác ngộ, con đường chánh đạo tám ngành,
đó là tu hành dẫn
đến Niết-bàn. Niệm Pháp có
được công đức xuất ly (= xa lià), và
công đức thấy được con đường Đạo. Khi niệm,
niệm theo sát niệm và giữ chánh niệm,
đó gọi là niệm Pháp. Tâm chẳng loạn an trú vào Pháp,
đó gọi là tu. Khi niệm khởi lên
công đức của Pháp, đó là tướng niệm
Pháp. Lựa chọn Pháp, phân tách Pháp, đó là
vị, hay chức năng của việc niệm Pháp.
Giải rõ nghiã, đó là xứ,
hay phạm vi hoạt động của việc niệm Pháp.
Niệm Pháp có công đức bằng với niệm Phật.
Tu niệm Pháp như thế nào? Người mới tập thiền
đi đến nơi yên tịch, ngồi xuống nhiếp
tâm chẳng loạn, và khởi Niệm Pháp như sau: Pháp do Thế tôn khéo giảng,
được hiện chứng chẳng đợi thời, đến với Pháp
sẽ thấy đường Đạo tương ứng với trí huệ, người hiện chứng có thể biết
được. Pháp do Thế tôn khéo giảng có nghiã là, pháp nầy lià
cả hai bên cực đoan, chẳng mâu thuẫn, chẳng
sai lầm, đủ khéo từ đầu, ở giữa và chỗ cuối
đều khéo, tràn
đầy thanh tịnh, khiến thấy được Niết-bàn
và con đường tu hành dẫn
đến Niết-bàn, cho nên mới gọi là khéo
giảng. Hiện chứng có nghiã là, tuần tự
được sự tịch diệt cùng đạo quả Niết-bàn,
nên gọi là hiện chứng. Chẳng đợi thời
có nghiã là, chẳng đợi đến lúc
khác mới đắc quả. Đến với Pháp sẽ thấy đường Đạo có nghiã
như là, anh hãy đến với tôi, rồi sẽ
thấy pháp lành nầy có đặc tánh kham
dạy được kẻ khác, đó gọi là hễ đến sẽ
thấy được đường Đạo. Tương ưng với Trí huệ có nghiã là, nếu
người có trí huệ thọ trì Pháp nầy sẽ hướng về quả Sa-môn, gia nhập vào
giới bất tử, cho nên gọi đường Đạo nầy tương
ưng với trí huệ. Người hiện chứng có thể biết
được có nghiã là, người thọ trì
Pháp nầy, nếu chẳng còn theo lời dạy của kẻ khác, thì khởi sanh lên
được Diệt trí, vô sanh trí và giải
thoát trí, đó gọi là hiện chứng
được trí huệ.
Lại nữa, người toạ thiền còn nên niệm: Pháp như là mắt, là trí,
là an lạc, là cửa dẫn tới cõi bất tử, là xuất ly, là phương tiện
đưa đến cõi tịch diệt, vô sanh, vô vi
(...), là diệu trí đưa tới bờ bên kia,
là nơi nương tựa.
Người toạ thiền theo đường lối đó niệm
công đức của Pháp, hiện niệm đến khi tâm khởi lòng tin; nhờ niềm
tin mà tâm trú chẳng loạn; dùng tâm chẳng loạn mà diệt các triền cái, khởi
lên các thiền chi, đắc được thiền ngoại hành
và an trú.
Phần còn lại như được nói rộng trước đây.
Niệm Pháp chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Niệm Tăng?
Thế nào là tướng, vị xứ, công
đức. Thế nào là tu niệm Tăng?
Đáp: Tăng là,
Thánh tăng hoà hiệp,
đó gọi là Tăng.
Hiện niệm Tăng là công đức tu hành.
Niệm đó theo sát niệm, giữ chánh niệm, đó gọi
là niệm Tăng. Trú vào niệm
đó chẳng loạn là tu. Niệm khởi
lên công đức của Tăng là tướng.
Tâm cung kính là vị, hay là chức năng
của việc niệm Tăng. Công đức vui vẻ và hoà hiệp là xứ, hay
là phạm vi hoạt động của việc niệm Tăng. Công
đức của việc niệm Tăng bằng với công đức niệm Phật.
Tu hành niệm Tăng như thế nào?
Người mới tập thiền đi đến nơi yên
tịch, nhiếp tâm chẳng loạn, tâm khởi niệm tưởng khéo tu hành như vầy:
"Cộng đồng các Sa-môn của Thế tôn tu theo
đúng sự nhuyển thiện (nhuyển = nhuyến = mềm mỏng;
thiện = lành); Cộng đồng các Sa-môn của
Thế tôn tu theo đúng Như pháp; Cộng
đồng các Thánh chúng của Thế tôn tu theo đúng
sự hoà hiệp".
Cộng đồng các Thánh chúng của Thế tôn,
có nghiã là bốn đôi tám cặp (tứ
song bát bối, tức là bốn đạo và
bốn quả vị Thánh). Cộng đồng ấy xứng đáng
được cung kính cúng dường, đáng được kẻ khác chấp tay vái lạy, là
phước điền vô thượng của thế gian. Như thế,
Cộng đồng các Sa-môn của Thế tôn khéo tu hành theo
đúng là khéo thuyết pháp; khéo làm
lợi ích cho người và cho mình, chí đến chỗ
thật là đầy đủ. Cộng đồng ấy chẳng có
kẻ thù oán; lià hai bên cực đoan, noi
theo Trung đạo. Nhuyển thiện có nghiã là, lìa bỏ sự dối
nịnh, lià bỏ sự tà khúc nơi thân và miệng (tà = xiêng xéo; khúc
= cong vạy).Tu theo đúng Như Pháp
là, theo con đường Thánh đạo tám ngành,
nên gọi là tu theo Như. Lại nữa, Như có nghiã là, nói
đến Niết-bàn, tu theo
để đắc được Niết-bàn. Thế tôn giảng
bốn Chơn lý Nhiệm mầu (Tứ thánh đế),
tu theo đó, nên gọi là tu theo Như.
Tu đúng theo sự hoà hiệp
là, sống hoà hiệp với Cộng đồng các Sa-môn,
một cách đầy đủ. Nếu theo đúng như thế mà hành
động cho hoà hiệp, thì thành
được quả lớn, đắc công đức to.
Bốn đôi tám cặp là, theo
đúng đạo Tu-đà-huờn và
được quả ấy, là một
đôi; trú trong
đạo Tư-đà-hàm và
đắc quả ấy, là
đôi thứ hai; theo
đúng đạo A-na-hàm và
được quả ấy, là
đôi thứ ba; trú trong
đạo A-la-hán và
đắc quả ấy, là
đôi thứ tư.
Đó gọi là bốn
đôi. Tám cặp là, bốn hướng
(= đạo) và bốn quả (= quả
vị), thành ra tám cặp. Sa-môn là, theo pháp
đã được
nghe giảng mà tu thành tựu, đó gọi là
Sa-môn. Tăng là, bực Thánh tăng
hoà hiệp, xứng đáng được thỉnh, cúng
dường, hiến thí, cung kính, làm phước
điền vô thượng cho thế gian. Xứng
đáng được thỉnh là kham thọ lời mời của kẻ khác. Xứng
đáng được cúng dường và hiến thí
là, khi nhận cúng dường, hiến thí, khiến kẻ dâng cúng
được quả báo lớn.(...) Làm phước
điền vô thượng cho thế gian là,
vô thượng có nghiã công đức đến mức tối
đa; phước điền là nơi mà
mọi người tạo phước đức.
Người toạ thiền còn niệm Tăng
bằng cách niệm công đức Cộng đồng các
Sa-môn như là một cộng đồng tối thắng,
hết sức chơn thật, đầy đủ giới đức, đầy đủ định lực, đầy đủ trí huệ, đầy
đủ giải thoát và đầy đủ giải thoát tri
kiến.
Người toạ thiền do theo đường lối tu hành
nầy, hiện niệm công đức chư tăng, cho đến khi
tâm tăng niềm tin; nhờ niềm tin ấy, tâm trở nên chẳng loạn, rồi
dùng tâm chẳng loạn ấy mà diệt các triền cái, khởi lên ngoại thiền và an
trú vào đó.
Phần còn lại như đã nói rộng qua
trước đây.
Niệm Tăng chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Niệm Giới? Thế nào là tu, tướng, vị,
công đức. Tu hành Niệm Giới
cách nào?
Đáp: Đó là niệm về công đức của
sự trì giới thanh tịnh. Niệm ấy theo sát niệm, giữ
đúng chánh niệm, đó là niệm giới.
Niệm giới nầy an trú chẳng loạn, đó gọi là
tu. Khiến khởi lên được công đức của
giới, đó là tưởng của việc niệm giới. Thấy
được các lỗi lầm và sanh lo sợ phạm
lỗi, đó là vị, hay là chức năng
của việc niệm giới. Được sự hoan hỉ vì
đã chẳng có lỗi lầm nào, đó là
xứ, hay phạm vi hoạt động của việc
niệm giới.
Người tu niệm giới thành tựu thì được mười
ba công đức: biết tôn trọng thầy, trọng pháp, trọng tăng, trong sự học
giới, trọng sự cúng dường, trọng sự chẳng buông lung; thấy được và
biết sợ các lỗi nhỏ nhiệm, giữ mình và bảo vệ kẻ khác, giải thoát khỏi nỗi
lo sợ về thế giới nầy cùng các thế giới khác,
được nhiều hoan hỉ, được thọ hưởng tất cả công đức về giới. Đấy là
các công đức của việc niệm
giới.
Thế nào là tu hành niệm giới? Người mới tập thiền
đi đến nơi yên tịch, ngồi nhiếp tâm
chẳng loạn, niệm giới của tự thân mình, thấy chẳng nghiêng ngã, chẳng bị
phá thủng, chẳng dính đốm, chẳng nhiễm dơ,
chẳng tạp nhạp, được tự tại, được bực có trí huệ khen ngợi, chẳng chỗ xúc
chạm, khiến định khởi lên được. Nếu
chẳng nghiêng ngã, thì chẳng bị phá thủng; nếu chẳng bị phá thủng,
thì chẳng nhiễm dơ; các điểm khác có thể biết
được theo cách đó. Lại nữa, nếu giới được thanh tịnh tràn
đầy thì
đó là trú xứ của pháp lành, vì thế mà chẳng nghiêng, chẳng thủng.
Vì giới khiến cho danh dự của bộ tộc được
ngợi khen, cho nên chẳng dính đốm,
chẳng nhiễm dơ. Do sự cắt bỏ tham ái, nên gọi là
được tự tại. Được niềm vui của bực Thánh, nên
chẳng có lỗi lầm. Dược bực trí huệ khen ngợi, lìa sự trộm giới, nên gọi là
chẳng chỗ xúc chạm. Thành tựu đến nơi chẳng
thoái chuyển, nên khiến định khởi lên.
Người toạ thiền còn niệm giới theo cách khác, gọi giới là niềm vui
chẳng có lỗi lâm, được bộ tộc trân qúi, xem
như tài vật, được tự tại, như trước có
nói qua. Công đức của giới được nói rộng ra như thế, có thể biết được.
Người toạ thiền theo cửa nầy tu hành, lấy các công
đức đó mà niệm giới, hiện niệm cho
đến khi lòng tin tăng
thêm; do niềm tin ấy tâm trở nên chẳng loạn, rồi dùng tâm chẳng
loạn mà diệt bỏ các triền cái, khởi lên các thiền chi của thiền ngoại hành
mà an trú.
Các chỗ còn lại đã
được nói rộng qua trước đây.
Niệm Giới chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Niệm Thí? Thế nào là tu, tướng, vị,
công đức? Thế nào là tu hành Niệm
Thí?
Đáp: Thí là, vì lợi ích cho kẻ khác nên vui mà giúp ích cho
kẻ khác, vì kẻ khác mà xả bỏ được tài
vật của mình, đó gọi là thí. Lấy công
đức của niệm thí mà hiện niệm về xả
bỏ. Niệm nầy theo sát niệm, giữ đúng chánh
niệm, đó gọi là niệm thí. Niệm thí nầy an trú chẳng loạn,
đó gọi là tu. Khiến khởi lên
công đức của sự thí, đó là tướng.
Chẳng tích trữ là vị, hay là chức năng
của việc niệm thí. Chẳng bỏn xẻn là xứ, hay là phạm vi hoạt
động của việc niệm thí. Nếu người tu hành
niệm thí thành tựu thì được mười công đức:
được niềm vui, chẳng bỏn xẻn, chẳng tham, ý vì nhiều người, khéo
nghĩ đến ý kẻ khác, chẳng lo sợ nơi đông
người, nhiều hoan hỉ, có lòng từ bi, hướng theo nẻo lành và
Niết-bàn.
Tu hành thí như thế nào? Người mới tập thiền
đi đến nơi yên tịch, ngồi nhiếp tâm
chẳng loạn, tâm tự niệm thí, như vầy: Ta xả bỏ vật của ta
để làm lợi cho kẻ khác, nên ta
được nhiều phước. Nhơ bẩn từ bỏn xẻn mà
xuất ra, tâm ta trú nơi chẳng bỏn xẻn, nên chẳng nhơ bẩn. Thường thí luôn,
thường vui bố thí, thường cung cấp và thường phân phát rộng rãi.
Người toạ thiền tu hành theo đường lối
nầy, lấy công đức của việc thí mà niệm, khiến tâm tăng
thêm niềm tin, nhờ niềm tin ấy mà tâm thường chẳng loạn, rồi dùng
tâm chẳng loạn mà diệt mất các triền cái, khởi lên các thiền chi của thiền
ngoại hành mà an trú vào đấy.
Phần còn lại giống như chỗ đã nói
rộng qua trước đây.
Niệm Thí chấm dứt.
Hỏi: Thế nào là Niệm Thiên? Thế nào là tu, tướng, vị,
xứ, công đức? Thế nào là tu hành niệm
Thiên?
Đáp: Y theo công đức được sanh
lên cõi Trời mà niệm công đức của mình,
niệm đó theo sát niệm, giữ chánh niệm, đó gọi
là niệm Thiên. Niệm Thiên đó
chẳng loạn, gọi là tu. Khiến khởi lên công
đức của tự thân bằng với công đức sanh cõi
Trời, đó là tướng. Nơi công
đức đó có lòng ái kính,
đó là vị, hay là chức năng
của việc niệm Thiên. Tin tưởng vào quả báo của công
đức sanh cõi Trời, gọi là xứ,
hay là phạm vi hoạt động của việc niệm Thiên.
Người tu hành niệm Thiên được thành
tựu thì đắc được tám công đức: năm pháp được
tăng cường, tín, giới, văn (= nghe pháp), thí, huệ; được Trời người nhớ
nghĩ đến và thương kính; được hoan hỉ
lớn khi nghĩ đến quả báo công đức niệm Thiên, thân mình tự trọng và
được người khác qúi mến; việc niệm giới, niệm
thí được thêm dễ dàng; hướng theo nẻo lành và Niết-bàn.
Tu hành niệm Thiên như thế nào? Người mới tập thiền
đi đến nơi yên tịch, ngồi nhiếp tâm
chẳng loạn, dùng tâm chẳng loạn mà niệm Thiên, có Bốn Thiên vương, có cõi
Trờì Ba mươi ba, có cõi Trời Viêm ma, có cõi Trời
Đâu suất, có cõi Trời Hoá lạc, có cõi
Trời Tha hoá tự tại, có cõi Trời Phạm. Các vị Thiên tin tưởng
được sanh cõi Trời, chết cõi nầy sanh
qua cõi kia. Còn Ta cũng lại như thế, có lòng tin như thế, giữ giới như
thế, nghe pháp như thế, bố thí như thế, trí huệ như thế, chư Thiên
đó sanh đến cõi
đó, thì ta cũng
được như vậy (...)
Người toạ thiền đó do theo đường lối tu hành
như thế, niệm công đức của bực Thiên,
cho đến khi lòng tin
được tăng trưởng, do lòng tin
đó mà tâm trở nên chẳng loạn, rồi dùng
tâm chẳng loạn mà đoạn diệt hết các triền
cái, khởi lên các thiền chi của thiền ngoại hành mà an trú vào
đấy.
Hỏi: Tại sao niệm công đức Thiên
mà chẳng niệm công đức của Người?
Đáp: Công đức của chư Thiên
tối diệu, sanh ra nơi tối diệu, thành ra xứ tối diệu, nên tâm ở nơi xứ tối
diệu tu hành dễ trở thành diệu. Vì thế nên niệm công
đức chư Thiên, mà chẳng niệm công
đức của người.
Phần còn lại giống chỗ đã
được nói rộng qua trước đây.
Niệm Thiên chấm dứt.
(Giải Thoát Đạo Luận: Quyển
thứ Sáu chấm dứt).
-ooOoo-