Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1:
Nhân Duyên
001. Ý chánh của Phẩm 1: Nhân duyên.
Muốn cởi bỏ mọi khổ đau ràng buộc,
dứt sự sợ hãi về sống chết, và đến được cõi
Niết-bàn an lạc, thì phải thấu hiểu Tam tạng Kinh
điển dạy rõ con
đường giải thoát. Con
đường ấy trải qua ba chặng: Giới,
Định, Huệ.
002. Tóm tắt Phẩm 1: Nhân duyên.
Phẩm Nhân duyên mở đầu bằng bài
Kệ khen ngợi công đức của Đức Phật đã
giác ngộ được pháp Giải Thoát
cao cả nên xứng danh là đấng Thế tôn (= được
cả thế gian tôn trọng).
Sau khi cắt nghiã bài Kệ, vạch rõ thế nào là Giới,
Định, Huệ, Phẩm (1) nầy gồm có các đoạn chánh
sau đây:
1. Giải thoát đạo gồm có năm phần:
11. Phục giải thoát,
12. Bỉ phần giải thoát,
13. Đoạn giải thoát,
14. Khinh an giải thoát,
15. Xuất ly giải thoát.
2. Mục đích việc giảng Giải thoát đạo là
chỉ rõ con đường giải thoát cho ai còn
chưa hiểu hay đã hiểu lầm, tựa như chỉ
đường đi nước bước cho người đi xa chưa rành
xứ lạ.
3. Theo Phục giải thoát, thì cần phải học ba môn học:
31. Giới học và Tăng thượng Giới học,
32. Tâm học và Tăng thượng Tâm học,
33. Huệ học và Tăng thượng Huệ học.
4. Ích lợi thứ nhứt của việc tuân theo Phục giải thoát là thành
tựu được ba ấm: Giới,
Định, Huệ.
41. Giới ấm gồm có: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng;
42. Định ấm gồm có:chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định;
43. Huệ ấm gồm có: chánh kiến, chánh tư duy.
5. Ích lợi thứ nhì là thành tựu được
ba sự thanh tịnh: (1) giới thanh tịnh, (2) tâm
thanh tịnh, và (3) tri kiến thanh tịnh.
6. Ích lợi thứ ba là được ba
điều thiện (= ba
điều lành):
61. sơ thiện là Giới, điều lành
ở bước đầu,
62. trung thiện là Định, điều
lành ở giai đoạn giữa
63. hậu thiện là Huệ, điều lành
ở giai đoạn cuối.
7. Ích lợi thứ tư là được ba
niềm vui:
71. vô quá lạc, vui vì chẳng hề phạm tội lỗi,
72. tịch diệt lạc, vui vì được yên
tịnh, an ổn,
73. chánh giác lạc, vui vì hiểu rõ Chánh pháp.
8. Ích lợi thứ năm là theo
đúng con đường Trung
đạo, xa lìa
được nhị biên (= hai bên, tức
là một bên theo sự ham muốn vui sướng [tham lợi dưỡng], còn một bên
là ép xác cực khổ [ tu khổ hạnh quá mức ]).
9. Theo Phục giải thoát, tu học Giới
Định Huệ, sẽ đắc được các quả:
91. Tu-đà-huờn và Tư-đà-hàm,
nếu tu nhiều Giới mà ít Định và Huệ,
92. A-na-hàm, nếu tu nhiều Giới và Định, mà
Huệ ít hơn,
93. A-la-hán, nếu tu cả ba đồng đều và
đầy đủ.
003. Giải nghiã các chữ khó trong Phẩm 1:
Giải thoát đạo Luận: Giải =
cởi mở; thoát = tránh khỏi; đạo
= con đường, đường lối, cách thức;
Luận = bộ Luận, tức là quyển sách do bực A-la-hán, Bồ-tát,
viết để giảng rõ thêm về Chánh pháp
nói trong Kinh. Bộ Luận nầy do Ngài A-la-hán Ưu ba
đế sa (Upatissa, trùng tên với
Ngài Xá-lợi-phất, Sariputta), viết có lẽ vào
đầu thế kỷ thứ nhứt bằng tiếng Pàli,
được dịch sang chữ Hán có lẽ vào thế
kỷ thứ sáu, do Tam tạng pháp sư Tăng già
bà la (Tipitaka Sanghapàla), ở đất Phù
Nam, nước Lương [xin dè dặt về thời điểm và
điạ danh]. Nguyên tác bằng tiếng
Pàli đã bị mất hẳn, nên các tu sĩ Phật
giáo ở Tích lan đem bản chữ Hán trong Đại
tạng, dịch ngược trở lại tiếng Pàli, nhan
đề Vimutti Magga. Bản dịch Anh
văn được Buddhist Publication
Society ở Sri Lanka ấn hành năm 1961 dưới
nhan đề là The Path of Freedom. Bản dịch của Thiện Nhựt căn
cứ trên bản Hán văn trong bộ
Càn Long Đại Tạng Kinh, quyển
số 103, từ trang 620 đến trang 755 và
quyển số 104, tiếp theo, từ trang 001 đến hết
trang 048.
Nhân duyên: Nhân = nguyên nhân chánh, cớ chánh; duyên =
nguyên nhân phụ, cớ phụ, còn gọi là điều
kiện, nếu chẳng có đủ thì chẳng có kết quả sanh ra. Ở Phẩm nầy, chữ
Nhân duyên có nghiã là các lý do vì
đâu mà tác giả đã viết ra bộ
Luận nầy.
Thế tôn: Thế = thế gian; tôn = trọng;
đấng được cả thế gian tôn kính. Ở đây, chữ
Thế tôn dành cho Đức Phật
Thích-ca. Lúc Đức Phật còn sống, Ngài tự xưng là Như Lai,
còn các đệ tử gọi Ngài là Thế tôn.
Ứng cúng: Ứng = xứng đáng, đáng
nhận; cúng = đem lễ vật dâng
hiến, cúng. Các bực Thánh xứng đáng nhận sự cúng dường của người khác, nên
gọi là bực ứng cúng.
Chánh biến tri: Chánh = chơn chánh,
đứng đắn; biến = cùng khắp,
chẳng sót; tri = biết. Chánh biến tri là sự hiểu biết chơn
chánh tất cả mọi sự vật, chẳng sót sự vật nào. Cùng với Ứng cúng,
chữ Chánh biến tri là một danh hiệu của
Đức Phật. (Phẩm 8: Hành môn, Chi 3 về
Niệm Phật sẽ giải thích rõ về Mười Danh hiệu của Phật).
Vô thượng: Vô = chẳng có; thượng = ở trên; Vô
thượng là cao hết sức cao, chẳng còn gì cao hơn nữa.
Hữu xứng: Hữu = có; xứng = hay là xưng, xưng tán,
khen ngợi. Ở đây có nghiã là xứng
đáng được tôn xưng.
Tâm trí ưu thắng: ưu thắng = tốt hơn, cao hơn; có tâm trí
vượt lên trên hạng người thường.
Niết-bàn: phiên âm chữ Pàli Nibbàna, nghiã gốc là ra
khỏi rừng u tối, nghiã giáo lý là đã
trừ diệt xong các phiền não, chứng được vô
sanh (= chẳng còn phải tái sanh lại nữa). Tiếng Phạn là Nirvana.
Có hai cõi Niết-bàn; khi còn sống gọi là Hữu dư Niết-bàn;
đến khi lià
đời thì vào cõi tịch diệt của Vô dư
Niết-bàn.
Tam tạng Kinh điển: Luật tạng,
Kinh tạng và Luận tạng: Tam = ba; tạng = cái giỏ
đựng sách; còn có nghiã là kho tàng
(chứa Kinh sách); Kinh = nói gọn là, lời
Đức Phật giảng về Chánh pháp; điển =
sách làm chuẩn, ghi phép tắc. Tam tạng Kinh
điển là kho tàng sách vở giáo lý,
gồm có ba tạng là Luật tạng, nói về Giới luật; Kinh tạng,
gồm các bộ Kinh dài ngắn; và Luận tạng, các bộ Luận giải thêm ý
nghiã trong Kinh.
Uy nghi: oai nghi: Chữ nầy được
dùng theo như một danh từ, hoặc theo như một tĩnh từ.
Danh từ uy nghi chỉ cho bốn tư thế đi,
đứng, nằm, ngồi; còn gọi là bốn oai nghi. Tĩnh từ uy nghi
có nghiã là đàng hoàng trong tư
cách, trang nghiêm. Ở đây, chữ uy
nghi được dùng theo cả hai nghiã.
Loạn động: xao
động, chẳng yên. Nói về tâm lăng
xăng, chạy tới chạy lui. Trái nghiã với nhứt tâm bất loạn.
Vô lậu: Vô = không; lậu = rỉ chảy. Chữ nầy
được dùng theo nghiã bóng, chỉ
các phiền não bên trong bộc lộ ra, như chất máu mủ rỉ chảy ngoài da. Vô
lậu có nghiã là dứt sạch các phiền não. Trái nghiã với chữ hữu lậu,
còn phiền não.
Thử pháp: Thử = đó, kia;
Pháp = pháp tu. Chữ Pháp có ba nghiã: (1) nghiã thường,
pháp là pháp luật, luật lệ mà mọi người phải tuân theo; (2) nghiã thứ
nhứt trong Phật học là những pháp tu, lời dạy
để tu hành. Thí dụ: Chánh pháp, Đạo
pháp. (3) Nghiã thứ hai trong Phật học là tất cả sự vật mà ta
có thể đặt tên
để gọi. Thí dụ như căn nhà, ngọn núi,
con người, thú vật, đều được Phật học gọi là
những pháp. Ở đây, hai chữ
thử pháp, nghiã là, pháp đó, tức là
cái pháp tu được nói đến.
Trong bài Kệ, chữ Thử pháp, pháp
đó, nói đến Tứ Thánh pháp, tức là bốn Chơn lý Nhiệm mầu, là
Tứ Diệu Đế.
Tứ Thánh pháp: Tứ = bốn; Thánh = bực Thánh, bực tu
hành đã
đắc Đạo; pháp = pháp tu. Bốn pháp
đó còn gọi là Tứ Diệu
Đế, gồm có: (1) Khổ
đế = Chơn lý về sự khổ; (2) Tập
đế = Chơn lý về nguồn gốc gây ra
sự khổ; (3) Diệt đế = Chơn lý
về sự tận diệt được sự khổ; (4) Đạo đế =
Chơn lý về con đường tu tập để tiêu
diệt hết sự khổ. Tứ Diệu Đế được Đức Phật
Thích-ca giảng rõ trong bản Kinh đầu
tiên của Ngài là Kinh Chuyển Pháp luân (= Kinh chuyển bánh xe
Pháp).
Cồ-đàm: phiên âm chữ Gotama,
họ của Đức Phật Thích-ca.
Công đức thù thắng:
được sự ích lợi to lớn nhứt.
Phiền não: các điều làm cho
mình phải lo lắng, đau khổ. Có ba phiền não
chánh: tham, sân (giận) và si (ngu tối), thường
được gọi là tam
độc, tức là ba món
độc hại cần trừ bỏ.
Phục giải thoát: Phục = điều
phục, bắt phải theo lịnh mình, tức là dẹp cho yên ổn. Giải thoát
= cởi mở ra cho được tự do.
Phục giải thoát là giai đoạn đầu của
Giải thoát đạo, con
đường đưa đến tự tại, tự mình làm chủ
lấy mình, chẳng bị ràng buộc gì nữa. Phục,
đây là
điều phục các triền cái.
Triền cái: Triền = vây quấn xung quanh; cái = che úp
lại. Triền cái, theo nghiã Phật học, là năm
món che úp: (1) tham dục (= ham muốn), (2) sân khuể (= giận hờn), (3) giải
đãi (= lười nhác), (4) trạo (hay
điệu, vụt chạc, xao động) và
hối (= hối tiếc), (5) nghi. Năm món nầy (thật
ra có tới bảy món) làm chướng ngại cho việc tu
đắc Sơ thiền (= thiền thứ nhứt).
Bỉ phần giải thoát: Bỉ = kia,
đó; phần = một phần trong toàn thể; Bỉ phần giải thoát
là đắc được một phần giải thoát, phần đó
là Định, tâm bớt xao
động, biết dừng lại.
Khinh an giải thoát: Khinh = nhẹ nhàng; An =
yên ổn; Khinh an là tình trạng của thân và tâm cảm thấy nhẹ nhàng
và an ổn. (Trong bản dịch chữ Hán, ghi là ỷ giải thoát.)
Tri kiến: Tri = biết; kiến = thấy; Tri kiến là
các điều mình thấy và biết rõ.
Đoạn giải thoát: Đoạn = cắt
đứt thành từng
đoạn; đoạn trừ. Đây là giai
đoạn dẹp bỏ các kết sử, để được tự do.
Kết sử: còn gọi là kiết sử. Kết = tụ tập, kết hợp lại; Sử
= sai khiến, sai sử. Kết sử là mười phiền não có khả năng
sai khiến mình phải hành động hay nói
năng theo hướng các phiền não đó; thí
dụ kết sử giận sai khiến mình phải to tiếng, quát tháo,
đánh đập, phá hủy. Có mười kết sử: (1) tham
(2) sân (= giận), (3) si (= si mê), (4) mạn (= kiêu căng,
phách lối), (5) nghi, (6) tà kiến (= ý nghĩ sái quấy), (7) giới cấm
thủ (= các giới cấm và nghi thức cúng tế của ngoại
đạo, đầy vẻ mê tín), (8) tật (= ganh
ghét, đố kỵ), (9) khan (= keo kiệt) và
(10) hữu kết (= tham muốn được sống mãi;
hữu = cuộc sống hiện nay).
Xuất thế gian: Xuất = ra khỏi; Thế gian = cõi sống ở
trần gian nầy. Xuất thế có nghiã là tu hành
để vượt qua được cuộc sống ở thế gian. Trái
nghiã với chữ tại thế, thế tục.
Quả vị: Tu hành theo pháp thành công là chứng
được Đạo (tiếng Pàli là Magga).
Tu hành được viên mãn chứng
đắc được bực Thánh, gọi là
đắc quả vị (tiếng Pàli là Phala).
Hai chữ Đạo quả có nghiã là,
Đạo là nguyên nhân khởi việc
tu, Quả là kết quả việc tu đã
xong. Vị là ngôi vị, cấp bực.
Trần lao: Trần = bụi bặm; lao = khổ nhọc; Trần lao
chỉ các chỗ khổ sở, nhọc nhằn, dơ bẩn trong cuộc
đời ở thế gian.
Thoái chuyển: Thoái = thối = lùi trở lại; chuyển =
di động, chuyển động. Thoái
chuyển là lùi sụt.
Bất chánh: Bất = chẳng; Chánh =
đứng đắn, chơn chánh, ngay thẳng. Trái nghiã
với chơn chánh.
Thiền: (tiếng Pàli là Jhàna) phương pháp tu hành
để tâm được Định. Có bốn cấp Thiền: (1) Sơ
thiền, (2) Nhị thiền, (3) Tam thiền, và (4) Tứ thiền. Có nơi còn
thêm Ngũ thiền nữa.
Ấm = Uẩn = sự nhóm họp, kết tụ lại nhiều thứ. Vì tụ lại lắm thứ nên
có sự lẫn lộn che mờ. Thường nói Năm Ấm
hay Ngũ uẩn, để chỉ thân
tâm nầy gồm có năm phần: (1) sắc ấm (phần vật chất), (2) thọ ấm (các cảm
giác), (3) tưởng ấm (các tri giác và tư tưởng, (4) hành ấm (các
hành động của thân và của tâm) và (5)
thức ấm (các sự hiểu biết).
Ở đây, nói ba ấm: giới ấm,
định ấm và huệ ấm, chữ ấm
được dùng với nghiã là tụ lại, nhóm
họp.
Thành tựu: thành công, làm thành được.
Chánh ngữ: lời nói chơn chánh.
Chánh nghiệp: Nghiệp = chữ Pàli là Kamma, chữ Phạn là
Karma, chỉ tất cả các hành động và
lời nói đã làm hay nói, trong thời
gian đã qua, tạo thành nghiệp,
khiến cho mình nay được sung sướng hay khổ
cực. Nghiệp có sức mạnh dẫn dắt chúng sanh
đi tái sanh trong vòng Luân hồi, sanh
ra lớn lên rồi chết và phải sanh trở lại nữa, lẩn quẩn mãi chẳng dứt. Ở
đây, chữ Chánh nghiệp có nghiã
là nghiệp chơn chánh, sẽ dắt ta sanh theo
đường lành.
Chánh mạng: có nghề nghiệp chơn chánh
để nuôi mạng sống.
Chánh tinh tấn: sự cố gắng đúng đắn,
chơn chánh.
Chánh niệm: Chánh = chơn chánh,
đúng đắn; Niệm = một ý tưởng khởi lên ngay lúc nầy trong
tâm; Chánh niệm là ý tưởng khởi lên trong tâm, ngay trong lúc mình
đang làm gì thì biết mình
đang làm việc ấy. Người có
chánh niệm đang tụng Kinh, biết mình
đang đọc tới câu nào, chữ nào; trái
với người thất niệm, miệng đọc Kinh mà
tâm đang nghĩ đến việc khác.
Chánh định:
Định = dừng lại, trụ lại,
chuyên vào một việc đang suy nghĩ.
Chánh định là tình trạng tâm an ổn
của người đang dừng lại sự suy nghĩ.
Chánh kiến: ý kiến chơn chánh, tri kiến(= hiểu biết) chơn chánh.
Trái nghiã với tà kiến (= ý tưởng sái quấy), với vọng tưởng
(= ý nghĩ mơ vọng, chẳng đúng đắn, chẳng hợp
với lúc đang suy nghĩ, lạc ra ngoài
đề).
Chánh tư duy: Tư duy = suy nghĩ; Chánh tư duy là có
sự suy nghĩ đứng đắn, chơn chánh, nghiã
là theo đúng Chánh pháp.
Giới học: học về Giới luật tu hành theo
đạo Phật. Có 10 giới của Sa-di (= người mới vào
chùa tu), 250 giới của Tỳ-kheo (nam tu sĩ thọ Cụ túc giới [ = Giới
đầy đủ ], chánh thức gia nhập Tăng đoàn),
và 348 giới của Tỳ-kheo ni (nữ tu sĩ thọ Cụ túc giới). Cư sĩ tu tại nhà có
5 giới; Cư sĩ thọ Bồ-tát giới có 40 giới.
Tăng thượng: Tăng
= tăng thêm; thượng =
cao hơn. Tăng thượng giới
là các giới luật cao hơn dành cho bực Thánh.
Giới tướng: Giới = điều răn cấm
trong Đạo Phật; Tướng = hình tướng, hình thức. Thí dụ:
giới sát sanh có giới tướng là chẳng cầm dao giết hại chúng
sanh.
Dục giới: Chữ Giới nầy khác nghiã với chữ Giới là
điều răn cấm. Giới trong chữ
Dục giới, có nghiã là cõi, lãnh vực; Dục là ham muốn. Cõi
dục giới là cõi chúng ta đang sống, còn
nhiều ham muốn. Có ba cõi, hay là tam giới: dục giới, sắc giới
(= cõi còn hình sắc, nhưng hình sắc tế nhị hơn ở cõi dục giới), và
vô sắc giới (= cõi chẳng còn hình sắc, chỉ còn tư tưởng mà thôi)
Sắc giới: Cõi cao hơn cõi Dục giới, chẳng còn ham muốn, có
hình sắc nhưng tế nhị hơn cõi Dục giới.
Vô sắc giới: Cõi cao nhứt trong ba cõi, chẳng có hình sắc, chỉ còn
tư tưởng.
Tương tự trí: Tương tự = giống y với, chẳng khác. Tương
tự trí là trí đã thông hiểu rõ ba
mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ-đề (Các Phẩm sau của
bộ Luận sẽ chỉ rõ 37 phẩm trợ đạo).
Đạo trí: Đạo = ở đây chữ
Đạo có nghiã là con đường tu hành
để đắc được bốn quả hàng Thanh văn
(tức là Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm và A-la-hán). Chữ Đạo
nầy được dùng trong chữ
đạo quả (đạo
= magga, quả = phala). Như thế,
Đạo trí là trí biết rõ và thực
hành theo đúng đường lối tu hành hàng
Thanh văn (Pàli: Sàvaka, tu sĩ
nghe Kinh Phật dạy để tu.)
Độn căn: Độn = trì độn,
chậm lụt; Căn = gốc, tức
là vốn liếng hiểu biết. Người độn căn
là người có căn cơ chậm
lụt, thông minh kém cỏi.
Lợi căn: Lợi = sắc bén.
Lợi căn nói
đến người thông minh nhiều, hiểu nhanh các
điều được chỉ dạy.
Khả học: Khả = có thể, nên phải.
Điều khả học là
điều phải nên học hỏi thêm.
Như thị học: Như thị = như thế, nghiã là, như thế nào thì
thấy và hiểu đúng như thế ấy, theo đúng Chơn
lý. Như thị học là cái học về Chơn lý.
Hữu học và Vô học: Đây là nói
về hai hạng người. Người hữu học là người còn nhiều
điều phải học thêm; ý muốn nói chưa
biết cách diệt trừ các phiền não. Còn người vô học, chẳng phải là
người chẳng học gì ráo, vì đó là người
thất học, chớ chẳng phải là người vô học. Vô học là học xong
và thực hành đầy đủ việc diệt trừ các phiền não,
nên chẳng điều gì phải học thêm nữa.
Như thế, hữu học còn thấp hơn vô học.
Thanh tịnh:Thanh = trong, chẳng
đục; Tịnh = sạch sẽ. Giới thanh tịnh là giữ
gìn giới luật chặt chẽ chẳng sơ hở, chẳng hề phạm giới. Tâm thanh
tịnh là lòng trong sạch, chẳng vướng bận ý nghĩ xấu ác, chẳng có
vọng tưởng. Huệ thanh tịnh là trí sáng suốt chẳng bị các tà
kiến che mờ, khiến cho Trí huệ Bát-nhã chiếu sáng lên, vẹt
được sự vô minh (= sự ngu tối).
Tẩy trừ: gột rửa cho sạch, dẹp bỏ chỗ dơ xấu.
Cấu nhiễm: Cấu = cặn cáu dơ bẩn; Nhiễm = dính dơ
Triền cấu: Xin xem lại chữ Triền cái.
Vô tri cấu: Vô tri = chẳng biết; Cấu là cặn bã dơ
dáy. Vô tri cấu tức là sự ngu dốt, thiếu sự hiểu biết.
Ác nghiệp: Nghiệp ác là vì các hành
động xấu ác đã qua khiến phải sanh vào
ba đường dữ (= tam ác
đạo:
điạ ngục, ngạ qủi [ = qủi đói] và súc sanh [ = thú vật].)
Ba điều lành: Nguyên văn
chữ Hán là tam chủng Thiện, ba loại thiện. Ở
đây có nghiã là việc tu tập theo Giải
thoát đạo qua ba giai đoạn tạo thành
ba điều lành;
đúng ra đó là một
điều lành trải qua ba giai
đoạn. Giai đoạn đầu được gọi là Sơ
thiện, khi giữ Giới được thanh tịnh; giai
đoạn giữa được gọi là Trung thiện, khi tâm
đắc được Định, ý nghĩ dừng lại, chẳng còn
lăng xăng nữa và nhờ
đó đến giai đoạn chót, gọi là Hậu
thiện, Trí Huệ chiếu sáng lên dẹp xong các tà kiến, khiến cho tri kiến
được thanh tịnh, lià xa các ham muốn
mà được giải thoát. Chữ Thiện,
trong Hán văn, còn có nghiã là khéo
léo, cho nên Kinh sách thường nói, lời giảng pháp của
Đức Phật đều được sơ thiện, trung
thiện và hậu thiện, có nghiã là Ngài khéo nói ở
đoạn đầu, khéo nói ở
đoạn giữa, và cũng khéo nói ở
đoạn cuối.
Vô quá lạc: Vô = chẳng có; Quá = lỗi lầm, quá thất;
Lạc = vui. Vô quá lạc là niềm vui trong lòng khi nhận thấy
và biết mình chẳng có lỗi lầm chi cả.
Tịch diệt lạc:Tịch = yên lặng, lặng lẽ; Diệt = tiêu
mất. Tịch diệt lạc là niềm vui thấy thân tâm
được an ổn, nhẹ nhàng, như
đang trong cõi tịch diệt (= yên lặng)
của Niết-bàn.
Chánh giác lạc: Chánh giác = sự giác ngộ chơn chánh, tức là
hiểu và áp dụng đúng theo Chánh pháp và
chứng đắc được. Chánh giác lạc
là niệm vui được giác ngộ, hiểu theo nghiã
biết rõ cả Chơn lý.
Trung Đạo: Trung = ở
giữa. Đạo = con
đường, đường lối. Trung
Đạo là con
đường tu tập mà
Đức Phật đã vạch ra trong Bát Chánh
Đạo, theo đó người tu hành tránh xa
hai cực đoan: (1) tham lợi dưỡng, ham hưởng
thú vui vật chất, và (2) khổ hạnh, tu hành ép xác cực khổ, tưởng
rằng nhờ đó mà mau
đắc quả. Hai cực đoan, lợi dưỡng và
khổ hạnh, còn được gọi là nhị biên.
[ Đừng lầm với Đạo Trung dung của Nho giáo].
Nhị biên: Nhị = hai; Biên = biên giới; Nhị biên
thường được dịch là hai bên;
còn ở giữa chính là con đường
Trung Đạo, tránh
được hai bên. Nhưng chữ nhị
biên, hai bên còn có nghiã khác, chỉ cho hai tà kiến trái ngược
hẳn nhau: thường kiến và đoạn kiến.
Chống lại vô thường kiến (tư tưởng Phật học cho rằng
muôn sự đều biến đổi để đi đến hoại vong),
thường kiến là ý kiến tin rằng chẳng có sự thay
đổi, hễ đã là người rồi thì chết
đi, lại sanh ra làm người nữa. Còn
đoạn kiến thì cho rằng chết
đi là hết, chẳng có Luân hồi sanh tử
chi cả. Cả hai tà kiến đoạn kiến và
thường kiến khi tu theo đạo Tu-đà-huờn
thì dẹp được hết, cùng với thân
kiến (= chấp thân nầy là Ta).
004. Suy gẫm về Phẩm 1: Nhân duyên của bộ Luận Giải thoát
đạo nầy.
Sau khi đọc kỹ bản dịch Việt văn
về Phẩm 1, tìm hiểu nghiã chữ khó và sắp xếp ý tưởng trình bày
trong Phẩm thành một dàn bài chi tiết, ta bắt
đầu suy gẫm về Phẩm 1 nầy.
Suy gẫm về ý nghiã của một bài văn là
tìm hiểu hứng thú của bài văn đó.
Suy gẫm về ý nghiã của một bản Kinh, hay một bản Luận, là tìm thấy,
qua sự suy nghĩ của chính mình, nghiã lý đã
được bản Kinh, Luận nói đến và rút ra
bài học cho chính bản thân mình, để
ứng dụng tu tập. Như thế, việc
đọc Kinh, Luận chẳng giống với việc đọc các bài văn
thơ, là ở chỗ tìm thấy ra ích lợi thiết thực trong việc tu
tập. Biết rút ra được một vài
điều có ích cho việc tu tập, đó là
đang nếm pháp vị của bản Kinh
hay bản Luận. Nhắc lại lời Đức Phật có nói,
như nước biển chỉ có một mùi vị là mặn, Chánh pháp cũng chỉ
có một vị, đó là vị giải
thoát. Như thế, việc đọc tụng
một bản Kinh chưa đủ, việc
học thuộc lòng một bản Kinh vẫn chưa đủ,
việc tìm hiểu ý nghiã của bản Kinh cũng vẫn chưa
đủ, còn phải biết cách tự mình suy
gẫm để nếm pháp vị của bản Kinh,
Luận đó nữa.
Suy gẫm về "Phẩm 1: Nhân duyên" nầy, xin nêu ra các ý nghĩ cá nhơn
thô thiển sau đây:
1) Toàn thể bộ Luận đều nói đến sự
giải thoát; Phẩm 1 đưa ra các
lý do tại sao phải tìm đường
giải thoát và giải thoát bằng cách nào. Luận văn
ghi rõ: "... muốn cởi được mọi ràng
buộc, muốn thành tựu tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sanh, già, chết, muốn
vui giải thoát đạt tới Niết-bàn ..."
ba điểm giải thoát, một gần
và hai xa. Gần là cởi mọi ràng buộc; xa là có
được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về
sống chết, và đạt tới Niết-bàn.
Ngay trong lúc nầy, tưởng chỉ nên chú trọng
đến một
điểm gần mà thôi,
để chấm dứt mọi ràng buộc.
Đến khi tu tập có tiến bộ, tự nhiên sẽ
thấy hai điểm xa tuy khó mà cũng có
thể hi vọng thành tựu được ít nhiều.
2) Thắc mắc thứ nhứt: nào ai trói buộc tôi mà gọi là tôi bị ràng
buộc?
Đáp: Sự ràng buộc nằm bên trong mỗi người. Khi giận, thì
có hành động, lời nói như thế nào?
Phải chăng giận run lên,
đỏ mặt tiá tai, miệng quát tháo, tay đập phá.
Đó là tâm giận đã sai
khiến mình có thái độ, lời nói và hành
động thiếu mất bình tỉnh như vậy.
Tâm giận đó nằm bên trong lòng
mình, được Kinh sách gọi là một kết
sử, cái sự ràng buộc sai khiến mình có tư cách thiếu
đúng đắn. Thử nhìn vào trong lòng
mình, thật thà mà xét đến thái độ của chính mình,
thì thấy ra chính mình đang bị ràng
buộc bởi mười kết sử. Việc gần cần làm ngay là phải tìm cách, và áp
dụng cách đó, để ngăn chặn các mối ràng
buộc ấy. Đấy là
đang tu tập theo Phục giải thoát được
nói trong Luận văn. Phục, có nghiã là
điều phục, là chính mình làm chủ lấy
tâm mình, khiến cho cơn giận chóng qua
đi mà chẳng gây ra tai hại cho kẻ khác
và cho cả chính mình nữa (Khi giận, thân tâm chẳng vui sướng gì
đâu!).
3) Thắc mắc thứ hai: Có người sanh ra trên nhung lụa, sống sung
sướng cả đời, bị khổ gì
đâu mà cần giải thoát?
Đáp: Bất luận là ai, giàu sang, quyền thế mấy
đi nữa, cũng có lúc đau ốm, và chắc
chắn rồi sẽ lo sợ khi phải chết. Đã có
thân tâm nầy, tất chẳng ai tránh được sự lo
lắng về bịnh tật, già yếu và chết chóc. Phương tiện y
khoa có thể trị lành bịnh, kéo dài cuộc sống
được, nhưng sự lo lắng khi bịnh, lúc già, cảnh chết, chẳng có cách
nào làm cho dứt hẳn được. Nhưng Kinh Luận
Phật học dạy cách làm cho tâm chẳng quá lo lắng về ba cái khổ
đó. Dạy cách nào? Bộ Luận Giải
thoát đạo nầy sẽ lần lượt chỉ rõ
cách khiến cho tâm trí sẵn sàng đối
phó với cái khổ tinh thần đó:
trên cái đau về thân
xác, chẳng chồng thêm lên cái khổ tâm linh. Khi
đã học
đến làm thế nào để có được
tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi, sẽ thấy bộ Luận nầy dạy ta cách thực tế
nhứt để vượt qua được việc "đau
và khổ" đó.
4) Thắc mắc thứ ba: đọc qua Phẩm 1,
thấy nói đến năm phần giải thoát,
sao chỉ thấy giảng rộng về Phục giải thoát thôi, còn các
thứ giải thoát khác chẳng thấy nói
đến?
Đáp: Dụng ý của tác giả là nói đến
việc gần trước, rồi các Phẩm sau sẽ khai triển thêm về các giai
đoạn giải thoát khác. Vả lại, khi đã
điều phục được thân tâm nầy, diệt xong các
kết sử, các phiền não khác, tự nhiên tâm trí sáng suốt hơn mà nhìn
thấy rõ con đường giải thoát ở
mức trọn vẹn như thế nào, và cần còn phải làm những gì thêm nữa, sau khi
đã tu tập kỹ về Phục giải thoát.
5) Thắc mắc thứ tư: Vừa đọc qua mấy
trang đầu trong Phẩm 1, tôi bị tràn ngập bởi các danh từ chuyên
môn về Phật học, làm sao mà nhớ được
chừng ấy chữ, chừng ấy ý, để ứng dụng tu hành?
Đáp: Các danh từ Phật học đã được
giải thích một cách rất tóm tắt trong Phần Tìm hiểu. Nếu
đi sâu vào chi tiết các danh từ nầy,
chắc sự tràn ngập còn lên cao hơn nữa. Trong buổi
đầu, xin tạm nhớ chừng ấy, hay ít hơn cũng
được; miễn là mỗi khi thấy còn thắc mắc thì giở ra xem lại.
Nhờ xem lại thường mà chẳng cần học thuộc lòng, cũng nhớ
đúng được.
Một điều quan trọng xin nêu lên:
trong khi học Kinh sách Phật, xin đừng để các
danh từ làm mình rối trí thêm, vấn đề
chánh là tìm hiểu được ý
chánh nói trong đoạn đang đọc. Ý nghiã
mới quan trọng, giúp mình biết cách ứng dụng, xin
đừng bắt chước những người thường hay dùng
các tiếng dao to búa lớn, nói nhiều tiếng Hán Việt cho ra vẻ ... tu
hành! Ngâm nga một bài Kệ mà chẳng hiểu ý nghiã, phải chăng
đó là một hình thức để ... khoe khoang
mình biết nhiều về Kinh kệ, rằng mình
đã tu ... cao! Nếu muốn học thuộc các bài Kệ, xin cứ học thuộc, sẽ
được nhiều phước lạc, nhưng xin nhớ giữ lấy ý
nghiã để mà tu cho có công
đức: tu cho chính mình!
005. Thử tóm tắt những điều cần nên
hiểu rõ và biết chắc về Phẩm 1: Nhân duyên.
1. Giải thoát là gì? Giải thoát là cởi mở các ràng buộc
từ bên trong.
2. Phục giải thoát là điều phục
thân tâm nầy, từ từ dẹp bớt các phiền não, các kết sử.
3. Con đường giải thoát là
tu hành theo ba môn học: Giới, Định
và Huệ. Nhờ giữ kỹ Giới thành kỷ luật nghiêm
khắc để tuân theo khiến cho thân tâm được
an lạc, rồi nhờ siêng tập Định
bằng cách ngồi Thiền, tâm trí mới trở nên sáng suốt hơn trước,
đó là Huệ.
Trí huệ sáng suốt giúp ta giác ngộ
được Chánh pháp, để ứng dụng tu hành sớm
đạt đến giải thoát.
Và xin nói thêm một điều thật quan trọng.
Đó là Đạo Phật
được tóm gọn trong mấy chữ nầy:
Giác ngộ và Giải thoát.
-ooOoo-