PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm hiểu Phẩm 9:
Năm
Thần Thông
Chuyển tiếp: Các đề mục quán tưởng
được chỉ dạy rõ ràng ở hai Phẩm 7 và 8 vừa qua, có mục
đích giúp tâm hành giả
đắc được định lực. Khi
định lực đã
được tự tại, hành giả nhập và xuất ra
Định một cách dễ dàng và an
tường ở bốn cấp Thiền, nếu muốn tu tập tiếp
để đắc được các Thần Thông, thì Phẩm 9 nầy sẽ trình bày cách
thức hành trì.
075. Đắc Thần thông chẳng phải là
mục tiêu chánh của việc tu tập để được
giải thoát.
Theo Kinh sách, đắc thần thông vẫn chưa
được hoàn toàn giải thoát, vì phiền não vẫn còn chưa
được diệt tận, và nghiệp lực vẫn còn
tác động. Vì lẽ
đó, việc tu tập Thần thông chưa phải là
mục tiêu chánh yếu cho việc giải thoát khỏi cảnh sanh tử của
Luân hồi.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài
thường nhắc nhở các Tỳ-kheo rằng việc tu tập theo Chánh pháp phải nhằm mục
tiêu tận diệt các lậu hoặc để được giải
thoát; việc đắc thần thông không phải là việc chánh yếu, chớ có
mong cầu, vì một khi giới hạnh thanh tịnh,
định lực thâm sâu, trí huệ khai triển thì việc
đắc thần thông tự nó sẽ đến. Vả lại, Ngài
cấm hẳn việc thi triển thần thông trong khi
đi hoá độ chúng sanh, vì làm như thế, tuy
được dân chúng có phần thán phục nhưng chẳng
vì thế mà họ thật tình tuân phục theo Chánh pháp.
Bởi các lẽ đó, khi học qua Phẩm 9, hành
giả chớ nên quá mong cầu đắc được thần thông,
hay cố thi triển một vài thắng pháp,
để được ngưỡng mộ, vì vẫn còn xa với mục tiêu
được hoàn toàn giải thoát.
077. Dàn bài của Phẩm 9: Năm Thần
Thông:
I. Nhập đề: Khi
đắc Định lực ở bốn cấp Thiền được tự tại,
nhập và xuất định được an tường, hành
giả có thể tu tập về Năm Thần Thông: thân
thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông và
thiên nhãn thông.
II. Thân bài: Thân bài chia ra làm năm
phần, mỗi phần nói về một loại Thần Thông:
A. Thân thông: Thân thông là thân thể tùy ý muốn mà biến hoá.
Có ba loại biến hoá:
1. Thọ trì biến hoá: một người biến thành nhiều, nhiều người
biến thành một người.
2. Tác biến hoá: bỏ hiện thân hoá thành thân trẻ nhỏ, hoặc thân
rồng, hoặc thân thiên chúng (= chúng sanh cõi Trời)
3. Tùy ý biến hoá: ngoài hiện thân ra, biến thêm các hoá
thân khác có đầy đủ các bộ phận, sanh
hoạt như hiện thân
4. Các hình thức biến hoá:
41. Trí biến: lấyvô thường tưởng bỏ thường tưởng;
42. Định biến: dùng
Định lực vượt qua các cấp Thiền và
Định;
43. Thánh biến: ở nơi kinh tởm, khởi lên
được tưởng chẳng kinh tởm;
44. Tùy nghiệp biến: do nghiệp sanh biến hiện như loài
chim bay giữa Hư-không;
45. Minh thuật biến: dùng bùa chú mà biến hoá
46.Phương tiện biến: do hạnh xuất ly mà biến diệt hết các
phiền não như bực A-la-hán.
5. Ai tu biến hiện được?
Người đắc Tứ Thiền tự tại.
6. Khởi tu như thế nào? Do tu dục
định, mà
đắc các thắng hành của
bốn như ý túc:
61. Thân tùy theo Tâm, Tâm tùy theo Thân,
62. An thân nơi Tâm, an tâm nơi Thân;
63. Do Thân mà Tâm biến, do Tâm mà Thân biến;
64. Do Thân mà Tâm thọ trì; do Tâm, Thân thọ trì
7.Khởi lạc tưởng (tưởng vui) và khinh tưởng (tưởng nhẹ)
- cho bám dính vào thân, tu tâm để
thân nhẹ nhàng, bay bổng, nhập vào Tứ Thiền rồi qua Hư-không
định
- thân nhẹ nhàng cất lên cao, tập lần lần vươn lên
đến Hư-không, qua Nhứt thiết nhập
Hư-không;
- dùng tâm tu hành các Nhứt thiết nhập
Điạ và Thuỷ,
- dùng trí thọ trì, thân biến hiện xuyên qua vách, chui xuống
đất, đi trên mặt nước, biến
thành nhiều người
8. Thọ trì biến dùng ba cách di duyển: (1) bộ hành, (2) tâm
hành và (3) phong hành mà đi trong
Hư-không.
9. Tác biến tu hành bốn như ý túc, nhập vào Tứ Thiền,
biến hiện thân trở thành trẻ nhỏ, thành núi, biển...
10. Tùy ý biến, nhập vào Tứ Thiền, hiện thân biến ra nhiều
hoá thân cử động, nói năng như hiện
thân.
B. Thiên nhĩ:
1. Thiên nhĩ là lỗ tai vượt hơn tai người thường, nghe
được âm thanh các cõi khác.
2. Tu tập thiên nhĩ cách nào?
21. Nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, theo lỗ tai thịt lắng
nghe tiếng xa, gần, biết rõ xa, gần;
22. Khởi lên thanh tướng tế nhị lần lượt nghe bốn phương, tập
khởi lên nhĩ giới thanh tịnh;
23. Dùng nhĩ giới thanh tịnh nghe
được hai thứ tiếng: nhơn thanh và thiên thanh.
3. Công đức của thiên nhĩ.
C. Tha tâm thông:
1. Tha tâm trí: Khả năng biết được
tâm tưởng kẻ khác.
2. Tu tâp tha tâm thông cách nào?
21. Tu tập Nhứt thiết nhập Quang (= Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền
và xuất ra an tường, khiến ánh sáng tràn ngập khắp thân tâm, mở
thiên nhãn nhìn thấy sắc của tâm mình, và các sắc của
mọi tâm hành thay đổi khác màu
nhau;
22. Nhận thấy sự khác màu của tâm biến chuyển theo khi mừng, vui,
giận, ghét, ái dục, v.v.
23. Màu kem khi tâm vui, màu vàng khi tâm xả, màu
đen khi tâm giận, màu
đục ngầu khi vô minh
24. Dùng thiên nhãn nhìn màu sắc nơi tâm kẻ khác mà biết
được các tâm hành tương ưng.
3. Công đức của Tha tâm thông.
D. Túc mạng thông:
1. Túc mạng thông: khả năng nhớ
biết được kiếp trước
2. Tu tập Túc mạng thông như thế nào?
21. Tu tập hai Nhứt thiết nhập, nhập và xuất Tứ Thiền, thì có thể
khởi lên túc mạng thông.
22. Tu tập bốn như ý túc
được tự tại, rồi dùng tâm thanh tịnh nhớ lại lần lượt các
việc trong ngày, hai ngày..., một tuần, một tháng, một năm...
lần lần cho đến lúc mới sanh;
23. Tâm và tâm sở hiện sanh liền tương ứng với tâm và tâm sở
tiền kiếp, rồi dùng quán nhân duyên nhớ ngược lại thức lưu chuyển,
để biết sanh ra tại nơi nầy, ở nơi
kia,...
24. Tiếp tục tu như thế như lau chùi tấm gương tâm,
đến lúc đắc được tự tại.
3. Công đức của Túc mạng thông.
E. Thiên nhãn:
1. Thiên nhãn: khả năng nhìn
xa vào các cõi khác, vượt hơn mắt thịt.
2. Tu tập Thiên nhãn cách nào?
21. Tu tập bốn như ý túc đã
được tự tại, tu Nhứt thiết nhập Quang
(Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, khởi tác ý
về Quang tưởng và Nhựt tưởng (ý tưởng về ngày), tu tập sao cho Tâm
tràn đầy Ánh sáng,..
22. Dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy sự sanh tử của chúng
sanh nơi nầy, nơi khác, do theo nghiệp
đã tạo trước kia.
23. Muốn khởi thiên nhãn, trước phải tận diệt hết tất cả phiền não,
và khởi tinh tấn vừa phải để vào
chánh định.
3. Công đức của Thiên nhãn.
III. Kết luận: Năm loại
Thần Thông kể trên thuộc về Thần Thông ở thế gian, ở cõi sắc giới
còn lậu hoặc.
078. Tìm hiểu nghiã các chữ khó trong Phẩm 9:
Thần Thông = các khả năng của Thân tâm
vượt hơn người thường, như thiên nhãn, thiên nhĩ, túc mạng
thông, tha tâm thông, biến hoá. Luận văn
giải thích rất rõ các loại Thần Thông nầy.
Hoá thân: Hoá = biến hoá, Thân = thân thể. Ngoài tấm
thân hiện có, người có Thần Thông có thể biến hoá thêm nhiều thân hình
khác, ở các nơi khác, cũng cử động, nói năng
như người thường, nhưng chẳng có mạng sống.
Minh thuật biến: Minh = sáng, khéo; Thuật = phương
cách, cách thức, mánh khoé. Ở đây, chữ
Minh thuật chỉ đến các bùa chú,
các phương tiện siêu phàm.
Như ý túc: Như ý = được như ý
muốn, hễ tâm khởi lên ý muốn, là được
ngay điều mình muốn. Túc = đủ,
đầy đủ.
Bốn như ý túc được Luận văn kể rõ,
xin xem lại. Tu tập bốn như ý túc bằng cách tập luyện
đầy đủ bốn chánh cần (tức là
chánh tịnh tấn).
Dục định: Dục = muốn;
định = tình trạng
đang nhập đînh, chẳng xao động, lắng yên.
Ở đây, chữ dục
định chẳng có nghiã xấu, dục
chỉ chỉ vào ý định, chẳng có nghiã
là ham mê như chữ tham dục.
Khinh tưởng: Khinh = nhẹ nhàng; Tưởng = ý tưởng. Khởi
lên khinh tưởng là trong tâm khởi lên ý muốn có
được thân hình nhẹ nhàng. Quên
được ý niệm sức nặng cơ thể đi.
Tầm: Xem lại trang 415, Phẩm 8; đơn vị
đo chiều dài.
Tiệm tiến: Tiệm = từ từ, theo thứ lớp; Tiến =
đi tới. Phương tiện tiệm tiến
là cách bước tới từ từ, tu tập qua mọi giai
đoạn, chẳng vượt bỏ giai đoạn nào.
Chỉ pháp: Chỉ = ngưng lại, đình
chỉ; Pháp = phép. Chỉ pháp là phép
đình chỉ lại, ngưng lại, chẳng tiến
tới nữa.
Bộ hành = đi bộ, đi bằng chơn
Tâm hành: Ở đây, trang 218 Luận văn,
tâm hành có nghiã là đi bằng
tâm, tức là khởi lên Khinh tưởng, khiến thân trở nên nhẹ
nhàng mà bay đi.
Phong hành; Phong = gió; Hành =
đi. Phong hành là nương theo
gió mà di chuyển.
A-tu-la: phiên âm chữ Pàli Asura, bực thần linh, có nhiều
thần thông, tánh hay nóng giận, thường gây chiến với các bực Trời.
Ái dục: Ái = thương yêu, Dục = ham muốn. Ái dục
có thêm ý đam mê trong sự thương yêu.
Túc mạng: Túc = đã qua;
Mạng = đời sống; Túc mạng
là cuộc đời, đời sống trong kiếp trước.
Tiền kiếp: Tiền = trước kia; Kiếp =
đời sống; chữ Kiếp phiên âm chữ
Kappa, cuộc sống kéo dài nhiều triệu năm.
Còn gọi là Đại kiếp, Trung Kiếp
và Tiểu Kiếp. Một tiểu kiếp tính ra hơn 16 triệu năm;
một trung kiếp bằng hai mươi tiểu kiếp, và một
đại kiếp bằng bốn trung kiếp.
Sơ sanh: Sơ = ban sơ, lúc khởi
đầu; Sanh = ra chào đời.
Sơ sanh trái nghiã với hiện sanh,
đang sống; Vị sanh là chưa
sanh, sẽ sanh vào thời vị lai.
Tam-muội: Chánh định; phiên âm
chữ Pàli Samàpatti.
Quang tưởng: Quang = ánh sáng; Tưởng = ý tưởng.
079. Nhận xét về Phẩm 9: Năm Thần
Thông.
Nơi Phẩm 9 nầy, Luận văn chỉ cách tu tập
các khả năng siêu phàm, gọi là năm
thần thông, thân thể biến hiện thành nhiều thân khác, tai có
thể nghe cả âm thanh nơi cõi sắc giới, biết
được đời sống thuộc về các kiếp trước, mắt có thể nhìn thấy xa ngàn
dặm, v.v. Ngày nay, nơi các bực tu hành, ta chẳng thấy việc thi triển các
thần thông, như trong Kinh sách có nhắc lại việc Ngài Xá-lợi-phất, Ngài
Mục-kiền-liên thực hành thần thông vào thời
Đức Phật còn tại thế. Đó là vì
việc thi triển thần thông chẳng phải là việc thông thường
được thấy luôn; nhưng chẳng vì thế, mà
quả quyết thật sự chẳng có các thần thông. Tại sao? Vì
đối với một việc ta chưa từng thấy, ta chẳng
thể nào quyết đoán việc đó chẳng có
thật được; thái độ dè dặt, chờ khi thấy mới tin là
đúng, nhưng chẳng nên cố bảo rằng
đó là không. Như tiếng nói, âm thanh
theo làn sóng điện vang khắp hoàn cầu,
ta chẳng thấy bằng mắt thịt, chẳng nghe bằng tai phàm, nhưng vẫn là
điều có thật.
Nhưng đối với những hành giả còn sơ
cơ, chẳng nên vì mê thích, vì thán phục các Thần Thông mà
để cho các bọn buôn Thần bán Thánh, nhan nhản
ngày nay, lừa gạt mình. Vả lại, khi
đọc qua Luận văn, ta thấy rõ việc tu tập các Thần Thông,
đều bắt đầu ngay trên sự việc thực tế
hằng ngày trước. Thí dụ như thiên nhãn thông khởi
đầu bằng nhìn các màu sắc thanh tịnh,
như thiên nhĩ thông bắt đầu tu tập
nghe chính các âm thanh thông thường từ gần đến xa, túc mạng
thông khởi công nhớ lại các việc hằng ngày trong một ngày, hai ngày
rồi lâu đến cả tuần, cả tháng trước.
Như thế, chẳng có chi là quá siêu phàm, hay mầu nhiệm, chỉ tùy theo
định lực có thâm hậu hay không
mới có thể tu tập từ từ đắc các thắng pháp
đó. Xét cho cùng, nếu còn chưa đắc
được Thần Thông, thì cũng nên xét kỹ lại
định lực của chính mình, chớ
đừng nôn nóng nghe theo lời dạy vu vơ của bàng
môn tả đạo mà phải lâm vào những căn
bịnh Thiền khó chữa trị.
Những công dụng của các Thần Thông, như nhìn thấy xa muôn dặm,
nghe tiếng cách ngàn trùng, nhớ các khoảng
đời trước, biết được tâm trạng của kẻ khác, du hành lên Không gian,
sự tiến bộ ngày nay của Khoa học đã
lần lượt đạt được nhiều kết quả rất ngoạn
mục, nào có thua chi các Thần Thông. Các phương tiện truyền thông
tối tân, các viễn vọng kính, các phi thuyền không gian lần lượt
đưa con người rời khỏi cuộc sống dính chặt vào
quả đất nầy. Các sự khám phá về Vô
thức trong khoa Phân tâm học cũng lần lần trình bày các chứng cớ của
đời sống trước cuộc sống
hiện tại.
Bấy nhiêu lý do đó cũng đủ khiến cho ta
chớ quá mong cầu đắc được Thần
Thông, mà hãy cứ nhìn đến
mục tiêu chánh yếu của việc tu tập là:
- giải thoát khỏi các phiền não,
để cho thân tâm được tự tại, trong cảnh an
lạc.
-ooOoo-