PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm hiểu
Phẩm 12: Phân biệt
Đế.
Chi 1: Phân biệt trí,
Khởi Diệt trí, Quán Diệt
trí.
Chuyển tiếp: Trong Phẩm 11, Chi 2: Thánh
đế Phương tiện, Luận văn
trình bày nội dung của Bốn Chơn Lý Nhiệm mầu: Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế và
Đạo đế.
Nơi Phẩm 12 nầy, Luận văn chỉ cách vận
dụng Trí huệ để nhìn thấy rõ ràng và thực hành theo lời dạy trong
Tứ đế. Riêng trong Chi 1, Luận văn
phân tách Trí huệ ra: Phân biệt trí, Khởi Diệt trí và
Quán Diệt trí, là các giai đoạn của Trí
Huệ lần lượt trải qua khi học tập về Bốn Chơn lý Nhiệm mầu.
089. Dàn bài chi tiết của Chi 1, Phẩm 12:
I. Nhập đề: Người
toạ thiền sau khi đã hiểu rõ năm
phương tiện: ấm, nhập, giới, nhân duyên và bốn thánh
đế, còn phải làm sao cho Trí huệ
Bát-nhã khởi lên để nhìn thấy rõ
ràng bằng huệ nhãn, sự sanh khởi, sự tồn tại và sự tiêu diệt của năm
thọ ấm. Phẩm 12 nầy nói rõ sự phân biệt các
Đế, bằng con mắt của Trí huệ.
II. Thân bài: Chi 1 lần lượt xét qua các Trí sau
đây: (1) Phân biệt tri, (2)
Khởi Diệt trí, và (3) Quán Diệt trí.
A. Phân biệt trí: khởi lên qua ba
điạ hạt sau đây:
(1) Danh-Sắc (= chư hành) và toàn bộ Khổ ấm;
(2) ba đặc tướng: vô
thường, khổ, vô ngã
(3) bagiải thoát môn: vô tướng, vô nguyện, không.
1. Điạ hạt thứ Nhứt: Danh-Sắc
11. Thế nào là Năm thọ ấm
qui về Danh-Sắc?
12. Sự khác biệt giữa Danh và Sắc.
13. Nơi Khổ đế, phải
thấy rõ:
- chỉ có Danh và Sắc (= chư hành) thôi
- chẳng có một chúng sanh nào cả,
- cũng chẳng có thọ mạng nào.
14. Nơi Tập đế, phải
thấy rõ:
- khi nào khổ ấm khởi lên
- và do các nhân duyên nào?
15. Nơi Diệt đế, phải
thấy rõ:
- khi nào khổ ấm diệt đi
- và do các nhân duyên nào?
16. Nơi Đạo đế, phải
thấy rõ:
- con đường nào
đầy đủ để tận diệt
các nguyên nhân đã làm khởi lên
khổ ấm.
2. Điạ hạt thứ Hai: Vô thường, Khổ, Vô
ngã.
21. Nơi năm ấm: sắc, thọ, tưỏng, hành,
thức, Danh-Sắc khởi lên, biến chuyển và diệt
22. Danh-Sắc đó biến chuyển mãi:
vô thường
23. Khổ ấm theo đó khởi lên
tương tục: khổ;
24. Danh-Sắc đó do nhân duyên
mà khởi lên, vì chẳng có tự tánh, chẳng thật: vô ngã.
3. Điạ hạt thứ Bat:
Vô tướng, Vô nguyện, Không
31. Danh-Sắc chẳng hiện hữu, trước khi khởi và cũng chẳng
tồn tại, sau khi diệt; nên an trú tâm vào cảnh giới
Vô tướng;
32. Danh-Sắc gây lo sợ vì cầu chẳng
được, nên an trú tâm vào cảnh
giới Vô nguyện;
33. Danh-Sắc chẳng tự tánh, do duyên sanh, nên an trú tâm vào cảnh
giới Không.
B. Khởi Diệt trí: Trí huệ nhận thấy rõ chư hành thể hiện
qua ba đặc tướng: vô thường, khổ
và vô ngã, bằng huệ nhãn.
1. Ba cách nắm giữ tướng của ba
đặc tướng:
11. Nhận rõ tướng chấp thủ vào phiền não;
12. Nắm giữ lấy tướng định;
13. Nắm giữ lấy tướng huệ.
2. Phân biệt tướng năm ấm
với tướng của tâm:
21. Các tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức
22. Tướng của tâm khởi lên khi:
- tiếp xúc với đối tượng
của năm ấm;
- tác ý chăm chú vào
mỗi ấm;
3. Thông đạt sự SANH khởi của
các đặc tướng "vô thường", "khổ", "vô ngã"
đó
bằng Huệ nhãn, theo ba cách:
31. do NHÂN: ái, vô minh và nghiệp,mà các
đặc tướng đó khởi sanh lên;
32. do DUYÊN: thực phẩm và xúc chạm, mà các
đặc tướng đó khởi sanh lên
33. do TƯ TÁNH tự đổi mới
chẳng ngừng, mà các đặc tướng
đó khởi sanh lên.
4. Thông đạt sự biến DIÊT các
đặc tướng đó bằng Huệ nhãn,
cũng theo ba cách:
41.do ba nhân, ái, vô minh, nghiệp diệt, mà các
đặc tướng đó biến diệt theo;
42.do hai duyên, thực phẩm, xúc chạm diệt mà các
đặc tướng đó biến diệt theo.
43.do nơi tự tánh tương tục cho
đến lúc diệt mà các
đặc tướng đó tàn diệt theo.
5. Ích lợi của sự thông đạt
được tướng Sanh và
tướng Diệt:
51. Thông đạt tướng Sanh,
thấy được Khổ
đế
52. Thông đạt tướng
Diệt, thấy được Diệt
đế
53. Thấy được điều
chưa từng thấy; các nỗi Khổ
được thấy ra đến tận bờ ranh (như thí dụ về con chim bay
thoát vòng lửa đang nhìn thấy lửa
tràn lan bên dưới);
54. Do thấy tướng khởi của Nhân duyên, mà thông
đạt được mối tương quan
giữa sự hiện hữu và sự khởi thành: cái nầy khởi, nên
khiến cái kia cùng khởi theo
55. Do thấy tướng diệt của Nhân duyên, mà thông
đạt được mối tương quan
giữa sự tận diệt và sự vô sanh: cái nầy
đã diệt, nên khiến cái cùng diệt
theo.
56. Như thế, nhờ Huệ nhãn thông đạt
được Khổ đế và Diệt
đế, mà hành giả chứng
được tướng vô sanh.
57. Đoạn trừ được các tà
kiến:
- bỏ thường kiến, đoạn kiến,
chứng được vô
thường kiến;
- bỏ lạc tưởng, chứng được
khổ tưởng
- bỏ ngã kiến, chứng được
vô ngã kiến.
58.Tạm kết: Khởi Diệt trí tức là Phân biệt trí thông
đạt được chư hành từ lúc
Khởi sanh cho đến lúc tận
Diệt.
C. Quán Diệt trí: Trí huệ quán sát sự tàn diệt của chư
hành (trong năm ấm) và
phân biệt rõ ràng sự sanh diệt của Tâm.
1. Quán đối tượng của sắc,
thọ, tưởng, hành và thức.
2. Quán sự sanh khởi và tàn diệt của các tâm sở
đang quán sát đối tượng của mỗi ấm;
3. Do ba cách mà huệ nhãn nhìn thấy sự diệt của Tâm và
các tâm sở:
31. Do kết tụ: quán sắc (và bốn ấm kia) là vô
thường, khổ, và vô ngã, mà thấy được sự
kết tụ khiến các tâm sở liên hệ biến diệt theo
các đối tượng đang được quán tưởng;
32. Do song hành:
- Theo sắc là vô thường, quán về vô thường, mà
thấy được tâm và tâm sở
khi sanh, khi diệt, cũng vô thường.
- Vẫn theo cách nầy mà quán tiếp về khổ, vô ngã, thấy
được tâm, tâm sở biến
diệt
33. Do phân biệt: khi quán ba
đặc tướng, thì nhận thấy tâm, tâm sở biến diệt,
rồi lấy chính cái thấy của tâm đó để nhìn
rõ vào chính cái thấy đó hiện đang diệt
đi.
4. Phân tách Bài Kệ nói về sự liên hệ giữa: Danh và
Sắc, Thân và Tâm đều
vô thường:
41. Cặp đôi Danh-Sắc
liên hệ nhau như tiếng trống và cái dùi
đánh trống.
42. Các pháp Danh-Sắc đó do
nhân duyên sanh khởi, rồi do nhân duyên mà biến diệt
43. Chúng tồn tại được cũng tùy
thuộc vào các pháp khác, lại sanh thêm pháp hữu lậu.
44. Thân nầy cũng thế, yếu ớt, luôn tùy thuộc vào chư hành,
chẳng biết được từ đâu đến, cũng chẳng rõ
được sẽ đi về đâu.
45. Tâm nầy vô ngã, ràng buộc với khổ, lạc; chẳng có
trong quá khứ, chẳng hiện ở vị lai: ''hiện trú
đây chỉ toàn là các ấm."
46. Muôn pháp như Hư-không, chỉ phút chốc hiện lên
rồi diệt mất tựa như điện chớp.
5. Nếu huệ nhãn thấy được sự
diệt vô tận như thế trong sát-na, trí quang minh khởi lên.
6. Lúc đó, nếu chưa rõ
được pháp Thiền, tâm sẽ tán loạn
hoặc sanh kiêu mạn.
61. Nếu biết pháp Thiền, sẽ được
khinh an và điều nhiếp được
loạn tâm.
62. Vì tướng sáng khởi, tưởng
đâu đã chứng dắc, nên sanh kiêu mạn. Nếu biết rằng
Niết-bàn là pháp xuất thế gian thì khởi tinh tấn diệt tâm kiêu
mạn mà tu tịch diệt
III. Kết Luận: Luận văn chưa có
phần Kết luận ở Chi 1, đợi khi giảng xong Chi 2 mới tổng kết. Tuy nhiên,
có thể tạm kết Chi 1 nầy như sau:
Trí Huệ Bát-nhã khởi lên khi thông
đạt rõ Bốn Thánh đế, nhứt là
Khổ đế và Diệt
đế.
Phân biệt trí khởi đầu, đưa đến
Khởi Diệt trí và Quán Diệt trí nhờ
đó mà Huệ nhãn nhìn thấy rõ cảnh
giới tịch diệt, và tướng vô sanh của pháp Niết-bàn.
090. Tìm hiểu nghiã chữ khó trong Chi 1, P. 12:
Phân biệt trí: Phân = chia ra, lựa ra; Biệt = riêng
rẻ. Trí Phân biệt là khả năng của Trí
huệ biết lựa chọn chẳng lẫn lộn, mỗi thứ riêng biệt ra, trong chỗ
còn chưa có thứ tự. Thí dụ như thấy có hai người giống nhau, biết nhận ra
người nào tên gì, đó là khả năng
của Trí Phân biệt.
Khởi Diệt trí: Khởi = khởi lên, sanh ra, có mặt ở
đó; Diệt = tiêu mất, chẳng còn
hiện hữu nữa, vắng bóng luôn luôn; Khởi Diệt trí là khả năng
của Trí huệ biết nhận thấy rõ hai sự kiện: (1) Khởi, sự khởi
sanh lên của sự vật; (2) Diệt, sự tận diệt của sự việc ấy. Khởi
Diệt trí như thế nhìn thấy rõ sự việc: từ lúc khởi
đầu, mãi cho
đến lúc tận diệt. Thí dụ như
nhìn thấy sự giận dữ nổi lên ở tâm một người rồi lần lần nguôi giận,
đó là khả năng
quán sát của Trí Khởi Diệt, tức là cái Trí quán sát sự
Khởi và sự Diệt của muôn sự vật.
Quán Diệt trí: Quán = quan sát trong tâm; Diệt = sự
tiêu diệt, sự mất hết đi; Quán Diệt
trí là khả năng quán sát của Trí Huệ nhìn
thấy rõ ràng sự tận diệt của sự việc. Như thế, so với Khởi Diệt trí
bên trên, thì Quán Diệt trí có khả năng
hẹp hơn Khởi Diệt trí, vì trí sau nầy quán sát
được hai sự việc: khởi sanh và tiêu
diệt; trong khi Quán Diệt trí chỉ quán sát có một sự việc: sự
tận Diệt mà thôi. Tuy nhiên, khả năng
quán sát của Quán Diệt trí tuy hẹp nhưng mà thâm sâu hơn Trí
Khởi Diệt. Tại sao? Vì Quán Diệt trí chẳng những nhìn thấy sự
Diệt rõ ràng, mà còn nhận thức được cả
các nguyên nhân xa, gần đã gây
nên sự tận diệt nữa, cùng cảnh giới yên vắng nầy.
Vô thủy = Vô thỉ: Vô = chẳng có, Thủy, Thỉ = buổi
đầu, lúc mới bắt đầu. Kinh sách thường nói
"Từ vô thuỷ đến nay", có
nghiã là từ lúc xa xưa, thật là xưa, chẳng thể biết
được lúc nào là lúc khởi
đầu.
Sát-na: Xem lại trang 536, Ph. 11
Mâu kích: Mâu = một thứ binh khí thời xưa, cán dài, mũi
nhọn, dùng để đâm; Kích = một
thứ binh khí thời xưa, cán cũng dài, mũi nhọn có móc, cũng dùng
để đâm. Luận văn có nói "Thí dụ về
ba trăm mâu kích" trong một bản
Kinh, tôi còn chưa tìm thấy xuất xứ, có lẽ đó
chỉ sự nguy hiểm đang phải đối đầu vì
đang gặp nhiều binh khí chực giết chết.
Tương ưng: Tương = gần gũi; Ưng= Ứng = hiện lên
đúng theo, hợp với. Tương ưng
là phù hợp với. Câu "ý tưởng tương ưng theo tự tướng", có nghiã là
hình tướng như thế nào thì phải có ý tưởng về hình tướng
đó cho thật đúng, thật giống.
Xem lại trang 369, Phẩm 6.
Tự tướng: Tự = riêng cho mình; Tướng = hình tướng.
Tự tướng là tướng đặc biệt của một sự
vật. Trái nghiã với chữ tự tánh, là
đặc tánh riêng tánh chất riêng biệt.
Di chuyển: Di = dời đi chỗ
khác; Chuyển = động, thay đổi.
Di chuyển là rời đi chỗ khác,
có sự động đậy tiến tới.
Kết tụ: Kết = gom lại và buộc lại chung với nhau; Tụ =
họp lại. Kết tụ là hội nhau lại thành một nhóm; trái nghiã với
chữ phân tán, rời nhau ra, rã rời.
Tri kiến thanh tịnh như thật: Tri = biết; Kiến =
thấy; Thanh = trong; Tịnh = sạch; Như = như thế;
Thật = sự thật. Tri kiến thanh tịnh như thật có nghiã là sự
hiểu biết trong sạch đúng như sự thật.
Mô tả = miêu tả, tả hình dáng.
Toạ thiền: Toạ = ngồi; Toạ thiền là ngồi thiền.
Khổ ấm: Khổ = sự đau khổ;
ấm = sự tập hợp chung lại thành nhóm. Kinh sách dùng chữ
Khổ ấm để chỉ toàn thể các nỗi khổ
nói chung.
Thức thân: Thức = biết, hay biết; Thân = thân thể. Có
lẽ chữ Thức thân nói đến các sự hay
biết của thân, thường gọi là thân thức chăng?
Nơi trang 278, Luận văn viết sáu thức thân, có lẽ muốn nói
các cảm giác, tri giác về các giác quan ở trên thân.
Tư thân: Tư = suy nghĩ, tư duy; Thân = thân thể; Có
thể hiểu hai cách: (1) suy nghĩ về thân tâm; (2) sự suy nghĩ nơi thân tâm.
Ái thân: Ái = thương, thích; Thân = thân thể; Ái
thân là sự quá mê thích, tríu mến tấm thân.
Giác thân: Giác = hay biết, biết rõ; Thân = thân thể;
Giác thân có thể là (1) sự hay biết liên quan
đến thân tâm, (2) hay là chính thân
tâm đó đang hay biết.
Thăng trầm: Thăng
= lên cao; Trầm = chìm xuống thấp. Thăng
trầm là sự lên xuống, lúc cao lúc thấp.
Bất động: Bất = chẳng,
chẳng phải, chẳng có; Động =
lay động, biến động; Bất
động là chẳng lay
động, giữ im lìm.
Lạc tưởng: Lạc = vui; Tưởng = ý tưởng; Lạc tưởng
là có ý vui, vừa ý. Ở đây, trang 279,
Luận văn nói đến lạc tưởng là muốn nói rằng có ý vui trước
một sự việc đáng lẽ phải có tư tưởng buồn
khổ. Lạc tưởng trái nghiã với khổ tưởng.
Vô tướng: Vô = chẳng có; Tướng = hình tướng. Chữ
vô tướng dùng để chỉ tình trạng
các sự vật vô vi, chẳng do sự tạo dựng mà nên, vì thế chẳng có hình
tướng. Giữ tâm an trú trong cảnh giới vô tướng, có nghiã là,
tâm vắng vẻ, thanh tịnh, chẳng bị vướng bận vì hình tuớng, chẳng vì
sự đổi thay hình dạng của các sự vật
cụ thể, hữu vi, do sự tạo tác mà nên.
Nói cách khác, tình trạng vô tướng tương
đương với Không giới, nơi trống
rỗng, vắng lặng, chẳng chứa đựng gì.
Xem lại chữ Vô tướng, trang 338, Ph.2
Vô nguyện: Vô = chẳng có; Nguyện = lời cầu nguyện, sự
mong muốn, ao ước. Vô nguyện là giữ tâm chẳng mong cầu
điều gì cả, tức là tâm bình thản, thơ
thới, chẳng bận rộn vì lòng ham muốn. ước mong
điều chi. Tại sao lại thế? Vì biết
rằng, nếu mong cầu mà chẳng được thoả mãn,
thì lại sanh ra đau khổ, thế cho nên
tốt hơn hết là chẳng mong cầu gì cả; đó là
vô nguyện.
Ba đặc tướng:
Đặc = riêng biệt, khác biệt,
đặc thù; Tướng = hình tướng.
Kinh sách giáo lý Nam tông dùng từ ngữ ba
đặc tướng để chỉ ba
tướng: vô thường, khổ và vô ngã.
Đây là ba đặc tánh của
tất cả các sự vật hữu vi, có nghiã là các sự vật cụ thể, do sự tạo
tác mà thành, đều mang ba tánh
cách: (1) vô thường (biến đổi theo
điều kiện, nhân duyên), (2) khổ (gây ra sự bất như ý làm cho
phải đau khổ) và (3) vô ngã
(chẳng tự mình mà hiện hữu được, do nhiều sự
việc khác kết tụ lại mà thành nên chẳng có một tự ngã thật sự và
riêng biẹt).
Con thiêu thân: một loại côn trùng có cánh, bay gần ánh
đèn, rồi nhào vào ngọn lửa mà chết.
Quản tượng: Quản = cai quản, coi sóc, chăn;
Tượng = con voi. Người quản tượng chăn
voi, dùng cây móc sắt, đánh voi, để
dạy nó.
Móc câu = móc sắt nhọn tựa như lưỡi câu.
Huệ nhãn: Huệ = trí huệ; Nhãn = con mắt; Huệ nhãn
là con mắt của Trí huệ, dùng theo nghiã bóng, tức là tâm nhìn
vào muôn sự vật thấy ra được tánh cách
vô thường, vô ngã và khổ; lại nữa Huệ nhãn chẳng phải có con mắt
thịt nào có thêm nữa, đó chỉ là khả năng
chiếu sáng của Trí huệ nhìn thấu được
bản thể rỗng rang của muôn vật.
Vô sanh: Vô = chẳng; Sanh = sống, sanh ra, tái sanh.
Vô sanh có nghiã là chẳng khởi sanh lên, chẳng phải tái sanh trong
cảnh Luân hồi, nhưng chẳng có nghiã là chết, vì người chứng
được vô sanh thoát vòng sanh
tử; chẳng có sanh lại nữa làm sao mà phải chết
đi. Ý muốn nói được tự tại, cứ như thế mãi
mãi, chẳng bị tiêu diệt, sống trong cảnh tịch diệt Niết-bàn.
Thượng trí: Thượng = trên. Trí = trí huệ. Thượng
trí là trí cao; tức là cũng trí huệ sẵn có
đấy nhưng nay chiếu sáng lên nên cao
hơn trí thông thường.
Thấy đến tận bờ ranh =
Đây là lời nói bóng bảy, nói
đến sức nhìn thấy thật xa, xa
đến tận bờ biên giới, tức là nhìn thấy
sự vật đến tận bản thể thâm sâu bên
trong, đến tận các nguồn gốc xa xôi bên
ngoài.
Pháp vô sự: Pháp = phép, định
luật; Vô = chẳng có; Sự = sự việc, công việc. Pháp
vô sự là định luật thiên nhiên
theo đó chẳng có sự vật hữu vi nào mà
chẳng do nhân duyên khởi sanh, rồi tồn tại và sau
đó biến diệt. Chỗ vô sự là chỗ
bảo rằng chẳng có nhân duyên làm khởi sanh và biến diệt, tức là cho rằng
tự nhiên, vô sự, mà thành khởi, mà tiêu diệt. Phải có nhân duyên, chớ
chẳng phải vô sự, ngẫu nhiên mà nên được. Chỉ
có những pháp vô vi, chẳng do nhân duyên mà tạo tác nên, tồn
tại và biến diệt đi, vì pháp vô vi
vốn có tự tánh thường hằng, chẳng biến diệt;
đó là pháp Niết-bàn.
Pháp chỉ trú: Pháp = định luật
thiên nhiên; Chỉ = ngừng, chẳng chuyển
động nữa; Trú = ở yên. Pháp
Chỉ trú là nói về các sự vật tồn tại một thời gian dài, chưa biến
dịch.
Chủng chủng chấp: Chủng chủng = các loại; Chấp = sự
cố chấp, sự nắm giữ khư khư, mặc dầu biết nắm chặt như như thế là sai lầm,
nhưng chẳng chịu buông ra cho lơi lỏng. Chủng chủng chấp là sự cố
chấp cho rằng muôn vật khác nhau về chủng loại, chẳng có
điểm nào giống nhau về hình dáng, hay
về bản thể. Như thế là tin sai, là nghĩ lầm. Tại sao vậy? Vì muôn sự vật
tuy hình dáng, tự tánh có khác nhau, nhưng bản thể thì do nhân duyên mà
sanh ra. Chối bỏ điểm tương đồng về bản thể
đó giữa muôn vật là chủng chủng chấp.
Nhứt chấp: Nhứt = một; Chấp = chấp thủ, cố chấp, nắm
giữ mãi khư khư, cho rằng chỉ có ý của mình về
điều nào
đó là đúng mà thôi. Sự chấp
nhứt là sự quả quyết rằng muôn sự vật đều
giống nhau như một vậy. Cái chấp nầy trái ngược với
cái chủng chủng chấp ở trên.
Sự thật là ở đâu? Chẳng còn sự
chấp nữa, cho dầu là chấp một, cho dầu là chấp khác
loại, vì chính sự cố chấp mới là sai lầm, thái
độ nầy đóng chặt cửa Chơn lý, khép chặt trí
óc lại, chẳng mở ra đón tiếp các ý kiến mới mẻ, đúng đắn hơn.
Sở tác: Sở = chỗ, nơi; Tác = làm, làm việc; Sở tác
là những gì đã làm, những chỗ
đã tạo ra.
Vô tri: Vô = chẳng có; Tri = hiểu biết; Vô tri
là chẳng hiểu biết, bị mê mờ. Vô tri
đồng nghiã với Vô minh.
Chư Hành: Chư = tất cả, những; Hành = ở
đây, trong đoạn nầy của Luận văn, các trang
284 và kế tiếp, chẳng có nghiã là hành ấm, mà chỉ sự tập
hợp, kết thành của một thực thể, như thế chữ chư hành
đồng nghiã với chữ muôn pháp, muôn
sự vật, tất cả những sự vật cụ thể, được
tạo nên trong võ trụ, đồng thời cũng
bao gồm các tâm sở cùng các ý tưởng, tình cảm v.v. Chưa từng
thấy có danh từ nào có nghiã rộng rãi và bao quát như chữ chư hành.
(Trong khi đó chữ hành ấm chỉ
chỉ vào các hành động của thân, khẩu, ý và
các tâm hành thôi).
Song hành: Song = hai, một cặp, một
đôi; Hành =
đi. Song hành là
đi song song, cùng tiến tới chung với
nhau, nương tựa vào nhau mà tiến tới.
Oai nghi = uy nghi: Trong Kinh sách chữ oai nghi, uy nghi
dùng như một danh từ thì chỉ bốn tư thế của thân thể:
đi, đứng, nằm, ngồi; bốn tư thế đó phải tề
chỉnh, nghiêm trang, nên gọi là oai nghi, hay bốn uy
nghi. Uy nghi dùng như một tĩnh từ, chỉ sự trang nghiêm,
đứng đắn trong tư cách.
Ban sơ = lúc ban đầu; lúc mới khởi sự.
Kiệt quệ = khô héo, tàn tạ.
Lắt lẻo = yếu ớt, lung lay, chẳng đúng
vững được.
Chuyển độ: Chuyển = dời,
di chuyển; Độ = đưa sang sông.
Chuyển độ có nghiã là tiến tới,
thay đổi tốt.
Ảo ảnh thành càn thát: Ảo ảnh = hình ảnh giả, do mắt nhìn
lầm; thí dụ ban đêm thấy bóng
đen động đậy cho là ma nhát. Thành
càn-thát-bà là từ ngữ trong Phật học để
chỉ một ảo ảnh: nhìn về phía chơn trời, thấy như có một dãy thành,
cho đó là thành lũy của
Càn-thát-bà. Càn-thát-bà là loại chúng sanh ở cõi Trời, phụ trách
thiên nhạc, còn gọi là nhạc thần, phiên âm từ chữ Pàli là
Gandhabba.
Dị biệt: Dị = khác thường, kỳ dị; Biệt = riêng.
Chỗ dị biệt có nghiã là các điểm
khác nhau.
Vô tâm: Vô = chẳng có; tâm = lòng. Chữ vô tâm
có nghiã là chẳng có sự chú ý, cũng như nói cái tâm
đi vắng, theo nghiã bóng bảy. Cùng
nghiã nhau vô tâm = không tâm.
Vô tận: Vô = chẳng có; Tận = tận cùng, chỗ cuối cùng.
Vô tận có nghiã là chẳng bao giờ tận cùng, kéo dài mãi mãi.
091. Suy gẫm về Trí Huệ Bát-nhã nói trong Chi 1
1) Nhắc lại cách học tập về bốn Thánh
đế:
Như đã biết, chỉ khi nào
đã thông hiểu rõ ràng về Bốn Chơn lý
Nhiệm mầu mới đáng gọi là người có
đủ Trí Huệ Bát-nhã. Nhờ có Trí
huệ nầy mà hành giả:
11. hiểu rõ ràng các nỗi khổ, nơi Khổ
đế;
12. trừ bỏ sự tham ái bám níu, nơi Tập
đế;
13. chứng đắc sự an
tịch, nơi Diệt đế;
14. tu tập theo con đường
giải thoát, nơi Đạo đế.
2) Trí Huệ Bát-nhã khởi đầu
bằng khả năng phân biệt, gọi là Phân biệt tri và tiếp
tục quán sát Khổ ấm với Khởi Diệt trí và Quán Diệt trí.
Như đã biết,
định nghiã của Trí huệ, là
khả năng lựa chọn giữa điều thiện và
điều ác. Sự phân biệt rõ ràng
đó là công năng
của Phân biệt trí, giúp ta thấy
được bằng huệ nhãn: (1) sự khởi sanh, sự tiêu diệt của toàn
bộ Khổ ấm, nơi Khổ đế; (2) kế
đến là các nguồn gốc thâm sâu
đã khiến cho Khổ ấm khởi lên, nơi
Tập đế; (3) sau
đó là tình trạng tịch diệt của Khổ ấm
đã bị tận trừ, nơi Diệt
đế; và (4) chót là con
đường đầy đủ đưa đến sự giải thoát khỏi toàn
bộ Khổ ấm, nơi Đạo đế.
Khả năng phân biệt
đó của Trí Huệ Bát-nhã, ứng dụng vào
việc học tập Tứ Thánh đế, được Phân
biệt trí hỗ trợ; đây chẳng phải là
một thứ trí huệ nào riêng biệt, mà chính là một khả năng,
trong vô số các khả năng của Trí Huệ Bát-nhã, giúp ta nhìn thấy
thấy rõ ràng, đúng như thật,
bằng huệ nhãn:
- sự khởi sanh lên của các nỗi Khổ trong Khổ ấm;
- sự tiêu diệt hết của các nỗi Khổ trong Khổ ấm.
Nhìn thấy được rõ ràng bằng Huệ
nhãn, các nỗi Khổ sanh khởi, rồi lại tiêu diệt, trong thân tâm,
đó là một khả năng
khác của Trí Huệ Bát-nhã, gọi là Khởi Diệt trí, một phần của
Trí Huệ Bát-nhã, đã nhìn thấy rõ sự
Khởi và sự Diệt của Khổ ấm.
Mặt khác, khi Trí Huệ Bát-nhã quán sát sự tiêu diệt các nỗi Khổ trong
toàn bộ Khổ ấm nơi thân tâm, thì một khả năng
khác của Trí huệ đó khởi lên, đó là
Quán Diệt trí, phân biệt thật rành rẽ khi nào các nỗi Khổ
đã thật sự tiêu diệt, và khi ấy chứng
đắc được một tình trạng an tịch khởi
lên trong tâm thanh tịnh, đó là cảnh
tịch diệt của Niết-bàn.
Như thế, rõ ràng là ba Trí: Phân biệt trí, Khởi Diệt trí và
Quán Diệt trí, đều phát xuất từ
Trí Huệ Bát-nhã đang quán sát về mục
tiêu của Bốn Thánh đế. Lại nữa, do
nhận xét nầy mà ta có thể kết luận, mặc dầu
được gọi dưới ba tên khác nhau, cũng
vẫn một Trí Huệ Bát-nhã đang được vận dụng để
tìm hiểu và học tập về Bốn Chơn lý Nhiệm mầu.
3) Về Khổ ấm, cần phân biệt các
điạ hạt nào?
Nơi Phẩm 11: Năm Phương tiện
vừa qua, hành giả có dịp nhận thấy Ấm, Nhập, Giới,
Nhân Duyên và bốn Thánh đế.
Năm phương tiện nầy nhằm mục tiêu
giúp cho hành giả biết rõ được thân
tâm của mình qua các mục về Ấm, Nhập, Giới, thấy rõ do mười hai
Nhân Duyên mà các môn Ấm, Nhập, Giới
đó khởi sanh, tồn tại và tiêu diệt, và
thông đạt được bốn Thánh
đế để
theo con đường giải thoát khỏi các nỗi Khổ của toàn bộ
Khổ ấm, đang ràng buộc thân tâm
mình.
Bước quan trọng đầu tiên,
được chỉ dạy rõ trong Chi 1, Ph.12
nầy, là cần phải nhận định rõ mỗi yếu
tố trong thân tâm, qua Ấm, Nhập, Giới, khi khởi lên do Nguyên
nhân nào và phải dùng đến
phương tiện Thánh đế nào
để tiêu trừ. Các hình thức khởi lên
của Ấm, Nhập, Giới nơi thân tâm, đều
được Luận văn chỉ rõ tỉ mĩ qui về dưới hai dạng: Danh và
Sắc.
Danh-Sắc có khởi lên, thì Khổ ấm mới xảy ra; Danh cùng Sắc
đều mang ba đặc tướng: vô
thường, khổ và vô ngã. Vô thường, vì chúng cứ thay
đổi và biến diệt theo thời gian.
Khổ, vì chúng tạo nên sự bất như ý, vì sự thay
đổi chẳng bền vững, cho nên mới gây ra
đau khổ. Vô ngã, vì chúng chẳng
có tự tánh, phải tùy thuộc vào nhân duyên mà sanh khởi và tồn tại,
rồi lại cũng do nhân duyên mà bị diệt tận.
Sau khi đã nhận
định rõ hai hình tướng tổng quát
Danh và Sắc, thấy thật
đúng ba đặc tướng của chúng:vô thường, khổ và
vô ngã, hành giả liền an trú tâm vào ba cảnh giới:
vô tướng, vô nguyện, và không. Vì Danh-Sắc
đã vô thường, biến diệt, nên tìm sự an
tâm vào nơi chẳng còn có hình tướng nào nữa, tức là cảnh giới vô tướng.
Vì Danh-Sắc tạo nên nỗi Khổ, do sự mong cầu mà chẳng
được, nên phải bỏ lòng mong cầu
đi để an trú tâm trong cảnh giới vô
nguyện. Vì Danh-Sắc chẳng có tự tánh, luôn luôn phải thay
đổi tùy thuộc vào các nhân duyên, nên
phải an trú tâm vào cảnh giới Không, nơi chẳng còn sự vật hữu vi
biến đổi nào
đến khuấy rầy nữa.
Làm cho thấy rõ: (1) thế nào là ấm, nhập, giới,
đang qui về hai pháp: Danh và
Sắc; (2) Danh-Sắc ấy mang ba đặc
tướng: Vô thường, Khổ, và vô ngã như thế nào; (3) Tâm
được an trú trong ba cảnh giới: vô
tướng, vô nguyên và Không như thế nào, đó
là công năng của Trí Huệ Bát-nhã
được thể hiện qua ba khả năng Phân
biệt trí, Khởi Diệt trí và Quán Diệt trí.
Nhận định rõ
được các mối liên hệ chặt chẽ giữa:
1. Ấm, Nhập, Giới và Danh-Sắc;
2. Ba đặc tướng Vô thường, Khổ
và Vô ngã của Danh và Sắc;
3. Ba cảnh giới an trú Tâm: vô tướng, vô nguyện và
Không;
đó là đã thông
đạt
được Chi 1 của Phẩm 12 nói về ba trí: Phân biệt trí, Khởi Diệt
trí và Quán Diệt trí.
Thông đạt, ở
đây, có nghiã là nhìn thấy bằng huệ
nhãn; hay nói cách khác, tự mình nhận thấy thật rõ, chẳng chút nghi
ngờ nào nữa, nói cách khác, đã chứng
đắc thấy rõ, chớ chẳng phải chỉ nghe,
chỉ đọc đến và chỉ hiểu lờ mờ mà
đủ!
4) Nhìn thẳng vào nỗi Khổ, thấy
được gì?
Thông thường con người thường than vắn thở dài: "Tôi
đau khổ quá!", nhưng thử hỏi,
tôi ở đâu mà vào chịu khổ
đây, cái khổ
đó ra sao, nó hành hạ tôi như
thế nào, thì cũng chẳng có ai trả lời cho thật chính xác. Tại sao?
Tôi đang khổ đây! Tôi là ai? Ra
sao? Chỗ nào trong tôi đang cảm thấy khó
chịu, bứt rứt? Các câu trả lời đều qui về một phần nào
đó trên thân thể
đang thiếu mất sự an ổn. Thế thì,
đúng ra phải nói, hoặc là cái chân
nầy đang mỏi, cái răng
nầy đang nhức, cái đầu nầy
đang lo buồn, chớ chẳng hề thấy có cái Tôi nào
đang mỏi, đang nhức, đang lo buồn. Chẳng qua,
người ta đã đồng hoá cái
chân, cái răng, cái
đầu, cái thân với cái
Ta vu vơ nào đó mà thôi.
Đây là sự níu chặt vào tà kiến thân
kiến, ngã kiến, nghĩ lầm rằng trong thân thể nầy có cái Ta, cái
Ta đang làm chủ thân tâm
đó. Tà kiến
đó khiến cho cảm thấy nỗi khổ đang đè
lên thân tâm và cuối cùng Ta phải khổ.
Luận văn đã chỉ rõ, thật rõ, nơi
thân tâm nầy, chỉ có Danh và Sắc, chẳng thấy có yếu tố nào
là cái Ta, cái Ngã cả. Chỉ vì quen theo lối suy tư từ lúc
biết đi biết nói đến nay, cho rằng
Ta đang đi, Ta
đang nói, mà dính chặt vào thân
kiến, rồi vì thế mà phải bị cái khổ buộc ràng cả
đời mình. Chơn mỏi, răng
nhức, tâm buồn, cứ nhìn thẳng vào các chỗ ấy, xem cái
khổ nó lên đến mức nào. Lạ thay, khi
nhìn thẳng vào, lại cảm thấy, chẳng quá đau
khổ như mình tưởng, sao lại có lúc khó chịu, cũng có lúc chẳng cảm
thấy quá nhức nhối, thế là cơn đau nó chẳng
quá ghê gớm như mình đã
tưởng tượng.
Lại nữa, Luận chỉ cho thấy cái khổ nơi thân thường khiến ta sanh ra bực
dọc, khó chịu, hai việc bực dọc và khó chịu nầy lại chính là
một nỗi Khổ mới đấy, mối khổ về tâm
linh, mà chỉ vì ta tưởng rằng ta
đang khổ, nên lại phải gánh thêm nỗi khổ mới về tinh thần
đó thôi. Luận văn gọi đó là Khổ
khổ, một mối khổ khác chồng lên một nỗi khổ
đang gánh chịu. Sao lại dại dột đi gánh thêm
nỗi khổ khổ? Sao lại chẳng biết rằng, bỏ
đi thân kiến, nỗi khổ khổ
nầy tự nhiên phải biến đi mất.
Mặt khác, đang vui mà cảm thấy cuộc
vui chóng tàn, nên thấy tiếc tiếc, muốn kéo dài thêm nữa chẳng
được. Thế là tâm sanh ra buồn, luyến
nhớ đến cuôc vui đã qua,
đó cũng là một hình thức Khổ, mà Luận
văn gọi là hoại khổ,
nghiã là Khổ xảy đến vì sự biến hoại.
Nếu biết rằng, muôn sự sự vật vật đều
vô thường luôn luôn thay đổi, chẳng
chút bền vững, thì sao lại nuối tiếc chi
để đeo Khổ vào thân, vào tâm?
Trước đây, nơi cuối Phẩm 11, Luận văn có
viết, vì "Thân tâm năm ấm nầy bám
níu vào cuộc sống, đó là
hành khổ". Đây là nguyên
nhân căn bản khiến mọi chúng sanh
phải khổ: cuộc sống trầm luân trong vòng Luân hồi nơi cõi Ta bà nầy
đâu có gì vui sướng mãi mà cố bám níu
vào. Sao chẳng biết cảnh an tịch Niết-bàn mới là hơn, vì nơi
đây mọi phiền não
đã chấm dứt vĩnh viễn.
-----*-----
Phần Tìm hiểu
Phẩm 12: Phân biệt
Đế.
Chi 2:
Các loại Trí và
Định
Chuyển tiếp: Phẩm 12: Phân biệt
Đế, nơi Chi 1 đã phân tách
các khả năng của Trí Huệ Bát-nhã ra
Phân biệt trí, Khởi Diệt trí và Quán Diệt trí
để phân biệt rõ ràng về bốn Thánh
đế, nhứt là sự khởi sanh và sự
tiêu diệt của Khổ ấm.
Nay trong Chi 2 nầy, là phần chót của Luận văn,
các hình thức khác còn lại của Trí Huệ Bát-nhã
được nêu rõ, kèm theo các loại
Định mà tâm trí ấy
đã đắc
được khi chứng được đạo và quả. Sau cùng, Luận văn
giải thích thêm các vấn đề linh
tinh về Thiền, rồi kết thúc bộ Luận bằng một bài Kệ
khuyến khích hành giả nên tinh tấn tiến tu để
sớm đạt được mục tiêu giải thoát.
092. Dàn bài chi tiết của Chi 2, Phẩm 12:
I. Nhập đề: Người
toạ thiền một khi đã thấy rõ
được sự khởi sanh và tiêu diệt của Khổ
ấm nơi thân tâm, mới khởi lên Trí muốn giải thoát và nỗ lực tu tập các
loại Trí khác, hầu chứng được đạo và
quả, trên con đường tiến đến Niết-bàn.
II. Thân bài: Chi 2 bàn
đến nhiều vấn đề: trước hết, tiếp tục nói về các loại Trí khác của Trí huệ
Bát-nhã, kế đến các đạo và
quả của hàng Thanh văn, sau đến các vấn
đề linh tinh về Thiền, quan trọng nhứt là chánh thọ và Diệt tận
định. Một bài Kệ ngắn kết
thúc bộ Luận văn nầy.
A. Trí biết lo sợ: Khi đã
quán rõ ràng về sự tận diệt của Khổ ấm, Trí biết lo sợ khởi lên:
1. Lo sợ những gì:
11. về sự tái phát khởi của các ấm;
12. về sự tái sanh vào các nẻo dữ;
2. An trú Ý tưởng lo sợ cách nào:
21. quán vô thường để khởi lên
vô tướng
22. quán khổ và vô ngã
để khởi lên tướng vô sanh
3. Trí biết lo sợ đưa
đến sự yếm ly (= xa lìa). Khổ ấm và nguyên nhân
của nó.
B.Trí muốn được giải thoát:
Khi Trí biết lo sợ đã an
trú rồi, Trí muốn được giải thoát
khởi lên, qua:
1. Ba cửa giải thoát:
11. cửa Vô tướng: hằng quán lẽ vô thường
12. cửa Khổ: hằng quán lẽ khổ của các ấm
13. cửa vô nguyện: hằng quán và tu tập tâm chẳng mong
cầu.
2. Do hai cách, trí muốn được
giải thoát:
21. Dẫn tâm đến nơi hoan
hỉ;
22. Vượt qua ưu não, làm trở ngại
Đạo.
C. Tương tự trí: Khi Trí muốn
được giải thoát đã khởi, tu tập tiếp Tương tự trí
để vượt qua khỏi sự kết tụ
của các ấm và để đắc
Niết-bàn.
1. Tương tự trí thông đạt 37
Phẩm Trợ Đạo
11. Nhắc lại 37 Phẩm Trợ Đạo gồm có
gì?
12. Tâm trí phù hợp, giống với các Phẩm;
2.Dùng Tương tự trí ấy hiện quán các ấm
đều vô thường, khổ và vô
ngã để thấy rõ:
21. sự kết tụ và sự tận diệt của năm
ấm;
22. vượt qua sự kết tụ và tận diệt
đó
23. chứng đắc Niết-bàn.
D. Tánh trừ Trí: Khi Tương tự trí theo thứ lớp, chẳng
gián đoạn, hướng về đối tượng
Niết-bàn, Tánh trừ trí khởi lên, là bước
đầu đi tới Niết-bàn.
1. Định nghiã Tánh trong
A-tỳ-đàm (Luận tạng):
11. trừ được sự sanh
gọi là Tánh;
12. đến được cõi vô sanh
gọi là Tánh;
13. trừ nguyên nhân của sự sanh gọi tánh trừ
14. đến được cõi vô
tướng, gọi là tánh trừ.
2. Vượt các pháp phàm phu, cũng gọi tánh trừ.
3. Nơi chẳng còn pháp phàm phu nữa, cũng gọi là tánh trừ;
Tánh lại có nghiã là Niết-bàn.
4. Tánh trừ trí khi hiện biết rõ, chẳng gián
đoạn, bốn Thánh
đế, khởi lên Thánh trí:
41. Khổ đế: biết rõ sự
khởi sanh của Khổ ấm
42.Tập đế: tận trừ
các nguyên nhân của Khổ
43. Diệt đế: chứng
thấy sự tận diệt của Khổ
44. Đạo đế: tu tập
theo Bát Chánh Đạo, để giải thoát khỏi
Khổ và chứng đắc
Niết-bàn.
5. Thánh trí được bài Kệ
ví với con thuyền đưa sang bờ giải
thoát, đắc Đạo trí
và Quả trí của bốn quả vị Thánh (xem mục E kế
sau).
E. Đạo và Quả của các bậc
Hiền Thánh:
1. Tu-đà-huờn: Sơ quả hay
quả vị thứ nhứt
11. Diệt trừ tam kết và các phiền não tương ứng
Thân kết: diệt bỏ thân kiến và ngã kiến;
Nghi kết: dứt mối nghi nan về bốn
Đế
Giới cấm thủ: dứt các giới cấm mê tín
Phiền não: dũa mòn tham, sân và si
12. Tu-đà-huờn hướng, Tu-đà-huờn
trú, Tu-đà-hườn quả:
Thất sanh: còn bảy lần tái sanh;
Gia gia: còn hai hay ba lần tái sanh;
Nhứt sanh: chỉ tái sanh làm người một lần.
13. Bài Kệ tán thán sự cao qúi của quả vị Tu-đà-huờn
2. Tư-đà-hàm: quả vị thứ
hai của bực Hiền.
21.Thấy rõ sự sanh diệt từ buổi ban sơ và hiện quán;
22. Nương theo năm căn,
năm lực, bảy
giác chi, quán phân biệt Bốn Thánh
đế, hướng về Diệt;
23. Đoạn trừ các dục thô, sân
hận và phiền não khác
24. Trên con đường Đạo, chẳng gián
đoạn, chẳng bao lâu chứng được quả vị Tư-đà-hàm.
3. A-na-hàm: quả vị thứ ba của bực Hiền.
31.Thấy sự sanh diệt; lấy chỗ sơ kiến
đó hiện quán;
32. Cũng nương năm căn,
năm lực, bảy
giác chi, quán phân biệt Bốn Thánh
đế, hướng về Diệt;
33. Đoạn trừ các dục vi tế
và phiền não còn dư sót;
34. Trên con đường Đạo, chẳng gián
đoạn, chẳng bao lâu chứng được quả A-na-hàm.
35. Tùy căn cơ mà chứng
được năm hạng A-na-hàm.
4. A-la-hán: quả vị thứ tư, vào hàng Thánh.
41. Đến giai đoạn nầy, khởi tinh tấn
dõng mãnh, thấy rõ sự sanh diệt buổi ban sơ, lấy
đó làm hiện quán;
42. Cũng nương năm căn,
năm lực, bảy
giác chi,quán phân biệt Bốn Thánh
đế,
43. Đoạn trừ sắc
dục, vô sắc dục, các triền cái và phiền não còn dư sót;
44. Quán Đạo Quả của Niết-bàn;
45. Trên con đường Đạo, chẳng bao lâu,
chẳng gián đoạn, giải thoát Tâm Tuệ, làm tròn Phạm hạnh,
đặt gánh nặng xuống, đến bờ
giác bên kia, chứng đắc Quả vị
Niết-bàn của hàng Thánh.
46. Hai bài Kệ tán thán sự viên mãn của con
đường giải thoát, khi
chứng đắc đạo quả A-la-hán và
quả vị Niết-bàn.
(Kế đến, Luận văn nêu ra các
trường hợp mà hành giả khi tu tập chẳng biết
được lúc nào
Đạo và Quả tương hợp với nhau, nơi
bốn cấp quả vị từ Tu-đà-huờn
đến A-la-hán. Phần giải thích của Luận
văn ở đây quá thâm sâu, tôi còn chưa hiểu rõ nổi, xin miễn ghi
vào Dàn bài nầy).
F. Các vấn đề linh tinh về Thiền:
Sau đây Luận văn phân biệt thêm
về ý nghiã các danh từ chuyên môn về Thiền học mà sự thông
đạt chỉ có thể có được nơi người đã
thật sự chứng đắc Đạo và
Quả, và vượt quá xa sự hiểu biết của kẻ
đang viết các dòng nầy. Vì lẽ đó,
nơi đây chỉ xin ghi lại thật vắn tắt, người đọc muốn tìm hiểu cặn
kẽ hơn, xin vui lòng chịu khó đọc kỹ lại
Luân văn:
1. Hai loại Quán: Thiền quán và Táo quán
11. Thiền quán đã
đắc Định rồi lấy
định lực để hàng phục các
triền cái;
12. Thiền quán phân biệt so sánh Danh với Sắc,
và các thiền chi;
13. Thiền quán lấy Định
làm bước đầu để tu
Huệ
14. Táo quán lấy Trí lực
để hàng phục triền cái
15. Táo quán lấy Sắc để
phân biệt với Danh
16. Táo quán lấy Huệ làm bước
đầu để tu Định.
2. Giác: Nơi Sơ thiền, quán Đạo
và Quả, nên thành ra có giác. Nơi Tam thiền, giác
được trừ bỏ.
3. Hỉ: Nơi Sơ thiền, Nhị thiền, nhờ tương tự trí thấy
dứt Khổ, quán Đạo và Quả khiến
Hỉ khởi. Nơi Tam và Tứ thiền, nhờ huệ lực quán
Đạo và Quả khiến Hỉ chẳng
khởi.
4. Thọ: Nơi Tam thiền, nhờ huệ lực quán
Đạo và Quả khiến niệm xả
khởi, nên dứt được hỉ thọ
và lạc thọ.
5. Điạ: là phạm vi, lãnh
vực hay địa hạt; có hai loại:
51. Kiến điạ và Tư
duy điạ:
- Tu-đà-huờn
đạo thuộc về kiến
điạ (= thấy
được các điều chưa từng thấy);
- ba đạo kia thuộc về tư duy
điạ,
đã thấy rõ rồi, nay
đang tu tập các điều đó.
52. Học điạ và Vô
học điạ:
- Học điạ: ba
đạo trước, từ Tu-đà-huờn, vì
còn phải học để dứt phiền não,
kết sử.
- Vô học điạ: quả
A-la-hán, Sa-môn, vì đã học
xong, tận diệt phiền não rồi.
6. Căn: có ba hạng,
thuộc về xuất thế gian (đã
vượt khỏi các phiền não của người thế tục):
61. Căn biết
điều chưa từng biết: Tu-đà-huờn
đạo
62. Căn
đã biết rốt ráo: ba
đạo và ba quả còn lại
63. Căn biết
đã biết rốt ráo, chẳng còn sót
pháp nào nữa: quả A-la-hán.
7. Giải Thoát: có ba cửa giải thoát:
71. cửa Vô tướng: nhờ tương tự trí nên chẳng khởi
lên các hình tướng nữa;
72. cửa Vô nguyện (= vô tác): tu tập mà chẳng có lòng mong
cầu nữa;
73. cửa Không: tu tập xả bỏ, chẳng còn dính mắc, chẳng còn
chấp thủ vào đâu nữa.
Do quán tưởng về ba đặc
tướng của muôn pháp: vô thường, Khổ, vô ngã, mà bước
vào ba cửa giải thoát. Vào được
một cửa, tức hai cửa kia cũng đồng đắc được.
8. Phiền não: có 134 phiền não
được Luận văn liệt kê
đầy đủ và giải thích rõ ràng.
9. Chánh thọ: hai quả chánh thọ:
91. Phàm phu ngồi Thiền khi tâm an trú bất
động, gọi tình trạng
đó là
Định.
92. Đối với bực Thánh, tình
trạng Định nầy được gọi là
Chánh thọ, vì tâm đang an trú trong
trong cảnh giới viên tịch của Niết-bàn.
93. Khởi lên được Chánh thọ, chỉ có các
bực đã đắc được từ đạo quả
A-na-hàm trở lên, vì tất cả phiền não
đều đã tận diệt.
94. Muốn khởi quả Chánh thọ, quán sự sanh diệt của chư
hành, lần lượt đến tánh trừ
trí, trí nầy khiến tâm an trú vào cõi Niết-bàn.
10. Diệt Thọ Tưởng Định:
cấp bực Định thứ chín,
cao nhứt, khi tâm và tâm sở chẳng sanh khởi, thọ ấm và tưởng
ấm được diệt trừ.
10.1. Chỉ bực A-la-hán, đã
đoạn tận phiền não mới nhập
được Diệt thọ tưởng
định.
10.2. Từ Định ở Sơ thiền đi
lần đến Định ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ, rồi diệt tư
tưởng;
10.3. Khác với kẻ chết, thiền giả nhập Diệt thọ tưởng
định vẫn còn thọ mạng, hơi
nóng, tuy thân, miệng, ý đều dứt hoạt
động.
10.4. Diệt thọ tưởng định
là nhập vào Niết-bàn ngay trong hiện tại, vui hưởng cảnh
an tịch.
G. Bài Kệ kết thúc Luận văn:
Bài Kệ gồm có sáu câu, tán thán công đức
của Luận văn, chỉ rõ con đường
giải thoát theo Chánh pháp, khuyên nên thọ trì bằng
cách siêng năng ngồi Thiền,
để dứt cho xong lậu hoặc và
lià hẳn vô minh.
093. Tìm hiểu nghiã chữ khó trong Chi 2, Ph.12
Bảy Thức trú: bảy nơi của Thức ấm, gồm có: (1) nhãn thức và
mắt, (2) nhĩ thức và tai, (3) tị thức và mũi, (4) thiệt
thức và lưỡi, (6) thân thức và da trên thân, (7) ý thức
và tâm.
Yếm ly: Yếm = chán ghét; Ly = lià xa; Yếm ly
là sự nhàm chán nên lià xa, chẳng còn ham muốn, chẳng ưa nên bỏ.
Lạc giải thoát trí: Lạc = vui; Giải thoát = ra khỏi;
Trí = trí huệ; Lạc giải thoát trí là trí huệ mong muốn sớm
được giải thoát.
Kham nhẫn: Xem lại trang 416, Ph. 8.
Tương tự trí: Tương tự = giống với; Trí = trí huệ.
Tương tự trí có nghiã là Trí có khả năng
tương tự với... Ở đây, đó là Trí có khả năng
giống với Trí huệ hiểu biết và thực hành theo
đúng 37 Phẩm Trợ Đạo.
Đạo trí: Đạo = con
đường; Đạo ở đây là đường lối tu tập;
như Tu-đà-huờn
đạo trí có nghiã là Trí huệ tu tập
theo con đường dẫn đến việc chứng đắc đạo
quả Tu-đà-huờn. Xem lại
trang 326, Phẩm 1.
Tánh trừ trí: Tánh = theo nghiã trong Luận văn,
tánh có nghiã liên quan đến
Niết-bàn; Tánh trừ có nghiã là trừ bỏ các pháp phàm phu,
để tu theo các pháp Niết-bàn, tức là
tu theo các pháp xuất thế gian, vượt khỏi các sự ràng buộc của
đời sống thế tục.
Vô hành: Vô = chẳng có; Hành = Xin xem lại chữ Chư
Hành, trang 569, Phẩm 12, Chi 1. Hành ở
đây chẳng có nghiã về Hành ấm,
mà lại chỉ sự tập hợp, kết thành một thực thể; có thể hiểu cùng nghiã với
chữ pháp là sự sự vật vật trong trời
đất. Ở đây, nơi trang 297, chữ vô hành phản nghiã với chữ
chư hành; vô hành là các hành đã
bị tiêu diệt hết.
Thừa = chiếc xe; chữ Thừa ở đây
được dùng với ý nghiã chuyên chở.
Tam kết: Tam = ba; Kết = ràng buộc. Chữ tam kết
ở đây chỉ ba mối ràng buộc mà
người tu theo Đạo Tu-đà-huờn phải gở
ra cho xong. Tam kết là thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
Ngã sở: Ngã = tôi, ta; Sở = chỗ, nơi; Ngã sở
là danh từ chuyên môn trong Phật học, để chỉ
những gì thuộc quyền sở hữu của ta, những gì mà ta có, những gì do
ta làm chủ.
Phạm hạnh: Xem lại trang 341, Phẩm 2.
Si ngã: Si = ngu si, si mê; Ngã = ta. Si ngã
là sự si mê gây ra vì chấp thủ vào cái Ta.
Tu-đà-huờn hướng,
Tu-đà-huờn quả: Hướng =
hướng về, sẽ đưa đến; Quả =
quả vị; Tu-đà-huờn hướng là
chứng đắc tình trạng hướng về quả vị
Tu-đà-huờn; nói cách khác, khi tu theo
Đạo Tu-đà-huờn, thực hành
đúng theo đạo đó thì sẽ chứng
được cấp Tu-đà-huờn
hướng, trước khi đắc được Tu-đà-huờn
quả một cách viên mãn. Lại nói cách khác, Tu-đà-huờn
có hai cấp, một cấp là Tu-đà-huờn
hướng và một cấp cao hơn là Tu-đà-huờn
quả.
Giác trí: Giác = biết rõ; Trí = trí huệ;Giác trí
là trí hiểu rõ tường tận
Giác minh: Giác = biết rõ; Minh = sáng; Giác minh
là sự thông hiểu sáng suốt.
Sơ kiến: Sơ = ban sơ, buổi đầu;
Kiến = thấy; Sơ kiến là cái thấy ban
đầu, khác với hiện kiến là cái
đang thấy.
Sắc dục và vô sắc dục: Sắc = vật chất; Dục = ham
muốn. Sắc dục, nghiã thông thường là sự tham
đắm về sắc đẹp phụ nữ; nhưng ở đây chữ
sắc dục lại có nghiã khác, đặc biệt,
trong Phật học, để chỉ sự ham muốn được sanh vào cõi sắc giới
(Có ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới; dục giới là cõi chúng
ta đang sống, còn nhiều dục vọng; cõi
sắc giới còn dựa trên vật chất; cõi vô sắc giới chỉ có tư tưởng, chẳng còn
vật chất). Như thế, trong đoạn nầy, trang
301, sắc dục là sự ham muốn
được tái sanh vào cõi sắc giới.
Thủ hộ: Thủ = giữ gìn, nắm giữ; Hộ = bảo vệ, phòng
vệ, bảo bộ. Thủ hộ là người lo bảo vệ kẻ khác, hay giữ gìn vật hay
việc gì qúi báu.
Tà đế: Tà = xiêng xéo;
chẳng chơn chánh; Đế = chơn lý
Tà đế là những sự tin tưởng sai
lầm mà lấy đó làm Chơn lý.
Tác chứng: Tác = làm; chứng = chứng cớ, chứng
đắc. Tác chứng, ở
đây, trang 304, có nghiã là chứng
đắc, thấy rõ với
đầy đủ bằng cớ xác thật.
Vô giác địa: Vô = chẳng
có; Giác = biết rõ; đây là một
thiền chi của Sơ thiền, khi tâm nhận biết đối
tượng; Điạ = đất; ở đây có nghiã là phạm vi hay lãnh vực.
Vô giác địa là những lãnh vực mà
tâm chẳng khởi lên sự giác, chẳng màng biết
đến đối tượng của tâm nữa.
Vô hỉ địa: Vô = chẳng
có; Hỉ = mừng; Điạ =
lãnh vực; Vô hỉ điạ là lãnh vực
mà tâm chẳng còn khởi lên sự mừng nữa; vì Hỉ ở
đây là một thiền chi của Sơ thiền và
Nhị thiền.
Kiến địa: Kiến = thấy
rõ, nói về tâm; Điạ = điạ hạt, lãnh
vực, phạm vi; Kiến điạ là những
lãnh vực mà tâm nhìn thấy; ở đây là
tâm nhìn thấy rõ, chứng kiến sự sanh và sự diệt của khổ ấm. Tu-đà-huờn
thuộc về Kiến địa.
Tư duy địa: Tư duy = suy
nghĩ, trầm tư; Điạ = điạ hạt, phạm vi.
Tư duy điạ là những
điạ hạt mà tâm sau klhi
đã thấy rõ nơi Kiến
địa, bắt đầu quán tưởng, tư duy, để tu tập.
Ba đạo về Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán thuộc về Tư duy
điạ.
Vị tri trí: Vị = chưa; Tri = biết; Trí = trí
huệ; Vị tri trí là Trí huệ biết được
điều trước đây chưa từng biết. Trí của bực Tu-đà-huờn thuộc về Trí
nầy
Dĩ tri trí: Dĩ = đã qua;
Tri = biết; Trí = trí huệ; Dĩ tri trí là Trí
đã hiểu biết các pháp một cách rốt
ráo. Trí của các bực từ Tư-đà-hàm
đến A-la-hán thuộc về loại Trí nầy.
Tri dĩ trí: Tri = biết; Dĩ =
đã qua; Trí = Trí huệ; Tri
dĩ trí là Trí đã biết rõ rằng mình
đã thông hiểu rốt ráo mọi pháp, chẳng
còn sót một pháp nào. Chỉ riêng Trí của bực A-la-hán mới thuộc về loại Trí
nầy.
Quán kiến: Quán = xem xét bằng tâm; Kiến = thấy. Cùng
một nghiã với các chữ: Quán tưởng, quán chiếu.
Tứ lưu: Tứ = bốn; Lưu = chảy, tràn ngập. Tứ lưu,
theo Luận văn, trang 310, gồm có: (1)
dục lưu, sự tràn ngập của các ham muốn, dục vọng; (2) hữu
lưu, sự tràn ngập của cuộc sống, hiện hữu; (3) kiến lưu, sự
tràn ngập của các tà kiến; (4) vô minh lưu, sự tràn ngập của sự si
mê.
Tứ thủ: Tứ = bốn; Thủ = chấp thủ, bám níu vào
điều sai lầm chẳng chịu nới lỏng ra.
Tứ thủ được Luận văn kể ra: (1)
dục thủ, bám níu vào sự ham muốn, đam
mê; (2) kiến thủ, bám níu vào các vọng kiến, tà thuyết; (3)
giới cấm thủ, bám níu vào các nghi thức mê tín, cúng tế dị
đoan của ngoại đạo; (4) ngã ngữ
thủ, bám chặt vào lời tôi nói, cứ cho rằng tôi nói là
đúng, còn kẻ nào nói khác là sai.
Ỷ ngữ: Ỷ = nương tựa, ở đây có
nghiã là nói trau chuốt để dựa vào
ai hay vật gì; Ngữ = lời nói. Ý ngữ là lời nói chẳng
được thật tình, cố trau chuốt nói ra
cốt để chiều theo ý của ai hay sự vật gì
mà mình muốn.
Ngoại duyên: Ngoại = ngoài; Duyên = nhân duyên, duyên
cớ. Ngoại duyên ở đây, trang 312, chỉ
đến các điều kiện bên ngoài gây ảnh hưởng
đến.
Sa-môn quả: Sa-môn = tu sĩ theo Phật giáo, sống ẩn cư; phiên
âm từ chữ Pàli Samana. Quả = quả vị. Sa-môn quả là bốn quả: Tu-đà-huờn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Phái
Bắc tông thường gọi bốn quả vị đó là
tứ quả, hay là bốn quả vị hàng Thanh văn.
An tường: An = yên ổn; Tường = tốt
đẹp. Nơi trang 316, Luận văn viết:
"...theo thứ lớp nhập vào và xuất ra an tường", có nghiã là:
lần lượt nhập vào Định của các
bực Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền, ... và xuất ra khỏi các cơn
Định ấy một cách yên ổn và tốt
đẹp.
094. Suy gẫm về Chi 2, Ph. 12: Phân biệt
Đế.
1) Chỉ có một Trí Huệ nhưng với nhiều khả năng
khác nhau:
11) Câu chuyện ngụ ngôn ở Quốc văn giáo
khoa thư:
Ngày còn nhỏ đi học, đọc Quốc văn giáo
khoa thư về chuyện con cọp và người nông phu, ta chẳng khỏi
buồn cười. Một người nông phu đang cày
ruộng, có con cọp đi đến, hỏi:
- Nghe nói loài người các anh thông minh lắm, vậy trí khôn anh
để ở đâu?
- Trí khôn tôi để ở nhà, anh
muốn xem, phải chịu cho tôi trói lại, vì nếu không, khi tôi về nhà lấy
trí khôn đem lại; ở đây anh ăn thịt mất
con trâu của tôi.
Cọp ưng thuận, chịu cho người nông phu trói lại. Trói xong, người ấy
vác cày đập cọp, vừa đập vừa nói:
- Trí khôn của ta đây nầy!
Câu chuyện ngụ ngôn vừa kể nêu cao trí khôn của người nông phu và ngầm
chê bai sự ngu mê của con cọp. Trí thông minh của người nông phu là
trí thông thường giúp người dành lấy chỗ hơn
đối với kẻ khác. Trí ấy thể hiện qua ba hình thức:(1) trước, do
ý nghĩ sắp đặt mưu kế
để hại cọp; (2) kế đến nói ra lời
lẽ để gạt gẫm cọp, và (3) bằng
hành động vác cày
đập cọp tơi bời. Sự ngu mê của cọp thể
hiện ra bằng ý nghĩ chẳng hiểu trí khôn là gì, ở
đâu, và bằng hành
động chịu cho người trói lại. Sự
ngu mê đó chứng tỏ sự vắng mặt của
trí khôn nơi loài súc sanh.
Trí Huệ Bát-nhã khác hơn trí thông minh thông thường là
ở chỗ Trí ấy chẳng nghĩ đến việc lợi mình
hại người, mà lại có khả năng đưa con người
đến nơi giác ngộ và giải thoát;
đấy mới là việc lợi to tát nhứt,
bền vững nhứt, cao qúi hơn tất cả các mối lợi ở
đời. Tại sao? Vì một khi
đã giác ngộ và
được giải thoát rồi, thì cuộc sống sẽ
tự tại, dứt khoát ra khỏi vòng ràng buộc của mọi sự khổ
đau, thân tâm an ổn trong cảnh vắng lặng
thanh nhàn của Niết-bàn.
12) Phẩm 12: "Phân biệt Đế" mô tả các
khả năng của Trí Huệ Bát-nhã hướng về bốn Thánh
đế.
Nơi Chi 1, Phẩm 12, Trí huệ Bát-nhã được
phân tách thành ra ba Trí: (1) Phân biệt Trí, (2) Khởi
Diệt trí, (3) Quán Diệt trí. Tuy gọi là ba Trí, chớ thật ra chỉ
một Trí Huệ Bát-nhã với ba khả năng:
- Thứ nhứt, khả năng
phân biệt rành rẽ bốn Thánh
đế:
(a) Khổ đế, cần thông
suốt các nỗi Khổ ở đời;
(b) Tập đế, cần diệt
trừ các nguyên nhân gây ra Khổ;
(c) Diệt đế, cần chứng
đắc sự tận diệt các nỗi Khổ;
(d) Đạo đế, cần tu tập theo con
đường Bát Chánh để được giác
ngộ và giải thoát.
- Thứ hai, khả năng
chứng thấy rõ sự phát khởi của các nỗi Khổ và sự
tiêu diệt của chúng;
- Thứ ba, khả năng quán
thấy rõ sự tận diệt của các nỗi Khổ trong toàn bộ
Khổ ấm.
Khi Trí huệ Bát-nhã đã thi triển
được ba khả năng
đó, vừa phân biệt rõ
bốn Thánh đế, vừa quán chiếu rõ
sự Khởi Diệt của các nỗi khổ, vừa chứng thấy rõ sự tận
Diệt của Khổ ấm, thì Trí huệ ấy khởi lên tiếp bốn khả năng
mới, dẫn đến ngưỡng cửa Niết-bàn.
Bốn khả năng mới nầy được Chi 2 kể tiếp.
Nơi Chi 2, Phẩm 12, Luận văn mô tả Trí huệ
Bát-nhã ra thành bốn Trí: (1) Trí biết lo sợ, (2) Trí
muốn giải thoát, (3) Trí tương tự, (4) Trí tánh trừ.
Tuy gọi là bốn Trí, chớ thật ra chỉ có một Trí huệ Bát-nhã với bốn khả
năng mới:
- Thứ nhứt, khả năng biết
lo sợ về nguyên nhân của Khổ ấm khiến trôi lăn
vào sáu nẻo Luân hồi;
- Thứ hai, khả năng
muốn được giải thoát
để ra khỏi vòng Luân hồi;
- Thứ ba, khả năng quán
Vô thường, Khổ, Vô ngã, vượt khỏi sự kết tụ
của Khổ ấm, đến ba cửa
giải thoát: vô tướng, vô nguyện và Không, (giống với hiệu năng
của 37 Phẩm Trợ đạo, nên được gọi là
Trí tương tự.)
- Thứ tư, khả năng vượt
qua các pháp phàm phu để tiến tới
cõi vô sanh của pháp Niết-bàn. (Vô sanh
đã trừ xong sự sanh, nên gọi
là Tánh và khả năng nầy được gọi là
Tánh trừ trí.)
13) Vấn đề quan trọng chính là
việc tu tập tinh cần, còn Trí huệ tự nó phát triển theo thời gian hành
trì:
Khi Trí huệ Bát-nhã đã hội
đủ bảy khả năng vừa kể, ba ở Chi 1, và
bốn ở Chi 2, hành giả đã
đến ngưỡng cửa Niết-bàn. Vấn
đề quan trọng chẳng phải là cố tìm
cách phân biệt mỗi khả năng, bàn cãi
về công năng của mỗi Trí, mà thiết yếu
là việc cần phải tu tập. Luận văn kể rõ
bảy giai đoạn mà Trí huệ
Bát-nhã lần lượt trải qua, chẳng cần phải hiểu cho cặn kẽ sự khác biệt của
chúng, mà việc cần thiết là tu tập, tu tập thật tinh cần, tu
tập với nhiệt tâm, rồi cùng với thời gian, khi Trí Huệ ấy hiển lộ
ra, hành giả sẽ tự biết lấy, đâu cần chi phải
quan ngại Trí nào sẽ đến sớm, Trí nào
còn chưa đến, v.v.
2) Trí Huệ Bát-nhã là Trí Huệ thông suốt bốn Thánh
đế và đưa
hành giả đến bờ giác
21) Thế nào là Trí Huệ Bát-nhã Ba-la-mật?
Theo định nghiã thông thường trong
Kinh sách Phật giáo, thì chữ Bát-nhã có nghiã là trí năng
thông hiểu và phân biệt rõ ràng giữa
điều thiện và
điều ác; chữ Ba-la-mật
chỉ sự toàn thiện, rốt ráo, chẳng còn chi hoàn mỹ hơn nữa.
Nói đến Trí Huệ Bát-nhã
Ba-la-mật là để phân biệt với trí thông
minh ở đời, giành lấy mối lợi cho mình, cho dầu có gây tổn hại cho
kẻ khác. Trí Hưệ Bát-nhã vượt lên trên
đời sống thế tục, cũng đem lại một mối lợi cho người, nhưng chẳng gây tổn
hại cho bất cứ chúng sanh nào, mối lợi ấy, như
đã biết, chính là sự giải thoát
khỏi mọi ràng buộc của khổ đau
do cuộc sống trong vòng Luân hồi gây nên, tạo thành nguồn an lạc thật vĩnh
cửu. Vì lẽ đó, nên mới gọi Trí Huệ
Bát-nhã là Ba-la-mật, chẳng còn sự toàn thiện nào tranh nổi sức
chiếu sáng của nó, chẳng còn phương tiện nào hữu hiệu hơn
để đưa chúng sanh đến bờ giải
thoát.
Khác với các tôn giáo hữu thần khác, Phật giáo chẳng hề chủ trương phải
nhờ vào ân điển, hoặc phải dựa
vào sự cứu rỗi mới được giải
thoát. Sự giải thoát phải tự mình cứu lấy mình; và phương tiện hữu
hiệu nhứt để đạt được sự giải thoát lại chính
là Trí Huệ Bát-nhã, dùng trí lực của mình mà vượt qua mọi
khổ đau ách nạn của cuộc đời.
22)Trí Huệ Bát-nhã hướng về Bốn Thánh
đế để làm phương tiện đưa hành
giả đến bờ giác.
Đế có nghiã là Chơn lý, cái chơn lý tuyệt
đối, luôn luôn đúng với sự thật, khắp mọi
nơi, vào mọi thời. Nhưng ở đây nói đến
Bốn Thánh đế là bốn Chơn
lý nhiệm mầu, do bực Thánh giảng, chỉ rõ con
đường tu tập cho phàm phu trở thành bực Thánh, nghiã là bực
đã tận trừ
được tất cả phiền não và chứng
được cõi vô sanh. Bốn Thánh
đế chẳng bàn luận
đến không gian vô biên, hoặc
đến thời gian vô tận, mà
đề cập tới một vấn đề thiết thân, huyết mạch
của chúng sanh: khổ đau
dính chặt vào cuộc sống hiện tại và phương cách giải thoát ra
khỏi gánh nặng đó.
Bốn Thánh đế đã trả lời chính xác
cho các câu hỏi vừa giản dị, vừa thực tiễn, mà lại vừa trọng yếu nhứt:
Thế nào là khổ? Ai chịu khổ
đây?
Nguyên nhân nào gây ra khổ?
Diệt tận hết khổ sẽ được gì?
Làm cách nào để tận diệt
khổ?
Nội dung của bốn Thánh đế chẳng có chút gì
bí ẩn, chẳng có chút gì huyền ảo vượt quá sự hiểu biết thông thường của
người phàm, thế mà bốn Thánh đế lại mang đến
được một hiệu quả vô cùng siêu thoát:
đưa hành giả đến cảnh an
lạc Niết-bàn, ngay trong hiện tại: ở
đây và bây giờ.
Nội dung của bốn Thánh đế, rất ư là
giản dị, rõ ràng, chẳng ai là người chẳng hiểu
được, thế mà cứ mãi trôi lăn
trong vòng khổ đau mãi,
cũng chỉ vì chẳng có quyết tâm dấn bước lên con
đường giải thoát.
Thử tóm tắt nội dung ấy:
1. Ai chịu Khổ đây? Chính
là Danh và Sắc nơi thân tâm, chớ chẳng phải là Ta,
chẳng phải là chúng sanh nào cả.
2. Cái gì gây ra Khổ?Chính là sự bám niú, sự tham ái;
vì cố đeo chặt vào nên phải mãi chịu
khổ đau.
3.Tận diệt gốc Khổ sẽ được gì?
Hết Khổ thì được an lạc,
đó là cảnh Niết-bàn.
4. Làm sao để diệt Khổ? Tu
tập theo Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến
sự giải thoát hoàn toàn.
Trí Huệ Bát-nhã giúp ta phân biệt rõ bốn Thánh
đế, hướng dẫn ta tu tập theo bốn Thánh đế,
giúp ta vượt qua các chông gai dọc đường, và
đưa ta đến nơi an lành của bờ giác.
Ai ai cũng có Trí, được phú sẵn từ lúc ra
đời. Trí đó phát triển được là nhờ biết xử dụng
đến. Xử dụng đúng cách là theo con
đường Chánh Đạo. Càng bước theo con
đường Chánh Đạo, Trí Huệ càng khai
triển, thấy rõ mục tiêu giải thoát và cứu cánh an lạc
đang chờ mình ở cuối
đoạn đường.
Vấn đề cấp bách vẫn là: Bao
giờ mới dấn bước?
-ooOoo-