PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm hiểu về
Phẩm 3:
Đầu-đà
Chuyển tiếp: Trong Phẩm 2: Phân biệt về Giới, bản Luận văn
giải thích về Giới và cách giữ Giới sao cho thanh
tịnh. Trong Phẩm 3: Đầu-đà,
Luận văn chỉ rõ một hạnh nguyện
khắc khổ của bực tu hành xuất gia nhờ đó
mà việc thọ trì Giới sớm được
thành tựu.
016. Ý chánh của Phẩm 3: Đầu-đà.
Phẩm 3: Đầu-đà tiếp theo
Phẩm 2 nói về Giới, chính là để nêu
ra một đường lối tu tập nghiêm khắc,
cốt để giữ giới cho thật thanh
tịnh, đồng thời có nhiều triển vọng để
đắc được Định khi ngồi thiền, và nhờ
đó mà phát triển
được Trí huệ, soi sáng các bước
đi theo con
đường giải thoát.
Ý chánh trong Luận văn bắt đầu cho
biết các công đức của hạnh Đầu-đà
trước, kế tìm hiểu nội dung của mười ba hạnh
Đầu-đà, cách thọ trì cùng sự châm
chước, ai có thể tu hạnh nầy được và
đạt được hiệu quả diệt tham dục, phá si mê
và sau cùng nói đến hình tướng, sự
khởi phát và công dụng.
Nói lại cách khác cho gọn hơn về ý chánh
đó, Phẩm 3: Đầu-đà dạy
mười ba hạnh tu khắc khổ, trước để giữ
giới cho thật thanh tịnh, sau diệt
được sự tham dục và làm mỏng
bớt sự si mê, để mạnh tiến theo
con đường giải thoát.
017. Dàn bài của Phẩm 3: Đầu-đà.
I. Nhập đề: Các ích lợi
do sự tu tập theo hạnh đầu-đà
mang lại: khéo giữ Giới, sớm đắc
Định, phát triển Huệ.
II. Thân bài:
1) Mười ba hạnh Đầu-đà gồm
có những gì?
11. Hai pháp về y phục:
111. Phấn tảo y và tam y
112. Cách thọ trì và ích lợi
12. Năm pháp về ăn uống:
121. Khất thực hằng ngày;
122. Khất thực theo thứ lớp;
123. Chỉ một lần ngồi ăn;
124. Khéo đo lường bữa ăn;
125. Quá giờ chẳng ăn .
13. Năm pháp về ngồi và về chỗ
ở:
131. Ngồi nơi nhàn tịnh;
132. Ngồi dưới bóng cây;
133. Ở chỗ trống chẳng che lợp
134. Ở nơi mồ mả;
135. Ở tùy chỗ gặp được.
14. Một hạnh về tinh tấn: luôn ngồi chẳng nằm
2) Các châm chước trong sự thọ trì.
3) 13 hạnh Đầu-đà qui về tám
pháp và ba pháp.
4) Ba hạng người tu theo hạnh Đầu-đà.
5) Thuyết giảng về hạnh Đầu-đà.
III. Phần chót: Tướng, vị, khởi và các giai
đoạn của hạnh Đầu-đà.
018. Giải nghiã chữ khó trong Phẩm 3:
Đầu-đà.
Đầu-đà: phiên âm từ chữ Pàli Dhuta, còn tiếng Phạn là
Dhudanga, có nghiã là hạnh tu khắc khổ,
để thực hiện sự dứt bỏ các tham dục (= ham muốn được vui, đủ tiện nghi).
Hạnh: ở đây có nghiã là hạnh
nguyện, tức là đường lối tu hành
được người tu sĩ phát lời nguyện tuân theo
suốt đời. Như đã biết, Giới khác với Hạnh, ở chỗ là
giới là điều luật Đức Phật đặt ra
trong Luật tạng mà người liên hệ phải tuân hành, nếu không thì vi
phạm kỷ luật, bị trừng phạt. Còn Hạnh thì do theo lời phát nguyện
cá nhơn, chẳng có tánh cách bó buộc từ bên ngoài; vì muốn theo một
đường tu được ấn định sẵn, nên tự
nguyện tuân hành và khép mình vào khuôn khổ.
Khắc khổ: chịu đựng sự kham khổ, thiếu
tiện nghi, với mục đích kềm chế thân
để giữ vững tâm.
Tham ái: Tham = ham nhiều; ái = thương, thích. Ráp
hai chữ lại, tham ái có nghiã chẳng
được tốt, chỉ sự ham muốn quá mức. Đồng nghiã với chữ khát ái,
thèm khát quá mức.
Trang bị: Trang = sửa soạn hành lý, tô
điểm; Bị =
đầy đủ. Trang bị là tìm cho
đầy đủ, sẵn sàng các sự vật cần thiết.
Nhàn tịnh: Nhàn = an nhàn, chẳng bận bịu công việc, vắng vẻ;
Tịnh = yên tịnh. Nói Nơi nhàn tịnh là muốn nói
đến nơi ít người qua lại, chẳng ồn ào,
khiến người tu hành được yên ổn, chẳng
bận rộn. (Nguyên văn trong Luận văn là
vô sự xứ).
Tinh tấn đõng mãnh: Tinh tấn
= cố gắng, nỗ lực; dõng mãnh = mạnh mẽ, hùng mạnh. Ý nói sự cố
gắng lên cao.
Nạp y: Nạp = thầy tu, tiếng khiêm nhường của người tu hành
tự xưng. Y = áo, quần áo, y phục. Nạp y = áo thầy tu.
Chánh thọ: Chánh = chơn chánh; thọ = thọ nhận. Nhưng
chữ chánh thọ theo nghiã chuyên môn thiền học, là tình trạng tâm
vào định (khi các ý tưởng dừng
lại, gom vào đề mục quán tưởng). Lại nữa, chữ
chánh thọ còn dành để chỉ đến tình
trạng định cao cấp ở bực
Diệt thọ tưởng định (Các Phẩm sau
về Thiền sẽ nói rõ).
Mỹ vị: Mỹ = đẹp khéo, ngon;
Vị = hương vị của thức ăn.
Mỹ vị là thức ăn ngon, qúi.
Chiêm ngưỡng: Chiêm = trông vào; Ngưỡng = ngẩng lên
trông. Chiêm ngưỡng là ngắm nhìn và thán phục.
Của bố thí chẳng được trong sạch:
dịch chữ Bất tịnh thí: vì vật dưng hiến do hành
động bất chánh mà có, hoặc do kẻ bất
lương đem cúng.
Trù lượng: Trù = trù tính, tính trước; Lượng = số
lượng ít nhều vừa đủ mà thôi.Trù
lượng là tính trước cho vừa đủ.
Vô độ: Vô = chẳng;
Độ = mức
độ, chừng độ; Vô
độ là quá mức, thái quá, thiếu sự
tiết chế.
Vọng tưởng: Vọng = hư ảo, sai sự thật; Tưởng = ý
tưởng. Vọng tưởng là ý tưởng vọng cầu, chẳng
đúng với sự thật. Khi ngồi thiền, có những ý
tưởng bông lông, đó cũng gọi là vọng tưởng.
Huyên náo = nơi có tiếng ầm ĩ, ồn ào.
Thập chủng ngữ: mười loại lời nói. Thú thật, ngoài lời nói dịu
dàng, đúng theo Chánh pháp ra, tôi chẳng biết
đầy đủ mười loại ngôn ngữ đã khiến cho Trời Người
đều khen ngợi.
Niệm về sự chết = chữ Hán Việt là tử niệm, tức là sự suy
nghĩ về cái chết, luôn tưởng đến cái chết rồi
sẽ đến với mình mà chăm chỉ tu hành
tinh tấn hơn lên.
Từ bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ.
Châm chước: gia giảm, thêm bớt thế nào cho nhẹ
đi, bớt khắt khe chút ít, để dễ bề tuân theo
mà khỏi vi phạm. (Bản dịch Hán văn đã
dùng chữ Phương tiện).
Lễ dâng y: thường vào mùa Vu Lan (rằm tháng Bảy âm lịch), có tổ
chức lễ Dâng Y (Pàli gọi là lễ Kathina)
để thiện nam, tín nữ dâng hiến áo cà-sa
lên Tăng ni.
Lễ Bố tát: tiếng Pàli là Uposatha, là lễ tổ chức mỗi
đầu tháng và giữa tháng,
để đọc tụng lại Giới bổn. Đây là dịp
để tu sĩ nào lỡ phạm giới thì xin sám
hối.
A-xà-lê: tiếng Pàli: Àcariya, là vị thầy dạy giáo lý cho các
tu sĩ, còn gọi là vị Giáo thọ.
Hứa khả: hứa nhận, cho phép, chấp thuận.
An cư: ở yên. Tại đây, chữ
muà An cư là mùa mưa, côn trùng sanh sản nhiều, nên chư Tăng
chẳng đi khất thực sợ lỡ đạp chết chúng. Trong mùa An cư, chư Tăng
ở lại chùa để lo tu học thêm.
019. Suy gẫm về Hạnh Đầu-đà.
1) Hạnh Đầu-đà và Khổ hạnh khác
nhau.
Hạnh Đầu-đà và lối tu Khổ hạnh có
chỗ giống nhau vì cả hai đều áp dụng kỷ luật
nghiêm khắc, nhưng lại khác nhau vì một
đằng, hạnh Đầu-đà do
Đức Phật đặt ra để cho các tu sĩ theo đó mà
giữ giới được thanh tịnh; còn
đằng kia là Khổ hạnh do các phái ngoại
đạo đề xướng với mục đích ép xác, lầm tưởng
rằng càng hành hạ thân thể càng nhiều bao nhiêu thì phần tâm linh
càng được sớm giải thoát bấy nhiêu.
Theo truyền thuyết, khi Thái tử Tất-đạt-ta
(Pàli Siddhatta) còn chưa đắc
đạo, Ngài tu theo Khổ hạnh, mỗi ngày chỉ
ăn một ít hột mè
để nuôi thân, nên cơ thể tiều tụy, cho
đến khi bị ngất xỉu, nhờ có nàng thôn
nữ Sujàta dâng bát sữa, Ngài mới tỉnh lại và nhận ra khổ hạnh chẳng
đưa đến giác ngộ và giải thoát.
Thấy Ngài cầm bình bát đi khất thực trở lại,
và ăn uống đầy đủ, năm người bạn đồng
tu là nhóm anh em ông Kiều trần như mới chê và bỏ
đi. Đến khi thành
đạo, Đức Phật tìm
đến vườn Lộc uyển, để giảng Kinh Chuyển Pháp
Luân cho năm người bạn đạo cũ nghe, mà
đoạn mở đầu của Kinh vạch rõ hai con
đường cực đoan (= chỗ
quá mức) nên tránh: một bên là lợi dưỡng, "đắm
say các dục hạ liệt, đê tiện, phàm phu... chẳng liên hệ
đến mục đích", một bên là khổ
hạnh,"tự hành khổ mình, khổ đau, chẳng
xứng bực Thánh, chẳng liên hệ đến mục
đích".
Khổ hạnh của ngoại đạo mê tín, vào
thời Đức Phật, thường là tu ngồi xổm
cả ngày đêm, tu loã thể chẳng mặc quần
áo, trôi trét tro bùn vào thân, để móng tay dài
chẳng dám cắt ngắn, nằm ngồi trên bàn chông nhọn, v.v.
Tôn giả Đại Ca-diếp (Maha
Kassapa) là người đệ tử được Đức
Phật khen là bực nhứt về hạnh Đầu-đà.
Tôn giả là vị thừa kế Đức Phật để cầm đầu
Tăng đoàn, sau khi Đức Phật nhập
Niết-bàn và là Sơ tổ của Thiền tông Ấn
độ.
Vậy, đừng tưởng lầm hạnh
Đầu-đà chỉ là khổ hạnh dành cho
bực xuất gia.
2) Hạnh Đầu-đà tuy dành riêng
cho bực xuất gia, nhưng tinh thần của hạnh
Đầu-đà lại có thể ứng dụng cho các cư sĩ tu tại gia.
Mười ba hạnh Đầu-đà qui
định rõ lối sống của người tu sĩ khép
mình trong kỷ luật nghiêm khắc. Như đã
đọc qua, có hai pháp về quần áo, năm pháp về
ăn uống, năm pháp về nơi cư trú và một pháp về tinh tấn: chẳng nằm.
Mục đích là khép mình vào giới luật
một cách chặt chẽ, để giữ Giới cho thật
thanh tịnh. Tại sao? Vì nhờ có Giới thanh tịnh, thân tâm an lạc, dễ
vào Định khi ngồi Thiền, rồi phát triển Trí
Huệ, soi rõ thêm con đường
giác ngộ, giải thoát đang lần bước noi
theo.
Ứng dụng cho người Phật tử tại gia, tinh thần của hạnh
Đầu-đà chú trọng
đến:
21. về hạnh phấn tảo y và tam y: diệt trừ sự tích trữ y phục,
dẹp bỏ sự ham chuộng trang sức cho đẹp bề
ngoài;
22. về các hạnh khất thực, chỉ ngồi
ăn một lần, quá giờ chẳng ăn: diệt trừ mối tham ái về
ăn uống, bỏ lối chạy đôn đáo đi tìm
thức ăn ngon, ăn uống có tiết độ, đúng giờ,
chẳng ăn quà vặt;
23. về các hạnh liên quan đến nơi cư
trú: dẹp bỏ sự quyến luyến vào nhà cửa, trừ bỏ sự
đòi hỏi cho
đầy đủ mọi tiện nghi, tập tánh ít muốn và
biết đủ;
24. về hạnh luôn ngồi chẳng nằm: dứt bỏ
được sự lười biếng.
Theo đúng tinh thần đó, thì giới
hạnh giữ được trọn vẹn, tập được
thiểu dục tri túc, dứt được
khát ái, bỏ tham luyến, và tinh tấn dõng mãnh, lià xa sự
giải đãi, phóng dật.
Đó là các
điều căn bản về thân cần hội
đủ, để tâm an lạc mà vào
Định khi ngồi Thiền. Như thế, các hạnh
Đầu-đà giúp cho hành giả rất nhiều
trong việc tu Định và Huệ.
3) Thắc mắc thứ nhứt: Hạnh khất thực hằng ngày của tu
sĩ phải chăng một hình thức sống nhờ
vả vào kẻ khác, chẳng tự mình làm việc để mưu
sanh lấy? Đáp: Xin
đừng có hiểu lầm vì
đây là một hạnh cao qúi,
đã được
Đức Phật nhắc đến trong kinh Pháp Cú, trích dẫn như sau:
... "Thuở ấy, trong một dịp trở về viếng thăm
lại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu),
Đức Phật ngụ tại chùa Cây Sung; nơi
đây Ngài
đem Chánh pháp ra giảng dạy cho thân nhơn
trong dòng họ Thích-ca. Đức Vua Tịnh
Phạn (Suddhodana) nghĩ rằng thế nào
Đức Phật cũng đến hoàng cung, nên
chẳng thỉnh Đức Phật, mà lại lo
chuẩn bị thức ăn cho hơn cả ngàn
Tỳ-kheo, để chờ Đức Phật đến.
Sáng sớm hôm ấy, công chúa Gia-du-đà-la
(Yasodhàra, vợ của Thái tử Tất-đạt-ta),
nhìn qua khung cửa sổ, thấy Đức Phật
đang mang bình bát đi khất thực từng
nhà. Công chúa vội đi báo với Vua Tịnh
Phạn. Vua Cha tức tốc chạy đến bên Đức
Phật, bảo rằng, thật là nhục nhã cho một người dòng Sát-đế-lợi
(Khattiya, giai cấp vua chúa) mà phải
đi ăn xin từng nhà.
Đức Phật đáp lại rằng, khất thực là
một hạnh cao qúi, được tất cả chư Phật
trong ba đời thi hành, nên nay Ngài tuân theo hạnh
đó, là giữ
đúng truyền thống, có chi đâu là nhục
nhã.
Rồi Đức Phật nói lên hai bài Kệ sau
đây:
Hãy hăng hái và
đừng phóng dật,
Mà lãng xao hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau.
(Kệ số 168)
Đừng theo tà hạnh mà phóng dật,
Hãy nghiêm trì hạnh khất sĩ nầy.
Trang nghiêm chánh hạnh hành trì,
Thế gian hưởng lạc đời nầy, đời sau..."
(Kệ số 169).
Như thế, vì muốn Tỳ-kheo phải chịu nhẫn nhục bưng bình bát
đến xin từng nhà, gieo duyên lành với
dân chúng, mà hạnh khất sĩ được đặt
ra, trước giúp Tỳ-kheo dứt được sự tham luyến về vật thực, sau để cho dân
chúng có dịp tạo phước đức bằng cách cúng thí cho tu sĩ.
Ngày nay, chỉ có các nước theo Phật giáo Nam tông còn giữ
được hạnh khất sĩ. Mỗi sáng,
đứng nhìn hàng tu sĩ uy nghi trong bộ
cà-sa màu vàng, bưng bình bát, chờ được bố
thí, chẳng khỏi khởi lòng xúc động
trước cảnh trang nghiêm đó!
4) Thắc mắc thứ hai: Hạnh Đầu-đà
thứ 10: ở chỗ trống chẳng có che lợp và hạnh thứ 11:
ở nơi mồ mả, ngày nay chẳng thể nào thực hành
đúng được, vì lẽ thời tiết và qui
luật. Vì thời tiết ướt át mưa dầm, chẳng thể ở mãi chỗ chẳng có che lợp;
vì qui luật thành phố, chẳng thể đi vào
nghiã địa đã
đóng cổng từ lúc mặt trời lặn.
Đáp: Đúng vậy! Nếu chẳng thực hành
được đúng theo như thời xưa ở Ấn độ, nhưng ngày
nay, vẫn có thể thi hành hai hạnh đó,
theo đúng tinh thần Đầu-đà:
- hạnh thứ 10 cốt ở chỗ diệt lòng quyến luyến về chỗ cư trú,
tánh ham trang hoàng nhà cửa cho thật sang, thật
đẹp, để hãnh diện với xóm riềng.
Ngày nay, những người có trách nhiệm về tài chánh trong một tự viện, nên
nghĩ đến việc mở mang phòng ốc thêm
cho tăng ni trú ngụ, mở phòng
đọc sách cho thanh niên Phật tử,
trang bị tủ sách Phật học cho các đạo hữu,
hơn là lo xây cổng chùa bên ngoài cho
đẹp, hoặc thiết lập thật nhiều tượng Phật
trong vườn chùa.
- hạnh thứ 11 ở nơi mồ mả, nên để
hạnh thứ 8 ngồi nơi nhàn tịnh thay thế. Chẳng có phương
tiện chuyên chở để đến những nơi yên
vắng trong rừng, trên núi, hoặc ngoài bãi biển, nhưng người Phật tử,
ngay trong căn nhà chật hẹp của
mình, cũng có thể có một chỗ ngồi nhàn tịnh,
để tỉnh tâm, để ngồi thiền. Chẳng cần phải
trang hoàng khung cảnh chung quanh chỗ ngồi, chỉ cần trang trí
ngay bên trong tâm bằng cách dứt mọi lo toan hằng ngày
trong mười phút, nửa giờ ngồi xếp bằng trầm tư cũng
đủ lấy lại bình thản cho tâm hồn,
trong khi mọi người khác đang an giấc.
5) Vài đề nghị với người tu tại nhà,
liên quan đến việc ứng dụng tinh
thần hạnh Đầu-đà:
51. Vấn đề mặc:
511. Chỉ cần giữ lại chừng năm, sáu bộ
quần áo, các y phục cũ, xin gọi điện thoại đến các Cơ quan từ thiện để
gởi tặng cho các người đang cần đến;
512. Muà đông, chẳng cần mặc áo lông
chồn, mang giầy hải cẩu, áo vải nylon dồn bông cũng đủ ấm.
513. Dưới gầm giường chẳng phải là kho
để chứa giầy dép; xin đừng bắt chước vị đệ nhứt phu nhơn kia có tới
gần hai ngàn đôi giầy cao gót!
52. Vấn đề ăn:
521. Nên tự đặt nguyên tắc cho
chính mình: ăn đến chén thứ ba, đừng ăn gì
thêm nữa. Tránh được phì nộn.
522. Ngoài bữa ăn chánh ra, chẳng ăn
quà vặt, nhứt là "chip", và
đừng nhai kẹo cao su (hãy tỏ lòng xót thương
đến hàm răng)
524. Ăn chay phải đúng ngày,
chẳng có việc châm chước ăn bù vào
ngày khác (sai mất kỷ luật tuân giới sát sanh).
Đừng bao giờ nghĩ trong bụng,
tối rồi, Phật ngủ, ăn một chút có làm
sao! Giữ Giới là giữ cho mình, giữ cho thanh tịnh, chớ nào phải sợ
Phật quở phạt chi đâu!
525. Vừa uống nước xong, thấy có bánh ngọt mang lên,
đừng ăn thêm mặc dầu
được mời mọc.
53. Vấn đề ở:
531. Đi cắm trại, chớ mang nệm theo,
túi ngủ là đủ, thử tập sống thiếu
tiện nghi vài hôm, coi đã
ra sao?
532. Chẳng ngủ trưa, nằm nghỉ mươi phút, thở dài hơi trong chánh
niệm.Tu sĩ theo hạnh Đầu-đà
đâu có nằm!
533. Từ nhà đến trạm xe buýt, xe điện
hầm cách xa chừng năm trăm thước, mùa
đông cứ đi bộ, đừng đi xe; vừa đi vừa
tưởng như đang đi thiền hành trên núi tuyết. Các tu sĩ ngày xưa
theo hạnh Đầu-đà còn
đi xa hơn, để khất thực.
6) Xin ghi nhớ:
Hạnh Đầu-đà tuy
được Đức Phật đặt ra để cho các Tỳ-kheo ngày
xưa tu tập, hầu giữ vẹn giới hạnh, nhưng vào thời buổi nầy, các
Phật tử vẫn còn có thể ứng dụng đúng theo
tinh thần hạnh Đầu-đà
trong nếp sống hằng ngày.
- Tinh thần Hạnh Đầu-đà: Thiểu
dục, Tri túc (Ít muốn, biết đủ)
-ooOoo-