Quyển Ba
Phẩm 6:
Phân biệt Tánh hạnh
Vào thời đó, vị A-xà-lê (= giáo
thọ) mà người đệ tử theo học, sau nhiều ngày
quan sát tánh hạnh của người đệ tử,
mới định đường lối sẽ chỉ dạy cho y.
Như thế, có tất cả mười bốn loại tánh hạnh: tánh hạnh ham muốn,
tánh hạnh giận hờn, tánh hạnh ngu si, tánh hạnh tin tưởng, tánh hạnh ý
trí, tánh hạnh hiểu biết, tánh hạnh ham và giận, tánh hạnh ham và ngu,
tánh hạnh giận và ngu, tánh hạnh đồng phần (=
cả ham giận và ngu), tánh hạnh tin tưởng và ý trí, tánh hạnh tin
tưởng và hiểu biết, tánh hạnh ý trí và hiểu biết, tánh hạnh
đồng phần (= cả tin, ý và hiểu biết).
Lại nữa, ái kiến (= ý ham thích) làm thay
đổi tánh hạnh, điều nầy có thể biết được. Vì ý tưởng tham muốn thúc
đẩy cứ bám níu vào sự ưa thích nên bị
ràng buộc, khiến cho các loại tánh hạnh đều
chẳng khác nhau ở chỗ bám níu đó.
Do ý nghiã của các hành động (nơi tánh
hạnh), nên phân biệt được thành
ra mười bốn hạng người, tương ứng với các tánh hạnh kể trên: người
có tánh hạnh ham muốn, người tánh giận, người tánh ngu, người tánh tin
tưởng, người tánh ý trí, người tánh hiểu biết, người tánh ham và giận,
người tánh ham và ngu, người tánh giận và ngu, người tánh
đồng phần (tánh ham giận ngu), người tánh ý
trí và tin tưởng, người tánh tin tưởng và hiểu biết, người tánh ý
trí và hiểu biết, người tánh đồng phần (tánh
ý tin biết).
Sự ham muốn, cùng sự ham muốn của sự ham muốn, khiến cho tánh hạnh ham
muốn đòi hỏi
được vui thêm lên. Như thế, nơi người
có tánh hay ham muốn, các hành động ham muốn
càng làm tăng sự ham muốn thêm
lên, đó là tánh hạnh ham muốn vậy. Tất
cả các tánh hạnh khác cũng nên phân biệt theo như
đường lối nầy.
Vào thời đó, mười bốn hạng
người có tánh hạnh khác nhau đó, có thể
tóm lược lại thành bảy hạng người. Như thế, người tánh ham
muốn và người có tánh tin tưởng thành một hạng. Người tánh giận cùng người
tánh ý trí thành một hạng. Người tánh ngu và người tánh hiểu biết thành
một hạng. Người tánh ham muốn và hay giận cùng người có tin tưởng và ý trí
thành một hạng. Người tánh ngu và hay ham muốn cùng với người tin tưởng và
hiểu biết chung nhau thành một hạng. Người tánh ngu và hay giận cùng với
người tánh ý trí và hiểu biết hợp thành một hạng. Còn hai hạng có tánh
đồng phần cũng xếp chung nhau thành
một hạng.
Hỏi: Tại sao người tánh ham muốn cùng người tánh
tin tưởng lại thành một hạng?
Đáp: Người có tánh ham muốn nếu ham thích
điều thiện lành thì lòng tin tưởng
được tăng trưởng, vì lòng ham muốn vốn
gần gũi với đức tánh ấy.
Lại nữa, do ba hành động mà
tánh ham muốn cùng lòng tin tưởng giống nhau, cấu thành một tướng; ba hành
động đó có ý nghiã là (1) niệm (= nghĩ
nhớ đến), (2) tầm cầu công đức và (3)
chẳng xả bỏ. Do đó, người hay ham muốn thì
thường niệm về ham muốn; người tin tưởng thường niệm về
điều lành; người ham muốn tầm cầu công
đức của sự ham muốn; người tin tưởng tầm cầu
công đức của việc lành; người hay ham muốn chẳng xả bỏ các
điều có tướng chẳng khả ái, còn người
tin tưởng thỉ chẳng xả bỏ các điều có tướng
khả ái. Bởi thế cho nên, tánh hay ham muốn cùng tánh hay tin tưởng
hợp thành một tướng vậy.
Hỏi: Tại sao tánh hay giận và tánh có ý trí lại cùng
một loại?
Đáp: Người tánh hay giận, nếu siêng làm
điều thiện, thì trí càng tăng
trưởng, vì tánh hay giận vốn gần với công
đức ấy.
Lại nữa, do ba hành động mà
tánh hay giận và tánh có ý trí giống nhau cấu thành một tướng; ba hành
động đó có ý nghiã là: (1) chẳng
thường nhớ nghĩ đến (= chẳng niệm), (2) tầm
cầu chỗ lỗi lầm, (3) lià bỏ. Do đó,
người tánh hay giận thường chẳng niệm các đìều tốt, còn người tánh
ý trí thường chẳng niệm các điều xấu. Người
hay giận thường vạch tìm các chỗ đáng
giận, còn người trí thì vạch tìm chỗ sơ sót các
điều chẳng lành. Người hay giận thường
xả bỏ về người, còn người trí thì thường xả bỏ về hành
động. Bởi thế cho nên, người tánh hay
giận và người tánh có ý trí giống nhau hợp thành một tướng.
Hỏi: Tại sao người tánh ngu với người tánh hiểu biết
lại thành một hạng?
Đáp: Người tánh ngu nếu siêng làm việc thiện thì sự hiểu
biết được tăng trưởng, vì sự ngu si
vốn gần gũi với đức tánh nầy, do nhờ khởi
động niềm tin và trí tuệ, mà lìa được
chỗ ngu si.
Lại nữa, do hai hành động mà
sự ngu si với sự hiểu biết trở thành một tướng;
đó là (1) chẳng ổn cố, (2)
động. Sự ngu si thì chẳng yên ổn, nên
chẳng ổn cố. Sự hiểu biết cũng chẳng an ổn vì nhớ nghĩ
đến nhiều loại tư tưởng khác nhau. Sự ngu si
chẳng có nơi qui hướng nên trở thành
động; còn sự hiểu biết trở nên khinh an, cũng thành
động. Bởi thế cho nên, cả hai sự ngu
si và sự hiểu biết trở thành một tướng.
Do phương tiện phân biệt các tánh hạnh vừa xét qua, các tánh hạnh còn
lại có thể sắp xếp lại thành bảy loại, và do
đó có bảy hạng người kể trên.
Thế nào là tu hành mau?
Thế nào là tu hành chậm?
Người tánh ham muốn thì tu hành mau, dễ giáo hoá nhờ sẵn có tín lực
mạnh, bởi vì nơi người ấy, sự ngu si và sự hiểu biết
đều có khắp cả.
Người tánh hay giận thì tu hành mau, dễ giáo hoá nhờ sẵn có ý lực mạnh,
bởi vì nơi người ấy, sự ngu si và sự hiểu biết
đều có khắp cả.
Người tánh ngu tu hành chậm, khó mà giáo hoá, bị sẵn có sức hiểu biết
sẵn còn ngu si, bởi vì nơi ngưòi ấy, sự tin tưởng và ý trí
đều có khắp cả.
Người tánh ham muốn và hay giận thì tu hành mau, dễ giáo hoá nhờ sẵn có
sức mạnh của ý trí và sự tin tưởng, bởi vì nơi người ấy, sự hiểu biết cùng
sự ngu si đều có khắp cả.
Người tánh ham muốn và ngu si thì tu hành chậm, khó giáo hoá vì chẳng
tin tưởng, và sức hiểu biết còn ngu si.
Người tánh hay giận và ngu si thì tu hành chậm, khó giáo hoá vì thiếu ý
trí, và sức hiểu biết còn ngu si.
Người tánh đồng phần (tánh ham giận ngu
bằng nhau) thì tu hành chậm, khó giáo hoá, vì ý trí chẳng an trú,
lại sẵn có sức hiểu biết còn ngu si.
Vào thời đó, bảy hạng người kể
trên do các phiền não căn bản mà
thành ra ba hạng người: người tánh hay ham muốn, người tánh hay
giận hờn, người tánh hay ngu si.
Hỏi: Do nhân duyên nào có ba hạng tánh người như trên
đây? Làm sao
để biết được người tánh hay ham muốn, người
tánh hay giận hờn, người tánh hay ngu si? Làm cách nào
để phân biệt được họ xuyên qua cách họ
mặc áo, đi khất thực, nằm ngồi và oai
nghi trong các hành động?
Đáp: Làm nhân duyên cho các tánh hạnh: (1) do
nhân duyên của các hành động trong quá khứ;
(2) do giới (nguyên tố, tứ đại); (3)
do các lỗi lầm.
Hỏi: Thế nào là do nhân duyên của các hành
động trong quá khứ?
Đáp: Thuở xa xưa, do những phương tiện dễ mến, tạo nên
được nhiều thiện nghiệp, thành người
tánh hay ham muốn, rồi sau từ trên cõi thiên
đường sanh xuống cõi nầy.
Chém giết nhiều, còng trói, dùng lắm khí giới, tạo nên oán nghiệp,
thành người tánh hay giận hờn phải sa vào điạ
ngục, hoặc sanh thành rồng, rồi sau từ chốn ấy tái sanh vào cõi
nầy.
Xưa uống rượu nhiều, gây sư ly gián, thành người tánh hay ngu si, rồi
sau từ cõi súc sanh tái sanh vào cõi nầy.
Như thế, các hành động trong thời quá khứ
tạo nên nhân duyên cho tánh hạnh ngày nay.
Hỏi: Thế nào là giới (tứ đại) làm
nhân duyên?
Đáp: Bởi vì ở gần với hai giới nầy nhiều nhứt nên thành
người tánh ngu si; đó là
điạ giới và thủy giới (đất
và nước). Còn ở gần hai giới: hoả giới (lửa) và phong giới (gió)
nhiều nhứt, thì thành người tánh giận hờn. Nếu gần nhiều với bốn giới
đồng đều nhau thì thành người tánh hay
ham muốn.
Như thế, giới làm nhân duyên cho các tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là các lỗi lầm làm nhân duyên?
Đáp: Quá nhiều đàm dãi
thành người tánh hay ham muốn. Quá nhiều soi xét thành người tánh hay giận
hờn. Quá nhiều gió thành người tánh ngu si.
Lại có thuyết cho rằng, quá nhiều đàm
dãi thành người tánh hay ngu si; quá nhiều gió thành người tánh hay ham
muốn.
Như thế, các lỗi lầm làm nhân duyên.
Hỏi: Làm sao để có thể biết được
tánh hạnh của người nào hay ham muốn, người nào hay giận hờn,
người nào hay ngu si?
Đáp: Do bảy hành động
mà có thể biết được. Đó là: (1) do sự
vật, (2) do phiền não, (3) do cách đi, (4) do
cách nhận giữ, (5) do cách ăn, (6) do làm công việc, (7) do cách
nằm.
Hỏi: Thế nào là do sự vật mà biết
được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh hay ham muốn nhìn
đến một sự vật như thể là chưa hề thấy
vật đó lần nào; khi nhìn, anh thường
quán sát thiếu chân thực, chẳng lưu tâm đến
các ưu điểm nhỏ, thành ra ngã theo sự ham muốn; quan sát xong, anh
chẳng kềm giữ lại hành động để có thể thoát
được ham muốn. Đối vớí các sự vật khác, cũng lại hành
động như thế, khiến ta có thể nhận biết ra
được người nào tánh hay ham muốn.
Người tánh hay giận nhìn đến sự vật như
thế nầy: anh chẳng thể nhìn lâu, như thể là
đang mỏi mệt; cố chấp vào các lỗi lầm
nên thường hay hủy báng kẻ khác; ngay nơi có nhiều công
đức anh cũng khó nhìn thấy ra,vì cứ
ghìm lấy các chỗ lỗi lầm. Đối với các sự vật
khác, cũng lại hành động như thế, do
đấy ta có thể phân biệt biết được người tánh hạnh hay giận.
Người tánh ngu si nhìn đến sự vật như thế
nầy: nơi có công đức hay nơi có lỗi lầm, anh thường tin theo kẻ khác, nghe
kẻ khác chê, chê theo; nghe kẻ khác khen, khen theo; chẳng tự mình
biết lấy. Các việc khác, lại cũng hành động
như thế; do đó có thể nhận biết người nào tánh hạnh ngu si.
Như thế, do sự vật mà biết được tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là do phiền não mà biết
được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh ham muốn thường hành
động theo năm món phiền não: ganh
ghét, keo kiệt, huyễn hoặc, nịnh nọt, tham muốn.
Đó là năm.
Người tánh giận hờn thường hành động theo
năm món phiền não: giận, hờn, che đậy,
buồn phiền, oán ghét. Đó là năm
Người tánh ngu si thường hành động theo
năm món phiền não: lười biếng, buông lung, nghi ngờ, hối hận, ngu
si. Đó là năm.
Như thế, do các phiền não, có thể biết
được tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là do cách đi
mà biết được tánh hạnh?
Đáp: Cách đi thường của người
tánh ham muốn như sau: bước đi nhanh, giở chơn lên, hạ chơn xuống,
bước đều bước, dáng đi dễ mến. Như thế, theo
cách đi mà biết được tánh người ham
muốn.
Cách đi thường của người hay giận hờn như
vầy: gấp giở chơn lên, gấp hạ chơn xuống, nửa chừng hai chơn
đụng nhau như cào
đất. Như thế, theo cách đi mà biết
được người tánh hay giận hờn.
Cách đi của người tánh ngu si như vầy: kéo
lê sát đất giở chơn lên, hạ
chơn xuống cũng kéo lê sát đất, hai chơn đụng
vào nhau. Như thế, theo cách đi mà
biết được người tánh ngu si.
Như thế, do cách đi mà phân biệt
được tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là do cách mặc áo biết
được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh ham muốn khi cầm áo chẳng nhìn nhiều, mặc áo
vào chẳng quá thấp, ngay thẳng tròn trịa, trông
đẹp và khả ái.
Người tánh hay giận mặc áo quá gấp gáp, cao quá, chẳng tròn thẳng,
trông chẳng đẹp và khó coi.
Người tánh hạnh ngu si mặc áo quá chậm chạp, chẳng tròn thẳng, trông
chẳng đẹp chút nào và rất khó coi.
Như thế, theo cách mặc áo, có thể biết
được tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là do cách ăn
biết được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh ham muốn thích món béo, ngọt; người tánh
giận hờn thích mời mọc; người tánh hay ngu si có sở thích chẳng nhứt
định.
Lại nữa, người tánh ham muốn, đến giờ ăn,
tự lượng sức mình lấy vừa đủ thức ăn,
ăn từng miếng nhỏ tròn, chẳng ăn mau,
biết được hương vị thức ăn, nếu gặp món chẳng ngon, cũng vẫn thưởng thức.
Người tánh hay giận khi ăn lấy nhiều thức
ăn, nhai đầy miệng, nếu gặp món chẳng ngon, thường khởi phiền giận.
Người tánh hay ngu si khi ăn lấy ít thức
ăn, miếng ăn chẳng tròn khi nuốt, vật thực dính miệng, nửa vào
họng, nửa rơi xuống mâm;loạn tâm chẳng giữ chánh niệm trong khi dùng bữa.
Như thế, do cách ăn mà biết
được tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào do làm việc mà biết
được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh hạnh ham muốn khi quét sân
đứng thẳng người, cầm chổi quét chẳng quá
nhanh, chẳng bốc bụi đất cát, mà quét
được sạch sẽ.
Người tánh hay giận khi quét sân, cầm chổi quét nhanh hai bên, bốc bụi
đất cát, gây tiếng động, tuy sạch sẽ nhưng
chẳng được đồng đều.
Người tánh hạnh ngu si khi quét sân, cầm chổi quét chậm chạp, tuy quét
hết cả nhưng có chỗ chưa sạch, chẳng được
đồng đều.
Còn những công việc như giặt gyạ, nhuộm quần áo, vá may, người tánh ham
muốn thì làm một cách đồng đều, chẳng để tâm
đi buông lung. Người tánh hạnh hay giận làm những việc ấy chẳng
đồng đều, nhưng chẳng để tâm đi lang bang.
Người tánh ngu si tâm hay loạn động, thưòng làm việc chẳng thành.
Như thế, do công việc làm mà biết được
tánh hạnh.
Hỏi: Thế nào là do nằm ngồi mà biết
được tánh hạnh?
Đáp: Người tánh ham muốn khi ngủ, dọn giường chẳng hối hả,
sắp xếp ngay thẳng, đều đặn, thân nằm yên
hai tay co vào trong; nửa đêm có ai
gọi, thì thức ngay và đáp ngập ngừng.
Người tánh hay giận thường ngủ gấp, gặp
được chỗ nào thì nằm yên thân ngay nơi ấy, khi ngủ thì châu mày;
nửa đêm có ai gọi, liền tỉnh giấc và
giận đáp.
Người tánh hạnh ngu si giường chiếu chẳng ngay thẳng, chỉ
đắp mình còn tay chơn thò ra ngoài;
nửa đêm nếu có ai gọi thì ư ư một lúc
lâu, mới đáp.
Như thế, do sự nằm ngủ mà biết được tánh
hạnh.
Hỏi: Nên theo pháp nào để hành
động khi mặc áo, khất thực và ngụ
nơi trú xứ?
Đáp: Người tánh hạnh ham muốn nên mặc áo thô, chẳng
có màu sắc sáng chói. Người tánh hay giận nên mặc áo cẩn thận, sạch sẽ, có
màu sắc sáng. Người tánh hạnh ngu si tuỳ được
cho áo nào thì nên mặc áo ấy.
Người tánh hạnh ham muốn nên dùng món
ăn thô, đừng chọn các món mỹ vị, và
nên khất thực ít.Người tánh hạnh giận hờn có thể chọn món
ăn ngon, hương vị tốt, nhiều ít tùy
theo chỗ khất thực được. Người tánh hạnh ngu
si thì dùng các món khất thực được, nên
có sự tiết độ.
Người tánh hạnh ham muốn nên nằm ngồi dưới bóng cây, bên bờ
nước, trong vườn nhỏ tại thôn xóm xa vắng, nơi am thờ còn chưa hoàn tất,
chỗ chẳng có giừờng ngủ. Người tánh hạnh giận hờn nên nằm ngồi dưới bóng
cây, bên bờ nước, chỗ đất bằng phẳng, nơi am
đã hoàn thành, có đủ giường nằm ngủ.
Người tánh hạnh si mê cần nương nơi an trú của vị thầy mình.
Người tánh hạnh ham muốn nên ở nơi trú xứ có cơm nước thô sơ;
khi vào thôn xóm thì đi hướng mặt trời, theo
vào ngỏ nhà nghèo xấu. Người tánh hay giận nên ở nơi có
đầy đủ cơm nước, khi vào làng, chẳng
hướng phiá mặt trời, lựa xóm có nhiều kẻ kính tín. Ngưới tánh hạnh ngu si
thì tùy nơi gặp được.
Về uy nghi, người tánh hay ham muốn nên chú trọng thêm trong cách
đi đứng. Người tánh hạnh giận hờn nên
sửa lại uy nghi trong lối ngồi, nằm. Người tánh hay ngu si nên sửa lại uy
nghi trong khi đi.
Linh tinh:
Nhờ nơi cảnh giới khả ái, người tánh hạnh ham muốn
được tăng lòng tin tưởng. Người tánh
giận hờn tăng lòng tin tưởng nhờ biết
sống trong cảnh giới chẳng khả ái. Người tánh ngu si nhờ ít quán
tưởng về nhân duyên để tăng lòng tin
tưởng.
Người ham muốn như là kẻ nô lệ; người giận hờn như là kẻ học
trò; người ngu si như là chất độc.
Người tham ít bị lỗi lầm nhưng chẳng chịu
đoạn trừ cấu nhiễm (cấu =
bụi bặm; nhiễm = dính dơ; ở đây
chỉ các phiền não). Người tánh giận hờn tuy lỗi lầm nhiều nhưng
biết trừ cấu nhiễm. Người tánh si mê đã
nhiều lỗi lầm lại chẳng biết đoạn trừ các cấu
nhiễm.
Người tánh ham muốn ưa thích sắc dục. Người hay giận ưa thích
tranh cãi. Người tánh ngu ưa thích sự lười nhác.
-ooOoo-