PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm hiểu Phẩm 7:
Phân biệt Hành xứ
Chuyển tiếp: Trong sáu Phẩm vừa qua, Luận văn
nêu các sự chuẩn bị cần thiết của hành giả
để dấn bước trên con
đường giải thoát, như giữ Giới,
tập Định, tìm gặp Thiện
tri thức, quan sát tánh hạnh, v.v.
Đến Phẩm nầy và các Phẩm tiếp theo,
Luận đi sâu vào chi tiết của sự
thực hành.
Phẩm 7: Phân biệt Hành xứ liệt kê ra ba mươi tám
đề mục quán tưởng mà hành giả
cần lựa chọn để thực hành, cho
đến ngày
đạt được mục tiêu giải thoát.
040. Nhận định về danh từ: Hành
xứ, Hành môn.
Hai danh từ Hành xứ và Hành môn giống nhau ở chữ Hành,
khác nhau ở hai chữ Xứ và Môn. Phẩm 7
được gọi là Phân biệt Hành xứ;
còn Phẩm 8 được đặt tên là Hành
môn. Hai Phẩm Hành xứ và Hành môn
đó khác nhau ra sao?
Hành là sự thực hành, các thể thức thi hành, cách ứng dụng,
để đạt mục tiêu. Thực hành
đối ngược với Lý thuyết.
Xứ là nơi chốn, vùng hay phạm vi hoặc lãnh vực. Môn là cửa,
là chỗ để bước vào, là bước vào cửa
của sự thực hành.
Như thế, Hành xứ có nghiã là những lãnh vực thực hành; còn
Hành môn là những cửa, có nhiều ngõ, nhiều nẻo,
đều nằm trong Hành xứ. Nói cách
khác, Hành xứ bao trùm hết các Hành môn; tuy
đang đi qua các hành môn khác
nhau, nhưng vẫn còn đứng trong hành
xứ vậy.
Sở dĩ có sự phân biệt Hành xứ và Hành môn, là vì Luận văn,
dài hơn 300 trang, đã dành cho
việc thực hành trên 200 trang, gần hai phần ba của quyển Luận,
để nói lên: "Thực hành quan
trọng hơn là bàn lý thuyết suông."
041. Ý chánh và Dàn bài của Phẩm 7: Phân biệt Hành xứ.
Phẩm 7 liệt kê ba mươi tám đề mục quán
tưởng, gọi đó là Hành
xứ, có hiệu lực tối thắng, thấy rõ
được qua chín cách.
38 đề mục quán tưởng gồm có:
10 nhứt thiết nhập,
10 tưởng bất tịnh,
10 niệm,
04 tâm vô lượng,
04 quán tưởng: về tứ đại, về
thức ăn bất tịnh, về vô sở hữu xứ và về phi phi tưởng xứ.
9 cách để thấy rõ hiệu lực tối
thắng của 38 hành xứ là:
1) Thiền,
2) vượt thẳng,
3) tăng lên,
4) nhân duyên,
5) sự tướng,
6) thù thắng,
7) cảnh giới,
8) nắm giữ,
9) tánh hạnh người.
Các đề mục quán tưởng được nói ở
Phần thứ nhứt của Phẩm 7. Chín cách để
thấy rõ hiệu lực tối thắng của sự thực hành các hành xứ là Phần
thứ hai.
Phần Nhập đề rất giản dị: Sau
khi xét xong tánh hạnh của người đệ tử, vị
Thầy đem 38 đề mục quán tưởng ra dạy.
Chẳng thấy có Phần Kết luận trong Phẩm 7 nầy.
042. Tìm hiểu nghiã các chữ khó:
Quán tưởng: Quán = cũng đọc là
Quan, có nghiã là xem xét thật kỹ lưỡng; Tưởng = tư tưởng.
Quán tưởng là tình trạng của tâm đang
chú ý, quan sát, suy tư về một đối tượng.
Đề mục = đầu đề, đối tượng đang cứu xét, sự việc đang được nói đến.
Nhứt thiết nhập: Nhứt thiết = tất cả; Nhập = vào.
Tiếng Pàli là Kasina, có nghiã là toàn bộ, trọn phần, tất cả.
Nhứt thiết nhập là dụng cụ, hay phương tiện dùng làm
đối tượng để quán tưởng khiến cho tâm trí tập
trung lại và nhập vào Định.
Kasina còn được dịch là Biến xứ
(biến = khắp tất cả). (Phẩm 8 về Hành môn sẽ giải thích
rõ thêm và chỉ các cách tạo ra các nhứt thiết nhập, dựa theo
đó mà thực tập quán tưởng).
Không-xứ: Không = Hư-không, nơi trỗng rỗng và vắng lặng.
Thức xứ: Thức = sự hiểu biết. Thức xứ là phạm vi,
lãnh vực của Thức. Giáo lý Nam tông có sáu thức: nhãn thức (mắt),
nhĩ thức (tai), tị thức (mũi), thiệt thức (lưỡi), thân thức và ý thức.
Giáo lý Bắc tông thêm hai thức nữa: mạt-na thức (Pàli: mana, ý thức;
còn gọi là truyền tống thức), và a-lại-da thức (Pàli: Àlaya,
nhà, kho; còn gọi là tàng thức).
Tưởng bất tịnh: Tưởng = tư tưởng; Bất = chẳng;
Tịnh = sạch. Tưởng bất tịnh là những tư tưởng về các vật chẳng
được sạch và
đáng tởm.
Tưởng trùng hôi = tư tưởng bất tịnh khởi lên khi nhìn thấy các chỗ
bị loài trùng, bọ hôi thúi bám vào.
Niệm Giới = tưởng niệm đến Giới luật.
Niệm Thí = suy tư về sự bố thí.
Niệm an tịch: tư tưởng về sự vắng lặng. (Nguyên văn
trong bộ Luận là niệm tịch tịch.) (An = yên; Tịch
= vắng vẻ)
Tâm vô lượng: Tâm vô cùng rộng rãi, mở ra
đón nhận tất cả muôn loài, vạn vật.
Tứ đại: Tứ = bốn;
Đại = lớn, nguyên tố. Tứ
đại là bốn nguyên tố:
đất, nước, gió, lửa.
Vô sở hữu xứ: Vô = chẳng; Sở = chỗ; Hữu = có;
Xứ = nơi. Vô sở hữu xứ nghiã
đen là nơi chẳng có gì cả; nghiã về Thiền học là một cảnh giới cao
hơn Không-xứ, nhưng còn thấp hơn cõi Phi tưởng phi phi tưởng. (Ph. 8 sẽ
nói rõ các cõi nầy)
Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Phi tưởng = chẳng phải là tư
tưởng; Phi phi tưởng = chẳng phải chẳng phải là tư tưởng. Cõi
phi tưởng phi phi tưởng là cảnh giới mà chúng sanh chỉ còn tư tưởng,
rất tế nhị, gọi đó là tư tưởng cũng
chẳng đúng, mà bảo là chẳng phải tư
tưởng cũng sai. Phẩm 8 về Hành môn sẽ nói rõ thêm.
Vượt thẳng: Nguyên văn là
Chính Việt; chính = thẳng, ngay; việt = vượt qua, vươn lên. Ở
đây, chính tâm
đang vượt.
Thù thắng: Thù = rất; Thắng = hơn. Thù thắng
là hơn nhứt, cao đẹp nhứt, rất hay.
Ngoại hành: Ngoại = ngoài, ở gần nhưng còn bên ngoài chưa
vào hẳn; hành = hành động. Nói
Thiền ngoại hành là nói tập Thiền đã
đến mức gần nhập vào
Định, nhưng chưa vào hẳn trong
Định, còn ở gần phía bên ngoài.
Tỳ-bà-xá-na: Pàli: Vipassanà, Huệ kiến. Huệ = trí huệ;
Kiến = thấy. Nhờ phép tu Thiền, quán chiếu nội tâm mà
đắc định lực cao, nhờ đó Trí huệ hiển lộ lên.
Sự tướng: Sự = sự việc, sự vật; Tướng = hình tướng,
hình dạng. Sự tướng trái ngược với bản thể.
Bản thể: Bản = Bổn = gốc, cốt lõi; Thể = hình dạng,
thể chất. Một sự vật có hình tướng và bản thể. Hình tướng
bên ngoài có thể thay đổi; còn bản
thể là chỗ cốt lõi, chẳng thay đổi; do
bản thể mà vật nầy khác hẳn vật kia, dầu hình tướng có giống
nhau.
Nội doanh: Nội = bên trong; Doanh = dinh = xây dựng,
tạo thành. Việc nội doanh là việc lo toan, xây dựng trong tâm. Trái
nghiã với ngoại doanh là việc tạo tác bên ngoài, thấy
được. Cùng nghiã với nội doanh sự,
hoặc nội sự.
Định thắng: Định =
tâm vào Định, tình trạng yên
vắng tâm trụ lại; Thắng = hơn hết. Chữ
Định thắng ở đây có nghiã
là việc thực tập môn nầy sẽ đưa đến Định lực,
vì ở môn nầy, Định lực chiếm điạ vị ưu
thắng hơn là với Tưởng và Huệ.
Cảnh giới: Cảnh = hoàn cảnh; giới = vùng, nơi. Có ba
cảnh giới, còn gọi là ba cõi: (1) cảnh dục giới, nơi
chúng ta sanh sống còn nhiều dục vọng; (2) cảnh sắc giới, ở cõi
Trời thấp, nơi mà sắc chất rất tế nhị, (3) cảnh vô sắc giới, ở cõi
Trời cao, nơi mà hình sắc chẳng còn, chỉ còn tư tưởng và thức.
Tâm xả: Xả = xả bỏ, lại có nghiã là chẳng có sự phân biệt kỳ
thị, tâm trở nên bình đẳng. Tâm xả
là tâm chẳng dính mắc, chẳng kỳ thị, chẳng phân biệt,
đối xử thật bình
đẳng giữa mọi sự vật tốt xấu khác nhau mà
lại xem như nhau. Nơi tâm xả, có niệm xả chiếm ưu thế.
Thiếu mạch lạc: nói về ý tưởng hay buông lung, chạy lang bang,
chẳng thành đầu đuôi gốc ngọn chi cả.
Niệm xứ: Niệm = một tư tưởng khởi lên trong tâm. Chữ Niệm
xứ ở đây nói về bốn lãnh vực
của pháp quán tưởng, gọi là Tứ niệm xứ: (1) quán Thân
thì bất tịnh, (2) quán Thọ là khổ (thọ = cảm thọ), (3)
quán Tâm là vô thường, và (4) quán Pháp là vô ngã (pháp =
sự vật). Do đó, niệm xứ là
bốn lãnh vực quán tưởng về: thân, thọ, tâm và pháp.
Pháp bảo: Pháp = ở đây là
Chánh pháp, tất cả Tam tạng kinh điển
của Đức Phật chỉ dạy; Bảo = qúi báu. Pháp bảo là một
trong ba ngôi Tam bảo; hai ngôi kia là Phật bảo (=
Đức Phật) và Tăng
bảo (= chư Tăng ni).
043. Tìm hiểu về nội dung của Phẩm 7.
1) Tu Phước và tu Huệ khác nhau ra sao? Người Phật tử khi vừa bước
chơn vào cửa Đạo, thường được nghe nói đến bài
Kệ căn bản của Phật giáo:
Chư ác mạc tác, Việc ác chớ làm,
Chư thiện phụng hành, Điều lành
tuân theo,
Tự tịnh kỳ ý, Thanh lọc tâm ý
Thị chư Phật giáo. Là lời Phật dạy
Trong ba điều căn bản Phật dạy: (1) chớ làm
ác, (2) tuân điều lành, và (3)
thanh lọc tâm ý, thì điều thứ nhứt giúp
tránh khỏi sa vào cõi dữ và điều thứ
hai khiến được sanh vào các đường lành.
Đó là con
đường tu phước, tu để được
hưởng phước đức trong đời nầy và cho kiếp sau.
Đó là tu
để tạo phước báo hữu lậu, hưởng riết rồi sẽ hết, vẫn còn
phải chịu nỗi khổ của cuộc Luân hồi sanh tử.
Điều thứ ba thanh lọc tâm ý sẽ
đưa ta đến nơi giải thoát, tạo
nên phước báo vô lậu, vĩnh viễn thoát khỏi vòng ràng buộc khổ
đau của việc tái sanh. Đó là con
đường tu huệ, tu
để mở mang trí huệ sẵn có của mình,
phá tan màn vô minh che lấp và vượt thoát khỏi sợi dây nghiệp lực. Tại sao
vậy? Vì trí huệ, với sức chiếu sáng, sớm
đưa đến sự giác ngộ, thấy rõ
đâu là phiền não cần dẹp bỏ,
đâu là chướng ngại cần vượt qua,
để chóng di trọn con đường giải
thoát.
Làm cho trí huệ chiếu sáng rực rỡ lên là nhờ tâm ý từ
bên trong đã
được thanh lọc kỹ càng,
gột rửa hết các tà kiến và vọng tưởng, hội tụ
được ánh quang minh rọi thẳng đến mục tiêu, nào khác chi ngọn hải
đăng chọc thủng màn sương trong
đêm tối. Làm tròn nhiệm vụ hội tụ ánh
sáng đó chính là công dụng của ba
mươi tám đề mục quán tưởng
được liệt kê trong Phẩm 7 nầy. Càng
quán tưởng, tâm ý càng được thanh lọc, định
lực mới khởi phát lên mạnh mẽ để tạo
điều kiện thuận tiện cho trí huệ soi sáng con
đường giải thoát.
Đấy là chỗ khác nhau giữa tu phước và tu huệ.
Đó là
điều ta nên ghi nhớ khi đọc lướt qua
các hành xứ được nêu ra
ngay ở phần đầu của Phẩm 7.
2) 38 hành xứ chú trọng đến việc gì?
Sắp lại theo thứ tự ở trang 400, nơi Phần Tìm hiểu, ta thấy
được rõ ràng các hành xứ nầy chia ra
làm năm nhóm:
(1) nhóm mười nhứt thiết nhập: các
đề mục quán tưởng nầy có mục đích tập cho hành giả phải quan sát
thật kỹ càng về đối tượng, được cụ thể
hoá dưới hình thức vật chất như Đất,
Nước, v.v (trừ hai nhứt thiết nhập Không-xứ và Thức xứ),
khiến tâm phải trụ lại ngay trên đối
tượng, (hết chạy lông bông được nữa) để sớm đắc đuợc Định tâm.
(2) nhóm mười tưởng bất tịnh: các
đề mục quán tưởng nầy dựa trên sự quan sát một thây ma rã rời ngày
qua ngày, cho đến khi chỉ còn lại
những khúc xương vụn trắng hếu. Đối tượng
quán sát như thế vừa dơ, vừa gớm ghiếc tất làm khởi lên trong tâm
hành giả tư tưởng nhàm chán và tư tưởng vô thường, nhờ
đó mà diệt
được ái kiến và thường kiến.
(3) nhóm mười niệm: các đề mục quán
tưởng nầy khả ái hơn mười đề mục trước; từ niệm Phật cho
đến niệm an tịch, hành giả giữ
được nhứt tâm về
đề tài
đang niệm, đồng thời phát triển được niềm tin
đã sẵn có về Phật pháp.
(4) nhóm bốn tâm vô lượng: các đề
mục quán tưởng nầy cần đi đôi với sự thực hành, và nhờ
đó mà mở rộng
được tâm
đi từ việc tự lợi chuyển sang
sự lợi tha, dẹp bỏ được mối độc to lớn
là sân hận, tạo được bốn đức
tánh cao quí.
(5) nhóm thứ năm có vẻ "linh tinh", nêu
bốn đề mục chẳng liên quan với nhau
chặt chẽ:
- quán về Tứ đại, quan trọng ở chỗ giúp
hành giả nhìn thấy và nhận ra được
bản thể của muôn pháp;
- quán về thức ăn bất tịnh (có lẽ ta nên
xếp vào nhóm thứ hai) để khiến hành
giả tập nhàm chán về sự ăn uống;
- hai đề mục quán tưởng chót, xét về hai
cõi vô sở hữu xứ và phi tưởng xứ, dành cho các bực
đã tu hành cao.
3) Khó mà nhìn thấy hiệu lực của hành xứ khi còn chưa thực tập về hành
xứ đó.
Phần thứ hai của Phẩm 7 nói về chín cách do theo
đó mà ta biết rõ
được các hành xứ cùng hiệu lực của
chúng đối với việc tu tập. Điều nầy hơi khó,
vì chưa biết các hành xứ ra thế nào thì làm sao hiểu
được hiệu lực của chúng, hoạ chăng nghe nói,
thì hiểu theo trên lý thuyết vậy thôi!
Tuy nhiên, cũng xin cố gắng tìm hiểu thêm về chín cách:
(1) do Thiền:
- đưa đến thiền ngoại
hành: các đề mục niệm
(trừ niệm thân và niệm hơi thở), quán tứ
đại và quán thức
ăn bất tịnh;
- đưa đến Sơ thiền: mười
tưởng bất tịnh và niệm thân;
- đưa đến Tam thiền:
quán ba tâm vô lượng: từ, bi, hỉ.
- đưa đến Tứ thiền:
tám nhứt thiết nhập đầu, và
niệm hơi thở, quán tâm xả.
- đưa đến Định ở cõi vô
sắc: hai nhứt thiết nhập chót và hai quán tưởng cuối cùng, về
Không-xứ và Vô sở hữu xứ.
(2) do sự vượt lên thẳng:
Vượt thẳng lên là muốn nói tâm thoát
được ràng buộc của cõi dục giới, lần
lượt vươn lên các cõi sắc giới, vô sắc giới. Như thế, khi thực tập,
đề mục quán tưởng nào còn liên
hệ đến cõi dục giới, với hình sắc thô,
thì tâm chẳng vượt lên thẳng
đến hai cõi kia được. Luận văn có kể rõ
đề mục nào giúp tâm vươn lên
được, đề mục nào không.
(3) do tăng trưởng:
Tăng trưởng là làm cho lớn thêm
lên. Cái gì được sự thực tập các hành
xứ làm cho tăng trưởng? Đó là tâm.
Luận văn có nêu các hành xứ nào
làm tâm tăng trưởng.
(4) do nhân duyên:
Tiểu mục nầy ý muốn nói, các hành xứ tạo
điều kiện (= nhân duyên) cho việc chứng
đắc thần thông, hay phát triển Huệ kiến (= Tì-bà-xá-na,
Vipassanà). Luận văn cho biết tám
nhứt thiết nhập đầu và
nhứt thiết nhập về Hư-không thì tạo
điều kiện cho sự chứng đắc thần thông. Và, trừ
đề mục phi tưởng xứ ra, 37 hành
xứ khác đều tạo điều kiện cho sự phát triển Tì-bà-xá-na
(= huệ kiến).
(5) do sự tướng:
Muốn hiểu tiểu mục nầy, trước phải hiểu sự phân biệt giữa sự tướng
và bản thể (xin xem lại Phần giải nghiã các chữ khó ở hai chữ
sự tướng và bản thể). Luận văn
cho biết:
- 21 hành xứ lấy sự tướng làm đối
tượng quán tưởng: 9 nhứt thiết nhập đầu + 10 tưởng bất tịnh + 2 niệm về
thân và hơi thở
- 12 hành xứ lấy bản thể làm đối
tượng quán tưởng: 10 thiền ngoại hành (xem lại tiểu mục (1)
về do Thiền ở trước) + nhứt thiết nhập về thức + phi tưởng xứ.
- 5 hành xứ lấy sự chẳng phân biệt sự tướng và bản thể làm
đối tượng quán tưởng: 4 tâm vô lượng + vô
sở hữu xứ.
Muốn hiểu được phần còn lại của
tiểu mục nầy (trang 67, 68), cần phải có sự thực hành về các hành xứ, mới
thấy được rõ nội sự, ngoại sự
xảy ra trong và ngoài tâm. Chỉ nên đọc lướt
qua; một khi thực hành xong, sẽ xem
đoạn nầy kỹ lại.
(6) do thù thắng:
Trong tiểu mục nầy, Luận văn cho biết hành
xứ nào dễ đưa đến Định lực nhứt, hoặc Niệm.
Tưởng hay Huệ, và gọi các hành xứ đó là
định thắng, niệm thắng, tưởng thắng,
hoặc huệ thắng. Tại sao lại
được như thế, lý do có nêu trong Luận văn,
khi thực tập xong, ta sẽ chứng thấy rõ thêm.
(7) do cảnh giới:
Tiểu mục nầy trùng với tiểu mục số (2) vượt thẳng lên: các hành
xứ do sự tu tập mà khiến tâm hành giả vươn lên từ cảnh giới dục
lên đến các cảnh giới sắc
và vô sắc trên các từng Trời. Do vì
đối tượng quán tưởng thuộc về dục giới như quán tưởng bất tịnh, nên
các hành xứ về tưởng bất tịnh chẳng thể khiến sanh lên cõi sắc và vô sắc
được. Kể cũng dễ hiểu.
(8) do nắm giữ:
Nắm giữ đây là tâm
đang nắm giữ tướng khi thực
tập. Thí dụ quán niệm hơi thở, tâm theo dõi hơi thở khi vào
thì đụng vào mũi, khi ra cũng chạm vào
mũi, lấy chỗ đụng chạm đó mà quan sát
sự di động của hơi thở, đó là nắm
lấy tướng của hơi thở. Về các hành xứ khác,
đọc kỹ Luận văn sẽ thấy rõ ràng và
biết lối nắm giữ để kềm tâm phải
trụ lại vào tướng đó.
(9) do tánh hạnh:
Trong Phật giáo có một nguyên tắc căn
bản và một phương pháp giáo dục, mà người Phật tử cần
nắm vững:
Quán tưởng để thanh lọc tâm ý,
nhờ tâm ý thanh tịnh để sửa đổi
tánh hạnh theo đúng con đường
giải thoát.
Nguyên tắc căn bản trên
đây được áp dụng bằng phương pháp giáo dục
nầy:
Lập đi lập lại nhiều lần cho
thật thuần thục.
Nắm vững được nguyên tắc và phương
pháp nêu trên, rồi đọc tiểu mục Do
tánh hạnh người (các trang 70 và kế tiếp) trong Luận văn,
mới thấy tầm quan trọng của Phẩm 7 nầy; vì cốt lõi của Phẩm nằm tại
đây: dùng quán tưởng sửa
tánh hạnh.
Như đã học qua ở Phẩm 6: Phân
biệt Tánh hạnh, có hai hạng tánh hạnh, (1) tánh có khuyết
điểm, (2) tánh có ưu điểm.
(1) sửa khuyết điểm:
- người tham dục: dùng quán bất tịnh tưởng
để đối trị lòng ham muốn; chưa nên
tu bốn tâm vô lượng;
- người sân hận: dùng quán tâm vô lượng từ, bi,
để đối trị lại sự giận hờn; chẳng nên
tu bất tịnh tưởng.
- người si mê: dùng quán niệm tử, quán tứ
đại
để thêm nỗ lực làm tăng
trưởng trí huệ.
(2) tăng ưu
điểm:
- người tánh hay tin: tu mười niệm, nhứt là niệm
Phật khiến tăng lòng tin sẵn có
nơi Tam bảo
- người tánh ý trí: nên quán tứ
đại, niệm an tịch,
để gia tăng ý trí sẵn thâm sâu;
- người tánh ham hiểu biết: nên niệm hơi thở
để an định các loạn tưởng, và quán
giới phân biệt (tứ đại) để làm
tăng trưởng thêm sự hiểu biết vốn
sẵn có.
Ở cuối Phẩm 7, có sự phân biệt giữa các hạng người tùy theo trí thông
minh có bén nhạy cùng không, sắp thành người
độn căn, người lợi căn.
Dường như ý trong Luận văn cho
rằng với các ngườì quá ngu si, gọi là vô căn,
thì chẳng nên dạy tu các hành xứ. Tôi chẳng nghĩ như vậy, vì bất cứ ai
cũng tu theo Đạo Phật được cả, chẳng qua chưa
gặp được một vị Thầy giỏi biết cách dạy mà thôi. Thiển nghĩ, dầu ít
thông minh cách mấy đi nữa, bền chí mà
dạy cho người ấy tu niệm hơi thở chắc cũng
được ít nhiều hiệu quả.
044. Suy gẫm về Phẩm 7: Phân biệt Hành xứ.
1) Mâm cơm quá thịnh soạn: Phẩm 7 liệt kê có
đến 38 đề mục quán tưởng để cho hành
giả, hay vị Thầy lựa chọn mà dạy, hay tu tập. Thật là quá thịnh soạn, một
mâm cơm thật đầy, khiến người sơ cơ có sự bối
rối, chẳng biết ăn món nào trước, món nào sau!
Việc chọn lựa đề mục để quán tưởng
trước nhứt là phải xét rõ tánh hạnh nào phù hợp
với đề mục nào; nếu chọn
sai, hay chọn sót, chẳng những lâu đem lại
kết quả, mà nhiều khi còn gây lắm trở ngại, dễ sanh ra chán nản,
rồi phải bỏ cuộc giữa đường.
Đâu cần thực tập đủ 38 đề mục, nếu may chọn đúng một đề mục sớm đưa đến
Định tâm, thì các đề mục khác còn
lại, nếu có đủ thời giờ, thử tập qua cho biết
vậy thôi, vì mình đã "có
đủ vốn" rồi. Vấn
đề là ngay buổi
đầu, chọn phải đúng. Nếu kém may mắn thì
sao? Thì cứ chọn lại, rồi thử tới, thử lui, rút kinh nghiệm, và bền chí
thì thế nào rồi cũng... gặp.
2) Có hai đề mục dễ cho ta thí
nghiệm và rút lấy kinh nghiệm: (1) niệm hơi thở, (2) niệm mười
danh hiệu Phật.
Đến Phẩm 8: Phân biệt Hành môn, hai
đề mục nầy sẽ được giải thích cặn kẽ và
chỉ cách áp dụng tường tận. Điều nên
suy gẫm ngay bây giờ là, đừng thấy sự
giản dị của đề mục, nhứt là về
hơi thở, mà xem thường, vì pháp quán nầy một khi
đã thành tựu thì chứng
đến cấp Tứ Thiền.
Phép niệm Phật ở đây, mới xem qua
tưởng đâu chẳng khác với pháp môn Tịnh
độ. Tuy có chỗ giống, vì cùng một
đề tài niệm Phật, nhưng có
nhiều điểm tế nhị khác nhau, nhứt là
giai đoạn chuyển từ thiền ngoại
hành sang an định. Phẩm 8
kế tiếp đây sẽ vạch rõ cách áp dụng
niệm mười danh hiệu Phật sao cho chóng
đến kết quả.
3) Để tạm chấm dứt Phần Suy gẫm về
Phẩm 7: Phân biệt Hành xứ, xin thưa thêm một
điều: Liệt kê 38
đề mục quán tưởng, Luận văn chỉ nói phớt qua,
đọc thấy khó hiểu, xin đợi đến Phẩm 8: Phân biệt Hành môn,
mỗi đề mục sẽ được giải thích thêm.
Điều quan trọng lúc nầy là:
đừng thấy nhiều mà ngại.
Đã đọc
Luận văn và Phần Tìm hiểu đến trang
nầy rồi mà còn muốn đọc thêm
nữa, đó là dấu hiệu của sự bền chí,
sớm muộn chi cũng sẽ đưa đến thành
công, chẳng nhiều thì ít, hay nói cho cùng mà nghe, dầu chẳng tu tập
được chút gì, cái "việc
đọc sơ sơ qua" cũng
đã là nhân duyên tốt tạo ra
được chút chút phước báo vô lậu
rồi đó. Xin hãy cố gắng tiếp!
-ooOoo-