Phẩm 2:
Phân biệt về Giới
Hỏi: Giới là gì? Giới tướng ra sao? Vị của giới như thế nào? Khởi
phát cách nào? Từ đâu mà ra? Có công
đức gì? Ý nghĩa ra sao? Giới hạnh là
gì? Có bao nhiêu giới sai biệt? Khởi phát nơi nào? Các giai
đoạn đầu, giữa và cuối của giới là gì?
Chướng ngại cho giới là những gì? Do bao nhiêu nguyên nhân? Có mấy loại
giới? Những gì làm giới được thanh tịnh? Nhân
duyên nào giúp an trú nơi giới?
Đáp: Giới là gì? Đó là
tư giới, uy nghi giới và bất việt giới. Tư giới là gì? (tư
= suy nghĩ). "Tôi chẳng làm ác, hễ ai làm ác thì phải chịu lấy". Uy
nghi giới là gì? Là lià xa các dịp gây ra tội phạm. Bất việt giới
là gì? Là người chẳng có lỗi lầm nào nơi thân, miệng. (Bất việt =
chẳng vượt quá). Lại nữa, nghiã chữ uy nghi là nghiã của
đoạn (= cắt
đứt, đoạn trừ).
Tất cả mọi pháp lành đều là giới
cả.
Như Luận A-tỳ-đàm (= Luận Tạng,
Abhidhamma) có nói: "Lấy sự xa lià để cắt
bỏ mọi ham muốn là giới, có khả năng
rời dứt mọi ác; đó là tư giới, hộ giới, uy nghi giới. Lấy sự
chẳng giận dẹp bỏ sự giận. Lấy sự sáng chói trừ sự ngủ mê. Lấy sự chẳng
tán loạn diệt sự loạn động, đùa bỡn.
Lấy sự thấy pháp để bỏ sự nghi ngờ, hối tiếc.
Lấy Trí trừ sự vô minh (= ngu tối). Lấy sự vui mừng dẹp bỏ sự vô
khả lạc (= sự chẳng thể vui). Lấy Sơ thiền trừ năm
triền cái. Lấy Nhị thiền trừ giác và quán. Lấy Tam thiền trừ hỉ (=
mừng). Lấy Tứ thiền trừ lạc (= vui). Lấy không
định trừ tư tưởng về sắc giới, cho đến sân
hận và mọi loại tư tưởng khác. Lấy thức
định trừ Hư-không. Lấy vô sở hữu định trừ
thức tưởng. Lấy phi tưởng phi phi tưởng định trừ tư tưởng về vô sở hữu xứ.
Lấy cái nhìn vô thường trừ tư tưởng về thường. Lấy cái nhìn về khổ
não trừ tư tưởng vui mừng. Lấy cái nhìn vô ngã trừ tư tưởng về ngã. Lấy
cái nhìn về khổ hoạn trừ tư tưởng về khát ái. Lấy cái nhìn về vô nhiểm trừ
tư tưởng về tham dục. Lấy cái nhìn về diệt tận trừ tư tưởng về Tập, nguồn
gốc khổ. Lấy cái nhìn về tiêu mòn trừ tư tưởng về thâm hậu. Lấy cái nhìn
về phân tán trừ tư tưởng về tụ hội. Lấy cái nhìn về sanh diệt trừ tư tưởng
về thường hằng. Lấy vô tướng trừ tướng. Lấy vô tác trừ tác (tác = ở
đây, có nghiã là mong cầu, ước
nguyện). Lấy không trừ gia nhập. Lấy cái nhìn về tăng
thượng huệ trừ chấp trước. Lấy tri kiến như thực trừ cố chấp của vô minh.
Lấy cái nhìn về khổ hoạn trừ sự chấp chặt vào nơi
đang cư trú. Lấy sự quán chiếu trừ sự chẳng
quán chiếu. Lấy cái nhìn về sự chuyển tán (chuyển = dời
đổi; tán = tan rả) trừ sự chấp
thủ về hoà hiệp. Lấy đạo Tu-đà-huờn
trừ các kiến chấp về phiền não. Lấy đạo Tư-đà-hàm
trừ các phiền não thô phù. Lấy đạo A-na-hàm
trừ các phiền não vi tế. Lấy đạo A-la-hán trừ
tất cả mọi thứ phiền não."
Đó gọi là bất việt giới, tư giới, hộ giới, uy nghi giới.
Tất cả các điều trên
đây đều gọi là Giới.
Giới tướng là gì? Lấy uy nghi
đoạn trừ sự phi uy nghi.
Hỏi: Thế nào là phi uy nghi?
Đáp: Phi uy nghi tức là phá Pháp. Phá Pháp có ba loại. Thứ
nhứt, phá pháp Ba-la-đề-mộc-xoa (Pàtimokkha
= Biệt giải thoát = Giới bổn = 250 giới
điều cho Tỳ-kheo và 348 giới điều của
Tỳ-kheo-ni). Thứ hai, phá duyên pháp. Thứ ba phá căn
pháp.
Thế nào là phá Pháp Ba-la-đề-mộc-xoa?
Đó là vì sự vô tàm (= chẳng biết thẹn
với mình), vô quí (= chẳng biết thẹn với người) mà lià xa tấm lòng tin
tưởng nơi Đức Như Lai.
Thế nào là phá duyên pháp? Đáp:
Vì mạng sống mà quá lo trang sức cho thân hình, nên khiến lià
xa sự biết đủ.
Thế nào là phá căn pháp?
Đáp: Chẳng khép cửa các căn
lại nên khiến lià xa niệm huệ.
Lấy ba điều ấy trùm che sự phi uy
nghi lại, thì gọi là giới tướng.
Thế nào là vị, là khởi (=
cách khởi phát), là túc xứ (= do nơi
đâu mà ra) của Giới?
Được niềm vui khi mình chẳng có lỗi
lầm nào, đó là vị của Giới.
Chẳng lo buồn, đó là khởi, là
cách khởi ra của Giới. Được ba điều lành,
đó là túc xứ, là nơi phát sanh
ra Giới.
Lại nữa, vị của Giới còn là sự thắng duyệt (= sảng khoái
tuyệt diệu). Khởi hiện của Giới còn là sự chẳng bao giớ hối tiếc.
Túc xứ của Giới còn là sự "đóng cửa"
các căn lại.
Công đức của Giới ra
sao? Chẳng hối tiếc là công đức của giới.
Như Thế tôn nói với A-nan: "Chẳng hối tiếc là công
đức và
điều lành của giới." Lại nữa, giới còn
được gọi là niềm vui do chẳng có lỗi lầm, là bực cao nhứt trong
hàng chúng sanh, là tiền tài làm nên phú qúi, là
đất Phật, là tắm rửa chẳng cần
đến nước, là hương thơm xông ướp khắp
nơi, là bóng theo hình, (...) là nòi giống Thánh, là học
điều vô thượng, là con
đường lành.
Người có giới, vì có giới, nên chẳng hề lo sợ, làm vinh hiển các thân
hữu, được bực Thánh thân cận và thương
mến, là nơi nương tựa của thân hữu, là khéo trang nghiêm, là bực lãnh
đạo trong mọi hành
động, là nơi
để tạo công đức, là nơi
để cúng dường, là nơi tạo tình
đồng học cao qúi. Nơi mọi pháp lành,
người ấy chẳng sợ hãi, chẳng thoái lui, thành tựu mọi ý nguyện thanh tịnh,
dầu chết đi cũng chẳng mất, hoàn thành
được phương tiện đưa đến niềm vui giải thoát.
Như thế, công đức của giới thật là
vô biên.
Nghiã của Giới là gì? Đáp:
Giới có các ý nghiã như: sức lạnh, sự tăng
thượng (= thêm cao), hành động, tự
tánh, bản thể tương ứng của nổi khổ và niềm vui. Lại nữa giới còn
có các ý nghiã: nghiã đầu,
nghiã lạnh và nghiã an.
Vì sao đầu là ý nghiã của
giới? Đáp: Như người chẳng có
đầu chẳng thể nào giữ sạch các
căn khỏi dính buị bặm, thì gọi
đó là người chết. Như thế, Tỳ-kheo lấy
giới làm đầu của mình; nếu
đầu bị cắt, thì mất hết cả pháp lành,
Phật pháp gọi đó là chết. Do
đó, giới có ý nghiã như cái
đầu.
Vì sao lạnh là ý nghiã của giới?
Đáp: Cũng như cọ xát gỗ chiên đàn
thật lạnh vào da ắt trừ bớt được nhiệt độ trên
thân thể, thấy dễ chịu, thì giới, tựa như gỗ lạnh chiên
đàn, diệt
được sự lo âu, bớt nóng bức nơi tâm phạm giới, đưa đến niềm vui lành.
Đó là ý nghiã lạnh của Giới.
Vì sao an là ý nghiã của giới?
Đáp: Người có giới, thì thái độ
nghiêm túc, chẳng sanh lo sợ. Đó là
nghiã an của giới.
Giới và Hạnh khác nhau ra sao? Tu hành tinh tấn, thọ trì hạnh
đầu-đà,
đó là hạnh, chớ chẳng phải giới. Giới cũng
được gọi là hạnh. Còn cảm thọ
cũng được gọi là hạnh.
Giới có mấy thứ? Giới có ba thứ: giới khéo, giới chẳng khéo và
giới vô ký (vô ký = bất định; ở đây,
khéo hay không chẳng định rõ).
Giới khéo là gì? Là khéo giữ nghiệp thân, nghiệp miệng và chánh
mạng chẳng vướng lỗi lầm, nên được quả báo
tốt.
Giới chẳng khéo là gì? Là nghiệp thân, nghiệp miệng và tà mạng
đều ác dữ, nên chịu quả báo xấu.
Giới vô ký là gì? Là nghiệp thân, nghiệp miệng cùng lối sống thanh
tịnh chẳng vướng bận phiền não lỗi lầm chi, thì cũng chẳng hưởng hay chịu
quả báo.
Giới khởi lên ra sao? Nơi tâm lành khởi lên giới khéo. Nơi tâm
chẳng lành khởi lên giới chẳng khéo. Nơi tâm vô ký khởi lên giới cũng vô
ký.
Giới khởi lên qua mấy giai đoạn?
Giới khởi lên qua các giai đoạn
đầu, giữa và chót. Thọ trì giới là giai
đoạn đầu. Chẳng phạm giới là giai
đoạn giữa. Được niềm vui lành là giai
đoạn chót của giới.
Giới có các chướng ngại và nguyên nhân nào?
Đáp: Có ba mươi bốn chướng ngại
cho giới. Ba mươi bốn chướng ngại đó làm
nguyên nhân gây trở ngại cho Giới, gọi là giới nhân.
Đó là:
- Giận, lo buồn, che dấu, nóng nảy, keo kiệt, ganh ghét, giả dối,
nịnh, hờn, tranh giành, kiêu mạn, cao mạn, ngạo mạn, lười biếng, nhớt
nhúa, tham muốn, chẳng biết đủ, chẳng theo
trí, chẳng chánh niệm, miệng dữ, có bạn ác, có cái biết ác, có cái nhìn
ác, chẳng nhẫn nhục, chẳng tin, chẳng tự thẹn, chẳng xấu hổ với ngưới,
nuông chiều thân miệng cùng khẩu vị, thân cận người thế tục, gần gũi
người nữ, chẳng kính thầy học, chẳng kềm chế các căn,
chẳng tiết giảm ăn uống, đầu hôm nửa đêm và gần sáng chẳng ngồi
thiền, chẳng tụng kinh.
Ba mươi bốn điều trên là chướng
ngại của đạo. Nếu mỗi mỗi còn làm
chướng ngại thì giới chẳng thành mãn. Nếu giới chẳng thành, ắt sẽ bị lùi
sụt.
Sự đối trị lại ba mươi bốn chướng ngại trên
được gọi là nguyên nhân của giới hay
là giới nhân.
Có mấy loại Giới? Sắp xếp thành từng nhóm, có nhóm hai loại,
nhóm ba loại và nhóm bốn loại.
Giới thuộc nhóm hai loại là gì?
Đó là tánh giới và chế giới.
Thân, miệng làm các điều mà
Đức Phật dạy phải làm là tánh giới.
Thân, miệng chẳng làm các điều mà
Đức Phật cấm làm là chế giới.
Tánh giới nhờ tín niệm, tinh tấn, mà trở nên
đầy đủ. Chế giới nhờ tín niệm, giữ gìn, mà trở nên
đầy đủ.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có thoái giới
và đắc giới. Thế nào là
thoái giới? Là có khả năng diệt điều phi
giới. Thế nào là đắc giới?
Là đắc được nhiều pháp lành. Cũng như
ánh sáng đẩy lùi bóng tối, việc diệt
trừ các điều phi giới khiến lià xa các
đường dữ, đắc được chánh giới mà noi
theo đường lành. Do
đoạn trừ các điều phi giới mà thành
tựu được sự an trú trong Giới.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới tại thế
và giới xuất thế. Thế nào là giới xuất thế? Giới thành
tựu cùng với sự đắc quả vi của Thánh đạo gọi
là giới xuất thế. Chỗ còn dư thừa lại là giới tại thế
(= tại nơi thế gian). Do giới tại thế thành tựu mà có
được sự đầy đủ. Do giới xuất thế thành
tựu mà được sự giải thoát.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới hữu lượng
và giới vô lượng. Giới chẳng đầy
đủ gọi là giới hữu lượng. Giới
đầy đủ như Đức Phật phán đoán được gọi là giới vô lượng.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới hữu biên
và giới vô biên. Thế nào là giới hữu biên (biên =
giới hạn)? Nếu người vì lợi dưỡng, vì danh tiếng, vì thân quyến bằng hữu,
vì thân mạng, (...) mà thọ trì giới, thì giới của người ấy lấy lợi dưỡng,
lấy ngợi khen, lấy thân mạng làm giới hạn. Thế nào là giới vô biên?
Tỳ-kheo nào thọ giới theo đúng pháp, còn
chẳng khởi lên mảy may ý tưởng vi phạm vì lợi dưỡng, vì danh tiếng, vì
thân mạng, huống chi là cố tâm phạm giới. Đó
gọi là giới vô biên.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới hữu y
và giới vô y. (Y = nương dựa vào). Thế nào là giới hữu y?
Giới có liên hệ với hiện hữu (= cuộc sống) là giới tựa vào sự khát ái.
Giới có liên hệ với giới cấm thủ (= nghi thức mê tín) thì tương ứng với tà
kiến. Giới mà khen mình chê người là giới tương ứng với sự kiêu mạn.
Đấy là giới hữu y. Nếu thành
tựu được sự giải thoát để thọ dụng, đấy là
giới vô y. Giới hữu y chẳng phải là niềm vui của bực hiền trí. Giới
vô y mới là niềm vui của bực hiền trí.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới học căn
bản về Phạm hạnh và giới vi tế. Thế nào là học căn
bản về Phạm hạnh? Giới thuộc về chánh nghiệp, chánh ngữ, chánh mạng là
giới học căn bản về Phạm hạnh. Học chỗ còn
lại là giới vi tế.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới hữu tâm
và giới vô tâm. Thế nào là hữu tâm?
Đó là giới học căn
bản về Phạm hạnh. Thế nào là vô tâm?
Đó là phần còn dư lại, tức là giới học
vi tế, còn gọi là khinh giới. Hàng Thanh văn
học căn bản về Phạm hạnh còn chưa vững mà muốn giữ giới cao nơi
khinh giới, nên vi phạm có thể khởi lên. Tại sao? Vì
Đức Phật chẳng nói đến điều ấy, nên
thành chướng ngại cho giải thoát.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới vô phạm
và giới thanh tịnh. Thế nào là vô phạm?
Đó là giới của hàng Thanh văn.
Thế nào là giới thanh tịnh? Đó
là giới của Đức Phật và bực
Duyên giác.
Lại nữa, thuộc nhóm hai loại, có giới có thời
hạn và giới trọn đời. Thuở
nhỏ tạm thọ giới mà chẳng tính thọ cả đời, đó
là giới có thời hạn. Từ lúc thề nguyền theo thầy cho
đến khi xả bỏ thọ mạng, đó là giới
trọn đời. Giới có thời hạn thì quả
báo cũng có thời hạn. Giới trọn đời được quả
báo vô thời hạn.
Thế nào là Giới thuộc nhóm ba loại?
Đó là: ngưng ác chẳng phạm, cảm thọ
chẳng phạm và đoạn trừ chẳng phạm.
Thế nào là ngưng ác chẳng phạm? Ngay cả các
điều bên ngoài chẳng thuộc việc giữ
giới của mình, tâm cũng chẳng khởi lên ý nghĩ vi phạm,
đó là vì ngưng việc ác chẳng vi
phạm. Thế nào là thọ chẳng phạm? Từ lúc có cảm thọ biết mình vi
phạm cho đến khi cảm thọ đó chấm dứt, chẳng
vi phạm thêm nữa, đó là thọ
chẳng phạm. Thế nào là đoạn trừ chẳng
phạm? Thánh nhơn, theo Thánh đạo,
đã đoạn trừ nguyên nhân của mọi
điều ác, đó là vì
đoạn trừ mà chẳng phạm.
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có xúc giới, vô
xúc giới và Phạm giới. Thế nào là xúc giới? Vừa mới thấy
hình tướng hữu vi đã sanh khát ái,
đó là xúc giới (xúc =
giới bị xúc phạm). Giới lành của phàm phu dùng
để bước vào cửa
Đạo, đó là giới vô xúc.Thế nào
là Phạm giới? Đó là giới của
bực A-la-hán.
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có giới y thế,
giới y thân và giới y pháp. Thế nào là giới y thế?
Nếu vì lo sợ, người dựa theo ý kiến của thế gian
để trừ các pháp ác, đó là giới y
thế. Thế nào là giới y thân? Nếu vì lo sợ, người dựa
theo thân mạng để trừ các pháp ác, đó
là giới y thân. Nếu vì lo sợ, người dựa theo Chánh pháp
để trừ các pháp chẳng lành,
đó là giới y pháp.
Lại nữa,thuộc nhóm ba loại, có giới sở nguyện
chẳng đồng, giới sở nguyện
đồng đều và giới vô sở nguyện.
Thế nào là sở nguyện chẳng đồng?
Thọ giới mà gây khổ não cho kẻ khác, gọi đó là
sở nguyện chẳng đồng. Thế nào là sở
nguyện đồng đều? Thọ giới vì
được niềm vui hiện nay và về sau
được vui giải thoát, đó là sở nguyện
đồng đều. Thế nào là giới vô sở
nguyện? Thọ giới chẳng hối tiếc vì làm lợi ích cho kẻ khác,
đó là giới vô sở nguyện.
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có giới thanh
tịnh, giới chẳng thanh tịnh, giới có nghi ngờ. Thế nào
là giới thanh tịnh? Có hai nguyên nhân khiến giới thành thanh tịnh.
Thứ nhứt, chẳng vi phạm. Thứ hai, phạm rồi liền sám hối.
Đó là giới thanh tịnh. Thế nào là giới
chẳng thanh tịnh? Có hai nguyên nhân khiến giới chẳng thanh tịnh.
Thứ nhứt, tự ý cố phạm. Thứ hai, phạm rồi chẳng sám hối.
Đó là giới chẳng thanh tịnh. Thế nào
là giới có nghi ngờ? Có ba nguyên nhân khiến cho giới có nghi ngờ.
Thứ nhứt, chẳng phân biệt nơi chốn. Thứ hai, chẳng phân biệt sự vi phạm.
Thứ ba, chẳng phân biệt hành vi vi phạm. Đó là
giới có nghi ngờ.
Nếu giới của thiền sanh chẳng thanh tịnh, thì tự thẹn nơi thâm tâm và
sám hối khiến thành tựu được sự vui thanh
tịnh. Nếu có sự nghi ngờ, liền tìm biết ngay tội lỗi ở chỗ nào,
khiến cho được an lạc.
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có giới học,
giới vô học và giới chẳng học chẳng vô học. Thế nào là giới
học? Là giới của người thất học. Thế nào là giới vô học? Là
giới của bực A-la-hán. Thế nào là giới chẳng học chẳng vô học? Là
giới của phàm phu (= người thường).
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có giới sợ,
giới lo và giới ngu. Thế nào là giới sợ? Có người vì
sợ tội nên chẳng dám làm ác, đó là
giới sợ. Thế nào là giới lo? Nếu có người vì lo nhớ
đến người thân đang xa cách, sanh lòng
sầu khổ, và vì sầu khổ nên chẳng khởi lên làm việc ác,
đó là giới lo. Thế nào là giới
ngu? Có người thọ giới trâu, giới chó,
đó là giới ngu. Nếu thành tựu, ắt sẽ trở thành trâu, chó;
nếu không, cũng sẽ sa vào điạ ngục.
Lại nữa, thuộc nhóm ba loại, có giới thấp,
giới trung và giới cao. Thế nào là giới thấp? Vì
phiền não nhiều, phiền não nặng, phiền não lớn, nên khi xúc phạm chẳng
biết rõ đủ hết các chỗ bị ô nhiễm, đó gọi là
giới thấp. Thế nào là giới trung? Vì phiền não vi tế nên khi
xúc phạm biết rõ đủ chỗ bị nhiễm ô, đó gọi là
giới trung. Thế nào là giới cao? Chẳng có chỗ xúc phạm, lại
biết rõ đủ chỗ bị ô nhiễm vì xúc phạm,
đó gọi là giới cao. Thành mãn
được giới thấp, sẽ đầy đủ trở thành
con người. Thành mãn được giới trung,
sẽ đầy đủ trở thành bực Trời.
Thành mãn được giới cao, sẽ đắc được giải
thoát.
Lại nữa, thuộc nhóm bốn loại, có giới thoái
phần, giới trú phần, giới thắng phần và giới
đạt phần. Thế nào là giới
thoái phần? Chẳng trừ các chướng ngại cho
Đạo, lià xa sự tinh tấn, biết mà còn cố vi phạm, phạm xong lại che
dấu, đó gọi là giới thoái phần
(thoái = lùi sụt). Thế nào là giới trú phần? Nơi giới thành
tựu, chẳng khởi sự lười biếng, chẳng sanh tịch kiến (= ý kiến về sự an
tịch, yên vắng), thì thành tựu giới trú phần. Thế nào là giới
thắng phần? Nơi giới có định thành
mãn, chẳng khởi sự lười biếng, chẳng sanh tịch kiến, thì thành tựu
được giới thắng phần. Thế nào
là giới đạt phần? Nơi giới có
định thành mãn, chẳng khởi sự lười
biếng, lại sanh ra tịch kiến, thì thành tựu
được giới đạt phần.
Lại nữa, thuộc nhóm bốn loại, có giới Tỳ-kheo,
giới Tỳ-kheo-ni, giới bất cụ túc và giới bạch y. Thế
nào là giới Tỳ-kheo? Uy nghi của Ba-la-đề-mộc-xoa
là giới Tỳ-kheo. Thế nào là giới Tỳ-kheo-ni? Uy nghi
của Ba-la-đề-mộc-xoa là giới
Tỳ-kheo-ni. Sa-di, Sa-di-ni có mười giới. Thức-xoa-ma-ni
được gọi là giới bất cụ túc. Năm
giới của ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, và tám giới (bát quan trai) là giới
bạch y (của cư sĩ, mặc áo trắng).
Lại nữa, thuộc nhóm bốn loại, có tánh giới,
hạnh giới, pháp chí giới, và sơ nhân giới. Tánh giới là giới
luật theo thiên nhiên của bộ tộc Uất-thiền-việt (Uttarakuru).
Thế nào là hạnh giới? Như tất cả luật lệ của quốc gia, chủng
tộc, ngoại đạo đều gọi là hạnh
giới. Thế nào là pháp chí giới? Khi Bồ-tát (= ở
đây có nghiã là
Đức Phật khi Ngài chưa thành
Đạo) nhập vào thai mẹ,
đó gọi là pháp chí giới. Thế
nào là sơ nhân giới? Giới của Bồ-tát (=
Đức Phật khi còn là Bồ-tát) và của
ngài Ma-ha Ca-diếp là sơ nhân giới.
Lại nữa, thuộc nhóm bốn loại, có giới giới, tập
giới, diệt giới và giới diệt đạo cụ
túc. Thế nào là giới giới? Hai loại giới khéo và
giới chẳng khéo, được gọi là
giới giới. Thế nào là tập giới? Tâm lành chất chứa (tập =
chất chứa) các giới khéo; tâm chẳng lành chất chứa các giới chẳng
khéo. Thế nào là diệt giới? Được giới
khéo thì diệt bỏ đi giới chẳng khéo;
khi đắc quả vị A-la-hán thì cả giới khéo cũng diệt.
Đó là diệt giới. Thế nào là
giới diệt đạo cụ túc.
Đó là tứ chánh cần, bốn pháp
đưa đến con đường hoàn diệt (= chấm
dứt xong) đầy đủ; như thế cần phải phân biệt
để hiểu rõ đó là có thêm sự
tinh tấn, chớ chẳng sự thọ trì giới suông, mà
đáng được gọi là tứ chánh cần.
Lại nữa, thuộc nhóm bốn loại, có giới uy nghi
Ba-la-đề-mộc-xoa, giới chánh
mạng thanh tịnh, giới uy nghi các căn
và giới về hoá duyên.
Thế nào là giới uy nghi Ba-la-đề-mộc-xoa?
Là "Nơi đây, Tỳ-kheo an trú trong uy nghi
che phủ của Ba-la-đề-mộc-xoa, hành
động theo chánh hạnh đầy đủ, lo sợ cả tội nhỏ, học tập các giới luật cần
phải học."
"Nơi đây" nghiã là: nơi pháp
của bực Đạo sư dạy.
"Tỳ-kheo" nghiã là: phàm phu lành; còn có nghiã là người có học,
người đã
đến bậc vô học, chẳng thoái chuyển.
"Ba-la-đề-mộc-xoa" nghiã là: là
giới, là biểu lộ, là khởi đầu, là hành
động, là giữ gìn, là hạn chế, là lột
xác, là hết ràng buộc, là cửa vào các pháp lành.
Đó là nghiã của Ba-la-đề-mộc-xoa.
"An trú trong uy nghi che phủ của Ba-la-đề-mộc-xoa"
nghiã là: chẳng làm khởi lên nghiệp thân và nghiệp miệng, và do
sự hạn chế phủ che của Ba-la-đề-mộc-xoa mà
thành tựu được sự an trú.
"Hành động theo chánh hạnh đầy đủ"
nghiã là: giữ gìn bốn oai nghi trong tất cả mọi hành
động.
Lại nữa, hành động có chánh hạnh
và phi hạnh. Thế nào là phi hạnh? Nếu Tỳ-kheo cho kẻ nào
một khúc tre, hoa lá trái cây, hoặc tăm xỉa
răng hay bột tắm, hoặc bán rao tốt xấu, hoặc nói đùa bỡn, hoặc siểm
nịnh để tự tiến, hoặc rong chạy khắp nơi mời
người tới hội họp, các hành động như
thế Đức Phật đều cấm đoán vì sống theo tà mạng.
Đấy gọi là phi hạnh.
Lại nữa, có hai loại phi hạnh: thân phi hạnh và miệng
phi hạnh. Thế nào là thân phi hạnh? Nếu Tỳ-kheo có tâm phách
lối đi đến nơi chư tăng hội họp, va chạm Đại
đức, chen lấn lên trước, hoặc dựa, hoặc giành ngồi trước chỗ cao
để người lớn ngồi chỗ thấp, hoặc ngồi dựa
bông đùa, hoặc vỗ vai nói bỡn. Hoặc khi Thượng toạ
đi chơn không, còn mình kéo lê
đôi guốc. Hoặc khi bực kỳ đức bước trên
đường mòn thấp, còn mình lại tản bộ
trên đại lộ cao. Lợi dụng mọi duyên cớ
để khinh thị, làm phiền kẻ khác. Hoặc
giành lấy chỗ tốt với người trẻ, đùn
chỗ xấu cho người lớn. Hoặc nơi phòng tắm tự tiện
đốt củi lửa, đóng chặt cửa. Hoặc đến bờ sông,
bước xuống nước trước, uốn mình kỳ cọ một cách thô bỉ. Hoặc vào nhà
kẻ khác vượt cửa trước, lòn cửa sau, đứng
ngồi chẳng ngôi thứ. Hoặc nơi phòng có bình phong,
đùa bỡn với phụ nữ và xoa
đầu gái trẻ.
Tất cả các lỗi lầm như thế đó đều gọi là
thân phi hạnh.
Thế nào là miệng phi hạnh? Nếu có Tỳ-kheo tâm chẳng kính sợ,
chẳng hỏi ý bực tôn túc, tự tiện thuyết pháp, hoặc giảng Ba-la-đề-mộc-xoa.
Hoặc vừa nói vừa vỗ vai kẻ khác. Hoặc vào nhà lạ, hỏi nữ chủ nhơn
tên họ là chi, có vật thực chi không, tôi hiện
đang muốn ăn.
Các lời nói như thế đều phạm giới cả. Đó
gọi là miệng phi hạnh.
Thế nào là hạnh tốt so với phi hạnh? Lại nữa, Tỳ-kheo có
lòng cung kính, biết tự thẹn, biết xấu hổ, thành tựu uy nghi chẳng chỗ
thiếu sót, giữ gìn các căn, biết tiết độ
trong việc ăn uống, đầu hôm, hừng sáng chẳng thường ngủ nghỉ, có trí huệ,
ít muốn biết đủ, chẳng theo thế tục, phát lòng mạnh mẽ, nễ vì các
bạn đồng học. Đó là hạnh tốt.
Hành xứ là gì? Phi hành xứ là gì? (hành xứ =
ở đây, có nghiã là nơi lai vãng,
nơi tới lui). Thế nào phi hành xứ? Nếu Tỳ-kheo
đi đến nhà
đĩ điếm, nhà
đàn bà goá, nhà gái
đồng trinh, nhà người bị thiến, tịnh
xá nữ tu sĩ, quán rượu, thân cận với quốc vương,
đại thần, sa-môn ngoại đạo, bạn bè phi
pháp
chẳng có tín tâm, chẳng làm lợi ích cho dân chúng và bị dân chúng hết
sức oán ghét. Đó là những chỗ chẳng
nên tới lui, gọi là phi hành xứ. Như
Đức Phật có nói, Tỳ-kheo chẳng nên lui tới nơi chẳng
đúng Phạm hạnh. Thế nào là
chẳng đúng Phạm hạnh? Như nơi mua bán nữ sắc,
điều đó cũng dễ biết.
Lại nữa có ba loại hành xứ (= nơi lai vãng): hành xứ nương
tựa, hành xứ thủ hộ và hành xứ ràng buộc.
Thế nào là hành xứ nương tựa? Đó là
người bạn lành có đầy đủ mười công đức, nương
theo nơi công đức đó mà điều chưa
nghe, mình được nghe; nghe rồi thì
khiến mình hiểu thêm rộng rãi để trừ lòng
nghi nan và sự hối tiếc, chánh kiến được
trong trắng, biết tùy theo pháp học, lòng tin sâu xa và mạnh mẽ, tăng
trưởng thêm giới hạnh và trí huệ. Đó là
y hành xứ hay là nơi lai vãng đáng
nương tựa.
Thế nào là hành xứ thủ hộ? Nếu có Tỳ-kheo
đi vào nhà ai, hay
đi trên
đường làng, mắt nhìn xuống đất phiá
trước chẳng quá một tầm (1 tầm = khoảng hai thước), dung
nghi chỉnh tề, mọi người thấy đều kính nễ,
chẳng nhìn voi, ngựa, xe cộ cùng trai gái
đi dự hội, chẳng trông đến cung điện, ngỏ hẽm
hay đường mòn, chẳng
ngẩn đầu nhìn tư bề,
đó là biết giữ gìn khi lai vãng, tức
là thủ hộ hành xứ.
Thế nào là hành xứ ràng buộc? Như
Đức Phật nói, nếu Tỳ-kheo lưu trú nơi gia cảnh của mình,
đó là hành xứ ràng buộc.
Đấy là nghiã của chữ hạnh (và hành). Hạnh (hành
động) và hành xứ (nơi lai vãng)
đều được thành tựu,
đấy là nghiã của
đoạn: " ... hành
động theo chánh hạnh đầy đủ, ..."
Đoạn "... lo sợ cả tội nhỏ, ..." có nghiã là, tôi lo sợ
cả những lỗi nhỏ nhiệm mà tôi có thể vướng phải cả trong khi tu học.
Đó là lo sợ cả tội nhỏ. Lại
nữa, có thuyết cho rằng, nếu tâm khởi lên một tâm trạng chẳng lành,
đó là một lỗi nhỏ. Nơi lỗi nhỏ
đó, thấy tai hoạ do lỗi gây ra nên
sanh tâm lià xa tội.
Đó là biết thấy lo sợ cả về tội nhỏ.
Đoạn: "... học tập các giới luật cần phải học.", theo
trong chánh văn là "chánh thọ học
khả học" có nghiã là gì? Là tu học các
điều cần phải học. Các điều đó có nghiã là bảy nhóm uy nghi, tức là
cần phải tu học theo tất cả những điều vửa
giảng ở trên đây.
Đến đây hết phần giải thích về Giới uy nghi Ba-la-đề-mộc-xoa
là như thế đó.
Hỏi: Thế nào là Giới thanh tịnh?
Đáp: Là chẳng phạm tà mạng. Tà mạng là gì? Có tướng
gạt gẫm, nịnh hót, phỉnh phờ; có tướng giả mắng mỏ; có tướng cho ít mong
được thí lại nhiều.
Thế nào là gạt gẫm? Gạt gẫm có ba
điạ hạt: nghĩ kế để muốn người ta cúng dường tứ sự cho mình, giả có
đầy đủ uy nghi và phô trương tự khoe.
Nếu có Tỳ-kheo lòng muốn điều xấu ác, tham
lợi tiền bạc, nhường lại áo quần tốt đẹp cầu áo quần thô tệ làm như
chẳng muốn có thứ tốt, hay giả ra vẻ vì thương xót người mà nhận sự cúng
dường tứ sự của người ấy; đó là gạt
gẫm về sự hoá duyên (hoá duyên = cúng dường tứ sự: 1. thức
ăn, 2. quần áo, 3. phòng giường, 4.
thuốc men). Nếu có Tỳ-kheo lòng còn muốn làm ác, tham lợi, giả bộ có
đủ uy nghi, tôi nhập thiền đắc định muốn được
cúng thí để đọc tụng Kinh điển; đó là gạt gẫm về uy nghi.
Nếu có Tỳ-kheo còn ham muốn, nịnh hót, láo khoét, nói với kẻ khác rằng tôi
đắc được Thánh pháp, an trú trong yên
tịnh nhàn nhã, hoặc tôi tập thiền nên thuyết pháp cao thâm, có tướng hơn
người; vì tham lợi mà quá tự đề cao, đó là
gạt gẫm tự khoe láo. Như tâm niệm hư dối, lại nói
điều lành, khen chê tốt xấu, diễu cợt
khôi hài, để đem lợi về mình,
đó là nịnh hót.Thế nào là
phỉnh phờ? Như nói pháp cho người giàu có,
để mong câu được lợi, nhưng chính mình
chẳng lo điều phục tâm mình. Hoặc mắng
mỏ kẻ khác khiến cho họ lo sợ. Hoặc huỷ báng, gieo sự hiềm khích giữa
nhiều người khiến cho họ lo sợ, mà cầu lợi riêng,
đó là giả tướng mắng mỏ.
Thế nào là cho ít mà mong được thí lại
nhiều? Đem cho ít ỏi mà
mong được đáp lại hậu hĩ, đó là lấy bố
thí mà cầu bố thí.
Những điều trên
đây là tà mạng. Lại nữa, về
tà mạng còn có: hoặc cho một khúc tre, hoặc tặng hoa lá trái
cây, hoặc hiến cây tăm, bột tắm, hoặc xem
tướng đoán mộng, hoặc xem các vì sao, hoặc nghe tiếng cầm thú mà
đoán nghiã, hoặc nhìn tướng
đi đứng mà nói
điều xấu tốt, đốt hoa thờ lửa, mở tiệm buôn
bán, cầm đầu quân đội, chế bán võ khí. Như thế, tất cả các loại
hoạt động đó đều gọi là tà mạng.
Nếu chẳng vi phạm đến, đó gọi là
thanh tịnh giới.
Hỏi: Thế nào là Giới uy nghi thủ hộ các căn?
Đáp: Khi thấy hình sắc, nghe âm thanh, ngửi mùi, nếm vị, va
chạm đến vật, nghĩ tới pháp (pháp =
sự vật), mà chẳng để vướng mắc phiền não
và thọ trì chẳng vi phạm, đó là biết
giữ gìn các căn theo đúng giới uy nghi.
Sự giữ gìn các căn được thành mãn
qua tám hành động sau đây: qua sự đoạn trừ
các ác tướng khởi lên nơi các căn; qua
sự đối trị việc chẳng tác ý; qua sự chẳng tạm ngừng nghỉ, như cứu đầu đang
bị cháy; qua sự tiết chế giống như uy nghi của Tôn giả Nan-Đà; qua
sự điều phục ác tâm; qua sự đắc định tâm tự
tại; qua sự tránh xa kẻ chẳng biết giữ gìn các căn;
qua sự thân cận với người biết giữ gìn các căn.
Hỏi: Thế nào là giới về tu hành tứ sự?
Đáp: Dùng tám hành động sau đây
để quán chiếu sự tu hành khất thực. Thứ nhứt, chẳng vì hành
động hung hiểm, chẳng vì hành
động tự cao. Thứ hai, chẳng vì lo cho
thân thể được đẹp đẽ. Thứ ba, vì nhờ
đó mà nuôi thân và giữ gìn thân. Thứ
tư, vì để trừ đói khát. Thứ năm, vì
để thọ trì Phạm hạnh. Thứ sáu, thường
nhớ nghĩ rằng ăn uống là
để trừ bịnh cũ chẳng gây thêm tật mới.
Thứ bảy, thường lấy ít mà được tự an. Thứ
tám, thưòng an trú trong sự chẳng lỗi lầm.
Hỏi: Thế nào là chẳng vì hành động
hung hiểm, chẳng vì tự cao?
Đáp: Tôi vì tham ăn mà
sức mạnh mẽ, ham mộ các hành động hung bạo và
nguy hiểm, đua chạy tranh hơn, đó là
các hành động hung hiểm. Tự cao, kiêu
mạn, tự tôn mình lên chẳng biết chán đủ, như
kẻ giận đang đánh người. Chẳng vì lo cho thân thể
được đẹp đẽ, là người lòng
đầy ham muốn, cứ lo cho thân thể đẫy đà,
mặt mày béo tốt, khiến ham thích thú vui chẳng chán. Vì nhờ
đó mà nuôi thân và giữ gìn thân,
là vì nhờ thực phẩm đó mà thân
được an ổn, tựa như trục xe được bôi dầu mỡ.
Vì để trừ đói khát, là
thường nghĩ ăn ít, như da bị nhọt được thoa
thuốc. Vì để thọ trì Phạm
hạnh, là nhờ ít ăn mà vui
đi trên
đường Thánh đạo, xem ẩm thực như đang ăn thịt con cái của mình.
Vì ăn uống là
để trừ bịnh cũ chẳng gây thêm tật mới,
là chẳng nhiều chẳng ít, tu tập như thể người
đang uống thuốc. Vì lấy ít mà
được tự an, là nhờ vừa lòng với số
ít mà giữ thân được thường an ổn, như cách
người y tá săn sóc bịnh nhơn. Thường chẳng lỗi lầm, là nhờ
ưng bụng với số ít mà lo tu hành nên thường chẳng khiến thâm tâm bị lời
trách khó của bực có trí huệ, nên được an trú
trong chỗ chẳng lỗi lầm.
Nếu việc ăn uống được thích hợp, thì
chẳng thường lười biếng; đầu hôm, nửa đêm
và hừng sáng cũng chẳng mê ngủ, thành tựu
được sự an ổn. Như thế, nên dùng tám lối quán như trên
để tu hành về việc khất thực.
Lại nữa, tám điều quán chiếu trên
đây còn
được tóm lại thành bốn cách quán chiếu khác nữa: quán về việc
cần phải cắt bỏ, quán về sự, quán về lấy ít
để tự an, quán về ưng bụng với
số ít.
Hỏi: Thế nào là quán chiếu về việc cần phải cắt bỏ?
Đáp: Chẳng vì hành động hung
hiểm, chẳng vì tự cao, chẳng vì lo cho thân thể
được đẹp đẽ, đó là
đề tài quán chiếu về các việc cần
cắt bỏ. Nhờ đó mà nuôi thân và giữ
gìn thân, để trừ đói khát và
để thọ trì Phạm hạnh,
đó là đề
tài quán chiếu về sự. Tôi đang
trừ bịnh cũ chẳng gây thêm tật mới, đó
là đề tài quán chiếu về lấy
ít để tự an. Tôi
đang ưng bụng với số ít, thành ra vui
trú trong sự chẳng lỗi lầm, đó là
đề tài quán chiếu về sự ưng bụng
với số ít.
Bốn món quán chiếu vừa kể còn được tóm lại
thành ba, đó là: quán
đoạn nhị biên (nhị biên =
hai bên, hai cực đoan), quán
đắc Trung đạo (= con
đường ở giữa, tránh xa hai cực đoan),
và quán cụ túc (= đầy đủ, xong
xuôi hết). Dùng lối quán các việc cần cắt bỏ
để đoạn trừ sự ràng buộc của các dục
lạc (= ham muốn thú vui), để dứt sự đói khát,
để trừ bịnh cũ và ngăn tật mới, và
lại để chống lại sự mệt mỏi của thân xác.
Phần còn lại dùng quán về đắc Trung
đạo và quán về cụ túc để
ứng dụng tu hành.
Lại quán y phục để ngăn trừ gió,
lạnh, nóng, muỗi, mòng, kiến, để khỏi
sanh hổ thẹn che đậy các chỗ kín (trên thân thể) (...) Lại cũng
quán như thế về thuốc men cho đến các tật
bịnh.
Nếu quán đúng như trên,thì
lúc nào phải khởi lên làm công việc quán chiếu? Về
ăn uống và thuốc men, phải khởi quán
khi bắt đầu dùng. Về áo quần, giường
nằm, khởi quán khi vừa nhận được. Lại nữa, ngày
ngày, giờ giờ, đều quán rằng, mạng sống của
tôi đây là do nơi nhờ vào người khác, nên lúc nào tôi cũng phải
quán như thế. (...)
Về sự thọ dụng (= nhận dùng sự vật được
cúng thí), các đại sư tiền bối dạy có
bốn thứ thọ dụng: dùng như kẻ trộm, dùng như thiếu
nợ, dùng như hưởng gia tài, dùng như chủ. Thế nào là thọ
dụng như kẻ trộm? Đó là người
vi phạm giới. Thế nào là dùng như thiếu nợ?
Đó là người chẳng biết tự thẹn, chẳng
biết xấu hổ đối với kẻ khác, sống theo tà
mạng. Thế nào là thọ dụng như hưởng gia tài?
Đó là sự thọ dụng của người tinh tấn
tu hành. Thế nào là dùng như chủ? Đó là
sự thọ dụng của bực Thánh nhơn.
Lại nữa, có hai thứ thọ dụng: thọ dụng dơ bẩn và thọ dụng
trong sạch. Thế nào là thọ dụng dơ bẩn?
Đó là sự thọ dụng của người tuy biết
tự thẹn, biết xấu hổ đối vơí kẻ khác, nhưng
chẳng năng quán. Thế nào là sự thọ dụng trong sạch?
Đó là sự thọ dụng của người biết tự
thẹn, biết xấu hổ đối với kẻ khác, thường
luôn biết tự mình tiết chế lấy và chán ghét các tư tưởng xấu ác.
Nên thường phải hiểu biết sự trong sạch đó và
năng tu tập như thế.
Đấy là Giới về tu hành tứ sự.
Như thế, luật nghi giới dùng sự thâm tín (= tín sâu) mà
thành mãn; mạng thanh tịnh giới dùng sự tinh tấn mà thành mãn; căn
uy nghi giới dùng sự thâm tín mà thành mãn; Tu hành tứ sự giới dùng
thâm huệ mà thành mãn.
Như thế, mạng thanh tịnh giới đi cùng
với luật nghi giới. Tại sao vậy? Bởi vì, chẳng vì mạng sống mà cắt
đứt ràng buộc của mọi sự thì thân tâm
trở nên an ổn khiến việc làm đắc được uy nghi
cho nghiệp thân và nghiệp miệng. Cả hai loại giới nầy
đều đi cùng với căn
uy nghi. Tại sao vậy? Bởi vì, nếu khéo giữ
được tâm lành thì nghiệp thân, nghiệp
miệng cũng sẽ được khéo giữ gìn. Tu
hành tứ sự chính là căn uy nghi.Tại sao vậy?
Nếu biết được năm uẩn và sự tương thuộc của chúng mà sanh ra nhàm
chán, thì an trú được trong Chánh niệm và
Chánh định. Như Thế tôn có nói, Tỳ-kheo hiểu
được đoàn thực (= thức ăn vo tròn,
tức là thức ăn vật chất) thì hiểu
được năm món dục lạc đầy đủ.
Như thế, luật nghi và mạng thanh tịnh thuộc về nhóm Giới. Căn
uy nghi giới thuộc về nhóm Định. Tu hành tứ sự thuộc nhóm
Huệ.
Những gì khiến việc thọ giới được thanh
tịnh? Nếu Tỳ-kheo vừa mới thọ pháp thiền, nơi thất tụ (= bảy
nhóm vi phạm giới) quán thấy tự thân mình phạm giới Ba-la-di, bị
mất thể chế Tỳ-kheo, trú sống trong giới bất cụ túc (= giới chẳng
đầy đủ). Nếu sống trú trong giới cụ túc (đầy
đủ) thì đang đắc được thắng pháp. Đấy
là lời chỉ dạy của bực đại sư tiền
bối.
Nếu thấy mình phạm giới Ba-la-di thì hướng về Tăng
đoàn xin sám hối tất cả tội lỗi; nếu thấy mình phạm các tội khác
còn lại, thì hướng về một người để xin sám
hối; nếu thấy mình phạm tà mạng, thì hướng về nơi phạm tội xin sám
hối lỗi đã phạm. Sám hồi như thế xong,
(tự hứa) tôi sẽ chẳng tái phạm. Thấy được như
vậy, cứ như thế mà thọ trì. Phạm vào căn
uy nghi giới có liên quan đến việc tu
hành tứ sự, (cũng hứa) tôi sẽ chẳng tái phạm. Nếu thọ trì
được như thế, trong tương lai Tỳ-kheo sẽ đắc
được uy nghi cao đẹp. Tỳ-kheo theo giới thanh tịnh như thế thì các
chỗ đáng nên làm, nơi nghiệp thân,
nghiệp miệng, hiện đang được làm. Phải
nên quán về mình, về hành động của mình,
khéo tiêu trừ các điều ác. Phải nên
quán ngày ngày đêm
đêm, an trú trong sự thanh tịnh của
giới. Nếu được như thế, liền khiến giới được
thanh tịnh.
Tướng của giới thanh tịnh ra sao? Ứng phó
được với các phiền não, chẳng khởi lên
sự lùi sụt và hối hận, đắc được định tâm. Thành
mãn được như thế thì gọi
đó là hình tướng của giới thanh tịnh.
Bao nhiêu nguyên nhân giúp an trú trong giới? Có hai nguyên
nhân. Thứ nhứt, cân nhắc tai họa của tội phạm. Thứ hai, cân nhắc công
đức của giới.
Cân nhắc tai hoạ của tội phạm như thế nào? Người nếu vi phạm giới
thì tạo nên tội chướng, dấn mình vào các
đường dữ, sợ hãi trước bốn chúng (tứ chúng = 1. Tỳ-kheo, 2.
Tỳ-kheo-ni, 3. thiện nam, 4. tín nữ) và hay nghi ngờ. Người trí có giới
thì xa lánh, chẳng chịu dạy Thiền; bực Trời chê dơ; mọi người oán ghét và
khinh bỉ. Nghĩ đến việc phạm giới của mình,
khi nghe ai khen ngợi công đức của việc trì
giới, lòng thì hối tiếc nhưng lại chẳng tin. Thường hay nổi giận và gây gỗ
với bốn chúng. Nơi các thân hữu, thường khởi oán hờn. Xa lánh các người
giữ giới mà đi kết bè
đảng với kẻ ác. Chẳng thể kham chịu bền chí
để đắc được pháp thù thắng về Định. (thù
thắng = hơn hết). Tuy trang sức cho đẹp
nhưng chẳng dấu nổi chỗ xấu ác, tựa như phẩn, nước tiểu bị người gớm ghét,
như đồ giả chẳng bền, như bùn lầy nước
đọng, chẳng có giá trị, ích lợi gì trong hiện tại hay vị lai cả.
Thường sanh lo lắng, phờ phạc; nhớ đến tội đã
phạm mà hối tiếc, chẳng an, giống như kẻ trộm bị giam trong ngục. Tâm
chẳng vui đạo Thánh, như kẻ chiên-đà-la
(= giai cấp cùng đinh) chẳng dám mơ đến ngai
vàng. Cho dầu có được nghe giảng về
công đức của trí huệ, nhưng cũng chẳng được ai qúi kính, tựa như lửa của
phân bò. Sống chẳng tìm được nơi như
ý, chết thì thần thức hôn mê, lạc vào nẻo dữ.
Cứu xét tất cả các lỗi như trên, đó là
biết cân nhắc các tai hoạ của việc phạm giới.
Nếu người muốn dẹp bỏ các điều ác đó mà
thành toàn công đức của giới, thì nên
cân nhắc như vầy: Kẻ nào phạm giới, thì tâm ý chán nãn não nề, tình chí rã
rời, lùi sụt; còn người giữ vẹn giới hạnh thì, với nỗ lực cao thâm, gia tăng
gấp bội niềm tin mà trở thành con người tinh tấn, kính tín.
Một lòng giữ giới như kiến giữ trứng, như trâu ly mến cái
đuôi của nó, như nuôi con một, như che chở
một con mắt còn lại, như bà đồng giữ
thân mình, như kẻ nghèo giữ gìn của báu, như thuyền trưởng bảo vệ
chiếc tàu. Lại còn hơn những người đang giữ gìn
đó, người trì giới kính tin và giữ gìn
giới mình đã thọ. Thọ trì như
thế thì tâm được phòng vệ, an trú
trong thiền định, khiến cho giới hạnh được
thủ hộ.
-ooOoo-