PHẦN TÌM HIỂU
Phần Tìm hiểu Phẩm 5:
Tìm Gặp Thiện Tri Thức
Chuyển tiếp: Sau khi chỉ rõ cách giữ gìn thân theo
đúng Giới hạnh và cách kềm thúc
tâm cho được an trú, Luận văn khuyên
người tu hành nên tìm gặp một người hướng dẫn cho mình tu tập
đúng đường lối để đạt được kết quả tốt đẹp.
Tiếp theo hai Phẩm về Giới và về
Định, Phẩm 5: Tìm gặp Thiện tri thức nói
đến sự giúp đỡ của Thầy hay bạn đồng tu.
027. Ýchánh Phẩm 5: Tìm gặp Thiện tri thức.
"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn"
lời tục thường nói như thế. Trong khi tu tập theo
đường lối giải thoát, hành giả
cần có người giảng dạy giáo pháp để biết cách
hành trì và tránh các lỗi lầm. Phẩm 5: Tìm gặp Thiện tri thức
nêu lên các đức tánh cao qúi cần có của
một bực Thiện tri thức, đủ cho hành giả nương tựa theo.
Luận văn còn
đi sâu vào chi tiết các nghi thức mà
một vị khách Tỳ-kheo cần phải thi hành khi
đi tìm và
đến gặp các bực Thiện tri thức.
028. Dàn bài của Phẩm 5:
I. Nhập đề: Gặp
được một vị Thiện tri thức có được những
ích lợi nào cho việc tu tập?
II. Thân bài:
A) Những đức tánh của
bực Thiện tri thức:
1. Ba đức tánh cao nhứt của một vị
xứng danh là bực Thiện tri thức: (1) Thông hiểu Tam tạng
Kinh điển, (2) hiểu rõ nghiệp
chủng, (3) đắc thần thông.
2. Bảy đức tánh tốt nơi người có
thể được xem là Thiện tri thức: (1) khả kính ái: vui sống
chung trong hoà giải, (2) đáng trọng:
giới hạnh thanh tịnh, (3) đáng qúi: tu huệ và trọng thiền,
(4) khéo giảng, (5) nhẫn nhục, (6) lời cao thâm về nghiệp quả, (7)
chẳng ở nơi chẳng phải chỗ.
B) Các nghi thức một vị khách Tỳ-kheo tuân theo khi tìm
gặp một bực Thiện tri thức:
1. Làm sao để tìm một bực
thiện tri thức?
2. Khi gặp, nên thưa hỏi những gì?
3. Khi rời đi, phải làm những
gì?
III. Kết luận: Bài Kệ của Đức
Phật về Thiện trí thức.
029. Tìm hiểu nghiã các chữ khó:
Thiện tri thức: Thiện = lành, khéo; Tri thức = hiểu
biết. Thiện tri thức, còn gọi là Thiện hữu tri thức là
người, bực thầy hoặc bạn thân (hữu = bạn hữu, bằng hữu) có nhiều
hiểu biết về Đạo, sẵn lòng chỉ dạy cho
mình tu tập theo.
Tỳ-kheo Vân: Kinh Pháp Cú, nơi hai bài Kệ số 33 và 34 có nói
đến Tỳ-kheo Mễ-ghi-dạ (Meghiya)
cãi lời Phật đến vườn xoài ngồi Thiền,
nhưng tập chẳng có tiến bộ về Định tâm, nên
bị thoái sụt. Ý muốn nói, tu hành muốn tiến bộ phải nghe lời thiện tri
thức. Chữ Vân là dịch tên Meghiya.
Thoái sụt: Thoái = thối lui lại; sụt = lọt xuống
dưới. Tu hành bị thoái sụt là bị mất hết công
đức, rơi trở lại mức thấp
Phạm hạnh: có giải nghiã ở Phẩm 2: Phân biệt Giới.
Chí thiện: Chí = hết sức, cùng cực,
đến mức thật cao. Chí thiện là
hết sức lành.
Bằng hữu: bạn bè, bạn thân.
Nghiệp chủng: Nghiệp = tất cả hành
động đã qua mang
đến hậu quả cho ngày nay, hay về sau.
Nghiệp thiện mang quả báo lành; nghiệp ác mang quả báo xấu dữ. Chủng =
hột giống. Theo Duy thức học, mỗi hành vi gây nên nghiệp, kết thành
hột giống, nằm trong thức A-lại-da (= thức thứ tám), chờ ngày phát sanh ra
quả báo. Hiểu rõ về nghiệp chủng, ý muốn nói, hiểu biết rõ về
Luật Nhân Quả, hễ gieo nhân nào thì sớm muộn chi cũng phải gặt quả của
nhân đó.
Nghiệp quả: tức là quả báo của nghiệp lực.
Nhẫn nhục: Nhẫn = nhịn chịu, chịu
đựng; nhục =
điều sỉ nhục, nhục nhã. Nhẫn nhục
là một đức tánh cam gánh chịu điều khổ
sở, khó nhọc và cả điều sỉ nhục nữa.
Đây là một hạnh cao qúi của Bồ-tát
đạo, vừa chịu cam go, khổ nhục,
lại vừa bền chí kiên trì gánh nổi khó khăn mà
chẳng than van.
Hiền Thánh: Theo giáo lý Bắc tông, ba
đạo quả Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm
và A-na-hàm tuy được vào dòng Thánh,
nhưng chưa tận diệt hết các phiền não và chưa chứng
đắc được vô sanh (= thoát vòng Luân
hồi sanh tử), nên được sắp vào bực
Hiền. Từ cấp A-la-hán trở lên, đã
sạch phiền não và chứng vô sanh, mới gọi là bực Thánh.
Chấp trước, chấp tướng: Chấp = cầm giữ chặt chẳng
chịu buông bỏ; Trước = kẹt dính vào nên bị ràng buộc. Tướng =
hình tướng, hình dáng bề ngoài. Chấp trước là vì bám níu chặt
quá cho nên mắc kẹt vào đó, buông bỏ ra chẳng
được. Chấp tướng là quá chuộng về hình tướng hoặc nghi thức
bên ngoài, chẳng nghĩ đến bản thể, hoặc nội
dung bên trong.
Tán tụng: khen ngợi, có đôi chút hơi
quá mức.
Hoan hỉ: Hoan = vui vẻ; Hỉ = mừng.
Nhứt thời: Nhứt = một; Thời = lúc. Nhứt thời
là một lúc, chẳng kéo dài lâu, chẳng thường lập lại.
Thiền cụ: Thiền = tu Thiền, ngồi tư duy; Cụ = dụng
cụ, đồ dùng. Thiền cụ là
đồ dùng trong lúc ngồi Thiền, như nệm,
bồ đoàn (còn gọi là toạ cụ).
Vi nhiễu: Vi = chung quanh; nhiễu =
đi chầm chậm, bao vây. Vi nhiễu
là bước chậm ba vòng chung quanh người hay chỗ mà mình kính lễ.
Tháp = ngôi mộ xây nhọn lên cao, thường
để hài cốt hoặc tro của các vị cao tăng
ở chùa.
Khất sĩ: hay Tỳ-kheo hoặc Tỳ-khưu, người tu sĩ
đã thọ giới Cụ túc, theo giới hạnh
đi ăn xin mỗi ngày, chẳng
được phép có nghề sanh sống riêng.
Luật sư: Luật = ở đây là
Luật tạng, các giới luật được Đức Phật
và Giáo hội qui định, phải tuân hành;
Sư = thầy dạy. Luật sư là vị Tăng
thông đạt Luật tạng và giảng dạy Giới luật cho các Tỳ-kheo trong
chùa.
Thượng toạ: Thượng = cao; Toạ = ngồi. Thượng toạ
là tiếng gọi vị cao tăng, có trên
30 tuổi đạo (mỗi năm dự một khoá An cư kết
hạ, thì được một tuổi đạo).
Hoà thượng: Vị cao tăng tuổi đời đã
cao mà tưổi đạo cũng trên 40. Thường
là vị sư trụ trì trong chùa.
Khách tăng: vị tăng
đến chùa khác để học tập
Luận sư: Luận, ở đây là
Luận tang, một trong ba tạng Kinh điển
Phật giáo, gồm các bộ Luận do Đức Phật, các Bồ-tát và A-la-hán viết
để giải thích rõ thêm về Kinh. Vị
Luận sư là vị tăng thông đạt về Luận tạng
và chỉ dạy lại cho Tỳ-kheo.
Kệ: một bài văn tương đối ngắn, thường
là thể thơ, để nêu lên ý chánh
của bài thuyết pháp vừa giảng xong.
Chỉ thị: lịnh phải thi hành, lời dạy phải tuân theo.
Pháp lạc: Pháp = Chánh pháp, pháp tu; Lạc = vui.
Lòng vui trong pháp lạc là tâm vui vì đã
hiểu được Chánh pháp, tu hành theo và
đạt được kết quả tốt.
Trú pháp: Trú = ở yên đó.
Trú pháp là hiểu được Pháp rồi,
liền an trú tâm vào đó và thực
hành mãi đúng theo Pháp.
Tín tâm: Tín = tin tưởng. Tín tâm là lòng vững tin.
030. Tìm hiểu ý nghiã về nội dung Phẩm 5:
Nội dung của Phẩm 5: Tìm gặp Thiện tri thức có hai phần chánh,
như đã biết qua trong Dàn bài. Phần
thứ hai dành cho bực tu hành xuất gia. Các nghi thức mà một Khách
Tỳ-kheo phải tuân theo, được Luận văn kể lại
ở đây, là các nghi thức tại các chùa theo Nam tông, nhứt là tại
nước Tích lan. Có sự khác biệt đôi chút về
nghi thức, tùy theo mỗi quốc gia.
Phần thứ nhứt là phần mà người Phật tử tại gia cần nên quan tâm
nhiều, nhứt là các đức tánh của bực Thiện tri
thức mà mình muốn đến gặp. Thông
thường, các người ham tu nghe đồn có vị cao tăng nào
đắc đạo, thì liền
đổ xô tìm
đến. Một bực Thiện trí thức xứng danh cần phải có
đủ các đức tánh nêu rõ trong Luận văn,
ta nên tìm hiểu cho kỹ, nhứt là về gìới
đức của vị ấy. Vấn
đề đắc thần thông, cần nên hết
sức thận trọng kẻo lầm; vả lại thiện tri thức mà có thần thông cũng chẳng
giúp chi nhiều cho những người tìm đến học
tập về đạo pháp để được giải thoát.
Bảy đức tánh tốt của một người
mà ta có thể xem như là thiện tri thức, mà Luận văn
đã kể ra ở trang 50, gom lại thành hai
điều: (1) có giới hạnh đáng qúi
trọng; (2) thông hiểu Chánh pháp và ít nói nhưng khéo giảng dạy về
Thiền định.
Bài Kệ ở đoạn kết luận có thể
tóm tắt lại bốn câu:
- hai câu về bựcThiện tri thức:
"Hiểu pháp nhờ trú pháp,
Giảng pháp đúng như thật."
- hai câu về người đi tìm gặp
Thiện tri thức:
"Gặp bực thầy như thế,
Nên tu chẳng lười nhác."
031. Vài điều suy gẫm, nhân
đọc Phẩm 5:
1) Ngay tại câu hỏi mở đầu Phẩm 5,
Luận văn bảo, người mới tập Thiền muốn
đắc được Định thật cao mà xa lià bực
Thiện tri thức, thì chẳng đạt được sự ổn
định."; câu nầy phải chăng quả
quyết rằng, nếu chẳng có thiện tri thức giúp
đỡ, thì chẳng thể nào
đắc được Định? Tôi chẳng nghĩ như
vậy. Có lẽ muốn nhấn mạnh đến sự quan trọng
cần có sự hỗ trợ của Thiện tri thức (Thầy hoặc bạn đồng tu) trong việc tu
tập Thiền mà Luận văn đã viết
như thế. Vì lẽ vào trong Thiền, hành giả sẽ gặp nhiều cảnh giới khác
thường, nếu chẳng có người chỉ dẫn e có sự sợ hãi, hoặc
đi lạc lối chăng. Điều nầy tôi xin hoàn
toàn đồng ý.
Thắc mắc sở dĩ được nêu ra là vì,
vào thời buổi hiện nay, để thu hút các tín
đồ, nhiều nhà tu hành đã không
ngần ngại "quảng cáo" thành tích của mình một cách rầm rộ. Một bực chơn tu
chắc chẳng chịu làm như thế. Nghe lời đồn,
rồi chạy theo, chắc chi đã gặp một bực thiện tri thức chơn chánh.
Có lẽ, nên đem các thắc mắc, nghi ngờ của mình
đang gặp phải trong khi tu tập, ra thưa hỏi
ngay với vị Thầy ở chùa mình, bao giờ mình áp dụng
đúng theo mà chẳng thấy có kết quả,
bấy giờ sẽ đi tìm Thiện tri thức ở nơi
khác để ... cho thuốc chữa. Mà rồi lại
cũng phải chính mình thử nghiệm lấy, thấy có
đúng rồi mới tin. Đó chẳng phải là quá
đa nghi, mà là cách để tránh khỏi được
sự tin mù quáng. Thà mang lấy một mối nghi, tuy có hại thật,
nhưng còn ít hại hơn là cứ nhắm mắt tin mù!
Hoá cho nên, khi tập Thiền mà còn chưa đắc
Định, gần chín mươi phần trăm là tại mình: tại mình còn nhiều dục
vọng, tại mình áp dụng phép tập còn chưa đúng
cách, tại mình chẳng được chuyên
cần cho lắm; chớ nào phải hoàn toàn tại vì thiếu chẳng có bực thiện tri
thức nào giúp đỡ.
2) Nơi Phần thứ hai của Phẩm 5 nầy, bộ Luận
đã chỉ rõ những bổn phận của người tu
hành đối với bực Thiện tri thức mà
mình tìm đến gặp. Các bổn phận đó, cung kính
với người mà mình xem như Thầy dạy mình, tuân hành chẳng sai sót
các chỉ thị của người, học tập chẳng được
lười nhác, v.v., để tỏ ra mình là người học trò
đứng đắn biết lễ trọng sư.
Điều đó rất quan trọng chẳng cần phải nói thêm
chi cho quá dài dòng.
Nhưng có một điều chẳng thấy Luận văn nói
đến là, trước khi đi tìm gặp
bực Thiện tri thức, hành giả đã có
sự chuẩn bị đầy đủ về phiá mình
chưa. Nói rõ hơn, đối với tu sĩ xuất gia, đã
học thuần thục hết chưa các điều cần thiết
nơi chùa mình, mà vội lên đường đi hành
cước du học? Đối với các Phật tử tại gia, đã
thu xếp xong chưa các công việc nhà, các công việc sở, trong khi mình vắng
mặt, kẻo lúc trở về lại gặp khó khăn lớn hơn
lúc ra đi?
3) Sanh vào thời Đức Phật, nghe được
Chánh pháp, chẳng phải là việc mọi người mong muốn mà
được ngay đâu, cơ hội ngàn năm
một thuở! Gặp được một bực Thiện tri thức cũng lại khó khăn chẳng ít. Thế
cho nên, nghe đâu nói có người sẵn lòng
chỉ dạy giáo pháp cho mình, nên cố gắng thu xếp công việc
để đến gần gũi. Còn ngại ngùng, còn
nghi nan, thì phải tự hỏi lòng mình cho thành thật,
đã dẹp xong lòng tự ái cá
nhơn chưa, hay bụng tự hào ta đây cũng
biết rồi, để đến với thái độ của người tầm sư học
đạo, mà nghe lời chỉ dạy. Tìm cớ
thoái thác chẳng chịu khó đi tìm gặp,
phải chăng đó là một hình thức còn
ngạo mạn, biết bực chơn tu mà chẳng đến hầu.
4) Nếu cơ duyên để gặp được bực Thiện
tri thức còn chưa đến với mình,
thì phải làm sao? Thiển nghĩ, Thiện tri thức bằng xương bằng thịt thì khó
tìm thật, chớ còn tìm những lời vàng ngọc chỉ nẻo dẫn
đường trên hành trình tu tập cũng
chẳng quá khó. Tìm ở đâu? Ngay trong các Kinh
Luận, đấy chính là những bực Thiện tri thức âm thầm và kiên nhẫn
cho những người chịu khó bỏ công đi tìm.
Quả thật, Kinh Luận Phật học chẳng dễ gì
đọc, hiểu và thi hành đúng theo, vì
các lời Phật và Bồ-tát dạy dành cho những bực căn
cơ cao, đã đi xa trên
đường tu hành. Nhưng biết mình là kẻ
sơ cơ, thì đừng bao giờ cố tìm trong
Kinh Luận những lời lẽ cao thâm mà học để làm
vốn tranh luận trong các cuộc mạn đàm.
Cứ chọn ngay những điều dễ hiểu mà
học, những lời dạy dễ làm mà theo, bền chí sẽ lần lần tiến lên gần với mục
tiêu. Điều quan trọng là
đừng đọc Kinh Luận với một tinh
thần của người xem văn chương để giải trí,
mà phải giữ mãi trong trí hình ảnh một người
đang đến cầu pháp với bực Thánh hiền.
Kinh sách quá khó chăng? Hãy
để sẵn quyển Từ điển bên cạnh, gặp chữ
khó, tra cứu ngay; nay còn chưa hiểu hết, mai nầy sẽ có dịp tìm bắt
được chỗ thâm sâu.
Bạn nghĩ thế nào về Bộ Luận đang đọc đây?
Riêng tôi, tôi thành kính xem như đang
được Ngài A-la-hán Upatissa, tác giả bộ Luận nầy,
ngồi trên bồ-đoàn giảng pháp cho kẻ
còn ngu đần nầy nghe. Nhưng Ngài chẳng
quở tôi ngu, Ngài chẳng phiền tôi lười, Ngài vẫn lặng lẽ giảng, và lời
Ngài có khó hiểu thì tôi cũng chẳng sợ Ngài nóng ruột khi tôi giở từng
trang Từ điển ra tra!... Tôi chẳng dám viết
thêm lang bang nữa, chỉ mong người đọc
trân qúy Kinh sách như là các bực Thiện tri thức chơn chánh rất khó
tìm thấy ở trên đời!
-ooOoo-