Có những nước Á Châu như
nước Srilanca, vào ngày Phật Đản không có ai bị đói bụng hết. Tại vì
nhà nào cũng để mâm cơm ở trước cửa và bất cứ ai đói bụng cũng đều được
mời ăn cơm đó. Trong ngày Phật Đản không có ai bị đói vì nhà nào cũng
cúng dường cơm, chùa nào cũng cúng dường cơm. Đây là một truyền thống có
từ mấy ngàn năm trước, từ thời Đức Thế Tôn.
Tại thành phố Huế ở Việt
Nam, vào ngày Phật Đản không ai giết một con gà, một con vịt. Ngày đó
tất cả mọi người đều ăn chay, khi ra chợ những người bán hàng cũng chỉ
bán đồ chay thôi. Đó là một ngày không sát sinh. Trong ngày Phật Đản và
từ trước đó, nhiều người đã thả chim, thả cá tạo niềm vui và hiến dâng
sự sống cho nhiều loài hữu tình. Đó là cách thực tập từ bi để báo ơn
Bụt. Ngày này, chúng ta thực tập từ bi bằng nhiều cách: Không sát sinh
mà lại phóng sinh, không trừng phạt mà lại tha thứ. Ngày Phật Đản là một
cơ hội để cho các nhà cầm quyền có cơ hội phóng thích tù nhân.
Có một người sinh cách
đây 2600 năm mà cách sống của người ấy vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong
xã hội loài người, người đó phải có một nhân cách rất vĩ đại. Chính vì
vậy cho nên chúng ta xưng tụng người đó là Đức Từ Bi. Những người Phật
tử sống ở châu Âu và châu Mỹ đã chấp nhận ngày Giáng Sinh là một ngày lễ
của người Phật tử. Đối với người Phật tử thì không khó khăn gì để chấp
nhận đức Kitô là một vị Bồ Tát. Vì vậy người Phật tử sẵn sàng để ăn
Noel. Thay vì giết một con gà lôi (gà tây) để ăn Noel thì người Phật tử ở
phương Tây lại ăn chay để khỏi phải sát sinh. Nếu người Phật tử cứ thực
tập như vậy một hồi thì ở châu Âu và châu Mỹ người ta sẽ chuyển hướng,
họ cũng sẽ không giết một con gà lôi mỗi khi ngày Giáng Sinh tới.
Ở Việt Nam, ngày này
Phật tử làm lễ đài rất lớn, có những xe hoa được trang hoàng công phu.
Nhưng phải làm sao để đừng bị tốn kém, đừng phung phí, vì thiểu dục vốn
là một truyền của Phật giáo. So với lễ Noel thì lễ Phật Đản ít tốn kém
hơn nhiều. Nếu quý vị Phật tử ở các nước châu Âu, châu Mỹ mà làm lễ
Noel cho đàng hoàng theo tinh thần Phật Đản thì sẽ gieo được những hạt
giống tốt. Các thân hữu Kitô sau này cũng sẽ chịu ảnh hưởng và sẽ tôn
trọng sinh mạng của các loài cầm thú và cỏ cây.
Chúng ta là những người
con Bụt, đã quy y, tức là đã quay về nương tựa Bụt. Nhưng từ nhỏ tới lớn
chúng ta đã có nhiều quan niệm về Bụt khác nhau, cái quan niệm về Bụt
của chúng ta cứ thay đổi hoài. Khi còn là một em bé, quan niệm về Bụt
của chúng ta khác. Lớn lên, tìm hiểu, đọc sách về Bụt thì quan niệm của
chúng ta về Ngài lại khác hơn. Theo năm tháng, ý niệm của chúng ta về
Bụt ngày một thay đổi. Nếu tu tập tinh tấn thì tới một ngày nào đó chúng
ta có một ý niệm về Bụt rất gần với sự thật. Ví dụ mình tu hành sáu
mươi năm, hay sáu mươi lăm năm thì mình có thể trải qua bẩy mươi hay tám
mươi cái quan niệm về Bụt. Nhưng nhờ sự tu chứng, mình sẽ đi qua một
cái ý niệm về Bụt sát với sự thật hơn. Nếu mình có một quan niệm về Bụt
thì có thể quan niệm đó chưa gần với sự thật lắm đâu. Chúng ta phải sẵn
sàng để buông bỏ cái ý niệm đó đi.
Trong cơ đốc giáo cũng
như Phật giáo, người ta nghĩ đến đức Kitô hay đức Thích Ca với những tư
liệu mà người ta có được trong Thánh Kinh và trong Kinh Bụt, rồi dựa vào
những tư liệu đó mỗi người có một ý niệm về Chúa hay về Bụt cho riêng
mình.
Cái đó cũng đúng thôi,
nếu chúng ta thực tập cho sâu sắc thì chúng ta biết rằng Bụt cũng vô
thường mà Chúa cũng vô thường. Vô thường đây không có nghĩa là sau khi
chết không còn nữa, vô thường đây có nghĩa là sau khi chết thì vẫn tiếp
tục, nhưng tiếp tục dưới hình thức khác. Cho nên đi tìm Chúa, đi tìm Bụt
là trách vụ của người tu học. Mà tìm Bụt ở đâu? Tìm Chúa ở đâu? Bụt và
Chúa có phải là những thực tại nằm ngoài chúng ta không? Đó là vấn đề
cần phải đặt ra.
Chúng ta có một hình ảnh về đức Thích Ca qua những tư liệu mà chúng ta
thu nhập được từ kinh điển. Đó là hình ảnh một vị thái tử thành Ca Tỳ La
Vệ, lớn lên trong nhung lụa, tới khi trưởng thành thì bỏ nhà đi xuất
gia, tu khổ hạnh, sau đó thành đạo và đi thuyết pháp bốn mươi chín năm.
Đó là hình ảnh về đức Thích Ca của chúng ta. Khi tạc tượng hay vẽ hình
thì chúng ta căn cứ trên dữ liệu đó. Ta phải biết rằng đó chỉ là hình
ảnh đầu của đức Thích Ca mà thôi, sau khi ngài nhập diệt thì hình ảnh đó
trở nên khác. Cho nên mình phải thực tập như thế nào để đừng bị dính
mắc vào cái hình ảnh của Bụt mà mình đã tạo dựng ra từ những tư liệu mà
mình đã sử dụng trong kinh điển.
Ban đầu thì đó là sự
thật hết, chúng ta cần có một hình ảnh, và những hình ảnh đó mình tìm
thấy được trong kinh điển. Chúng ta cần cái hình ảnh, nhưng nếu chúng ta
bị vướng mắc vào cái hình ảnh đó và nghĩ rằng Bụt bây giờ cũng vẫn như
xưa thì chúng ta sai lầm. Nếu cứ tưởng rằng Bụt bây giờ vẫn giống như
Bụt của hai ngàn sáu trăm năm trước. Rằng sau khi chết tướng của Ngài
không thay đổi, Ngài vẫn đang ở đâu đó trên trời hay dưới biển thì chúng
ta lầm to. Chúng ta bị rời vào một cái kiến chấp gọi là thường kiến.
Còn nếu nói rằng: Sau khi chết Bụt không còn nữa thì đó là rơi vào đoạn
kiến. Mà rơi vào đoạn kiến hay thường kiến thì cũng đều sai lầm cả.
Vậy thì chúng ta phải đi
tìm Bụt như thế nào để thấy được Bụt, để tiếp xúc được với Bụt như là
một thực tại mà không phải là một ý niệm. Nếu quý vị tới từ truyền thống
Cơ Đốc Giáo thì quý vị cũng biết như vậy. Nếu mình đi tìm Bụt như thế
nào thì mình cũng đi tìm Chúa như thế. Nếu mình kẹt vào ý niệm thường
thì mình không tìm được Bụt được Chúa, mình kẹt vào ý niệm đoạn thì mình
cũng không tìm thấy Chúa, thấy Bụt. Cái ý niệm đó nó giam hãm mình.
Trong cuốn Sám Pháp Địa
Xúc, đoạn đầu chúng ta quán Bụt như một vị thái tử, có vợ, có con rồi đi
xuất gia và thành đạo. Nhưng phần tiếp theo của cuốn sách, chúng ta đã
đi khá hơn, chúng ta đã thấy được sự tiếp nối của Bụt sau khi thành đạo.
Thấy được hình ảnh giáo đoàn của Ngài, và sau nữa thấy được hình ảnh
của Bụt khi Ngài già yếu. Đó chính là một phương pháp hành trì gọi là
quán Bụt, tức là nhìn sâu để thấy được Bụt. Ban đầu thì mình có thể
nương vào những hình ảnh của Bụt mà mình có được từ những tư liệu trong
kinh điển. Nhưng sau đó mình phải đi xa hơn. Mình phải thấy cái hình ảnh
ban đầu đó nó vô thường, và mình phải tìm thấy sự tiếp nối của Bụt một
cách rõ ràng, chắc chắn mà đừng nương vào những tưởng tượng.
Bụt là một con người mà không phải là một vị thần linh
Đọc kinh điển chúng ta
thấy rất rõ Bụt là một con người mà không phải là một vị thần linh. Nếu
chúng ta nghĩ Bụt là một vị thần linh không hề thay đổi thì chúng ta lạc
vào tà kiến. Chúng ta biết rằng không phải khi hình hài của chúng ta
tan rã thì chúng ta mới bắt đầu tiếp tục mà chúng ta tiếp tục ngay trong
khi hình hài này còn nguyên vẹn chưa bị tan rã.
Tại Làng Mai chúng ta đã
từng nghe nhiều lần câu nói: “trong từng giây phút của đời sống hằng
ngày, chúng ta chế tác những tư duy, những ngôn ngữ, những hành động”.
Không có giây phút nào mà chúng ta không chế tác những tư duy, những
ngôn ngữ, những hành động. Những tư duy, ngôn ngữ hành động đó mang chữ
ký của chúng ta, đó là ba nghiệp. Đó là sự nối tiếp rất đích thực, rất
cụ thể của mỗi chúng ta.
Bụt cũng vậy, Bụt cũng
có sự tiếp nối bằng những tư duy, ngôn ngữ và hành động của Ngài. Đọc
trong kinh chúng ta thấy được những tư duy của Bụt. Những tư duy của
Ngài được ghi chép lại, được diễn tả bằng một cái cách nào đó, một ngôn
ngữ nào đó. Nếu chúng ta thông minh một chút, chúng ta không bị mắc kẹt
thì chúng ta có thể tiếp xúc được với cái tư duy của Bụt. Những tư duy
của Bụt được gọi là Chánh Tư Duy. Tức là những tư duy đi theo Chánh
Kiến. Chánh Kiến là tuệ giác về vô thường, vô ngã, tương tức, bất sinh
bất diệt, vô khứ vô lai. Có những tư tưởng ghi chép trong kinh có thể
chưa phản chiếu được cái tuệ giác thâm sâu đó (tuệ giác vô thường, vô
ngã, vô khứ, vô lai, vô sinh bất diệt). Nhưng nó cũng có thể là những tư
duy của Bụt tại vì tư duy cũng có nhiều cấp bậc. Có những người chưa
thể đi sâu vào sự quán chiếu thì cần cái tư duy đơn giản hơn để bám víu
vào mà đi tới.
Ví dụ khi chúng ta niệm
Bụt thì Đức Thế Tôn là thầy của chúng ta. Là bậc đã qua tới một cách
nhiệm mầu; là bậc đã hiểu thấu thế gian; là bậc nhân sĩ cao tột có khả
năng điều phục con người; là bậc thầy của cả hai giới thiên và nhân; là
bậc tỉnh thức toàn vẹn; là bậc đáng tôn sùng và quý trọng nhất trên đời.
Đó là những quan niệm về Bụt. Đó là những đức tính của Bụt, là những
danh hiệu mà người ta nói về Ngài. Nhưng nếu ta quan niệm về Bụt như vậy
thì Bụt trở thành một cái ngã, một thực tại nằm ngoài ta và ta phải cầu
nguyện vì ta không có những cái đó. Như thế thì chúng ta chưa đi sâu
lắm. Đó chưa phải là tư duy đi đôi với tuệ giác vô thường, vô ngã và
tương tức.
Trong khi chúng ta chắp
tay lại quán tưởng thì chúng ta nói rằng: “Bụt ơi! Con biết rằng Ngài và
con là hai thực tại, nhưng không phải riêng biệt. Con thấy rõ ràng là
Ngài có trong con và con cũng có trong Ngài. Tại vì Ngài và con đều có
tính cách tương tức, cho nên sự cảm thông giữa con với Ngài trở thành
sâu sắc. Đó là một phép quán tưởng trước khi lạy để mình có thể tiếp xúc
được với tự thân của Bụt chứ không phải với cái ý niệm về Bụt. “Năng lễ
sở lễ tính không tịch” tức là chủ thể lạy (mình) và đối tượng lạy (Bụt)
bản chất đều là không. Không tức là không có một cái ngã riêng biệt mà
cái này có trong cái kia, cái kia có trong cái này. Bụt có trong ta và
ta có trong Bụt. Lễ Bụt như vậy sẽ đánh tan được cái ý niệm Bụt là một
thực tại riêng biệt nằm ngoài mình và mình phải đi cầu xin, tìm kiếm.
Các bạn theo truyền
thống Cơ Đốc Giáo cũng có thể cầu nguyện với Chúa Giêsu như vậy. Nếu các
bạn thấy Chúa như là một thực tại hoàn toàn khác biệt nằm bên ngoài
mình thì các bạn không tiếp xúc được với thực tại hiện tiền. Hôm trước
có một vị linh mục Công Giáo đặt câu hỏi như sau:
"Tại sao trong đạo Bụt không thiết lập một biểu tượng ở ngoài mình để cầu nguyện? Cầu nguyện như vậy mới có ý nghĩ chứ."
Vị
linh mục ấy đã hỏi tôi như vậy. Ý ông ta là cầu nguyện thì phải có đối
tượng. Cầu nguyện phải là cầu nguyện với ai. Tôi đã trả lời rằng: Mình
có thể nói chuyện với em bé 5 tuổi ở trong mình hay không? Em bé 5 tuổi
cũng là mình, em bé 5 tuổi bị thương rất nặng, nhưng vì mình bận rộn quá
nên không có thời gian đoái hoài tới. Bây giờ mình đã biết quay trở về
để nhận diện em bé 5 tuổi trong mình. Khi mình muốn nói chuyện với em bé
thì liền nói chuyện được ngay chứ sao không. Em bé đó với mình là môt
hay hai? Mình có thể so sánh bức ảnh của mình khi lên năm và một bức ảnh
mới nhất của mình trong hiện tại và hỏi : em bé năm tuổi là tôi ấy với
tôi đã trưởng thành là một hay là hai ? Theo tuệ giác của đạo Bụt thì
hai con người ấy không phải một cũng không phải hai. Em bé nhỏ xíu đó
không giống mình bây giờ. Em bé đó với mình không phải là một (vì không
giống nhau), nhưng mà cũng không phải là hai (vì mình là sự tiếp nối của
em bé). Mình có thể nói chuyện với em bé rằng: “Em bé ơi tôi biết là em
bé đang còn đó, em bé đã từng bị thương tích, đã từng bị khổ đau, em bé
cần tới tôi, em bé cần sự nuôi dưỡng và trị liệu. Nhưng mà tôi bận rộn
quá, tôi ít có thì giờ trở về với em bé, nói chuyện với em bé." Đó là
nói chuyện, đó là một sự cầu nguyện. Em bé đó không cần phải là một thực
tại ngoài ta. Cho nên sự cầu nguyện là như vậy.
Khi cầu nguyện Bụt hay
Chúa cũng vậy. Ta không hẳn phải có một đấng hoàn toàn ở ngoài ta thì
mới cầu nguyện được. Vì vậy cho nên trong đạo Bụt mỗi khi mình chắp tay
lạy Bụt thì phải cẩn thận. Đừng có coi Bụt là một vị thần linh có ở
ngoài mình. Câu quán tưởng “năng lễ sỡ lễ tánh không tịch” rất là hay.
Người lạy và người được lạy đều có tính cách tương tức, người này có
trong người kia vì vậy cho nên sự cảm thông mới có thể có được và có một
cách sâu sắc. Lạy Bụt như vậy không phải là một cái sự cầu xin, không
phải là một quỵ lụy. Lạy Bụt như vậy là để tiếp xúc với Bụt, mà Bụt này
không phải là một thực tại nằm ở ngoài mình, Bụt này cũng chính là mình.
Mỗi khi ta chế tác được
một chánh tư duy, một tư tưởng mà biểu lộ được tuệ giác vô thường, vô
ngã, từ bi, trí tuệ và tương tức thì ta là Bụt. Khi ta chế tác một tư
tưởng hận thù, kỳ thị, hay ganh tỵ thì ta không phải là Bụt. Khi ta nói
ra được lời nói có yêu thương, có tha thứ, gây được niềm tin cho người
thì ta là Bụt. Khi ta nói một câu dữ dằn, ác độc, chua cay thì ta không
phải là Bụt. Tại vì Bụt cũng ở trong ta mà ma cũng ở trong ta. Và sự
thực tập là làm thế nào để ta có nhiều cơ hội chế tác ra chánh tư duy.
Những tư duy có từ bi, có hiểu biết, có thương yêu mà không có kỳ thị,
ganh tỵ ; Làm sao để mỗi giây phút ta nói ra được lời thương yêu ; làm
sao để mỗi giây phút có được một hành động chăm sóc, bảo vệ thì mình là
Bụt rồi, đi kiếm Bụt đâu nữa! Cho nên tổ Lâm Tế mới nói: “Phật và Bồ Tát
hả? Phật và Bồ Tát là ai? Là các vị đây chứ ai, các vị đang ngồi đây
nghe pháp chứ ai”. Khi ta chế tác ra được một chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp tức là mình đã là Bụt rồi tại sao phải đi tìm đâu xa xôi.
Vì vậy cho nên Bụt tại tâm là rất đúng.
Ta thấy rõ ràng là ta
tìm thấy Bụt ngay trong tự tâm của mình, mà ta cũng tìm thấy Bụt ở trong
tăng thân của mình. Tăng thân của mình là gì? Tăng thân là một đoàn thể
đang thực tập để có thể chế tác được chánh tư duy, chánh ngữ và chánh
nghiệp. Tăng thân của ta có thể không hoàn hảo, nó còn có lên xuống, còn
khổ đau, còn hờn giận…Nhưng tất cả mọi người trong tăng thân đều có ý
chí muốn tu học. Cho nên người nào tu giỏi thì có thể mỗi ngày chế tác
ra được nhiều chánh tư duy, nhiều chánh ngữ và nhiều chánh nghiệp. Thì
người ấy đang đại diện cho Bụt, đang tiếp nối Bụt, đang cống hiến chất
Bụt cho tất cả những người khác trong tăng thân. Đó là Bụt. Những người
xuất sĩ nam hay xuất sĩ nữ, những người tại gia nam hay tại gia nữ.
Người nào mà thực tập chánh niệm hay chánh định; người nào mà nhìn sâu
để có một cái thấy biểu lộ được tính vô thường, vô ngã, tương tức, không
kỳ thị và chế tác được những tư duy có chất từ, chất bi, chất hỷ, chất
xả thì người đó là một sự tiếp nối của Bụt. Bụt không ở đâu xa, Bụt rất
rõ ràng và cụ thể và mình có thể tiếp xúc với Bụt bất cứ lúc nào, bất cứ
ở đâu. Mỗi khi có những khó khăn, những buồn khổ kéo tới thì mình nói:
“Bụt ơi! Con biết Ngài có đó, con muốn tiếp xúc với Ngài để cho con khỏe
nhẹ”.
Với phương pháp theo dõi
hơi thở và bước chân, ta ôm ấp được những nỗi khổ niềm đau của chính
mình. Bụt cũng vậy, khi nào có những nỗi khổ niềm đau thì Ngài biết trở
về với hơi thở. Và hơi thở đó giúp cho Bụt ôm ấp và lìa bỏ được những
nỗi khổ niềm đau của mình.
Quý vị cũng vậy, mỗi khi
quý vị có một sự bất an trong lòng, có một chướng ngại làm cho mình
không có hạnh phúc thì cách hay nhất là trở về hơi thở. Hơi thở giúp
mình chạm được vào nỗi khổ niềm đau, chạm được vào cái cảm giác bất an,
mông lung của mình để ôm ấp và chuyển hóa. Không những mình tiếp xúc
được bằng hơi thở mà mình còn có thể tiếp xúc được bằng bước chân. Rất
là hay.
Bụt cũng có thể có những
khó khăn, khó khăn của Bụt cũng có thể đến từ bên trong hoặc từ bên
ngoài. Nhưng mỗi khi có khó khăn tới thì Bụt biết tiếp xúc với những khó
khăn ấy và mỉm cười với chúng rồi tìm cách chuyển hóa chúng. Nếu khi
những khổ đau tìm tới với ta mà ta biết sử dụng hơi thở và bước chân để
chạm vào và xoa dịu những khổ đau ấy thì ta cũng đang là một vị Bụt. Còn
nếu khổ đau tới với ta mà ta không biết thực tập thì ta không phải là
Bụt. Bụt có mặt 24 giờ đồng hồ trong một ngày.
Thế nên trong ngày lễ
Phật Đản, chúng ta có cơ hội quán chiếu để thấy rằng có thể tiếp xúc với
Bụt một cách rất cụ thể. Tôi nghĩ rằng nếu thấy được Bụt như vậy rồi
thì Bụt không còn là một cái gì mơ hồ nữa, không còn là một đấng thần
linh ở trên mây nữa. Chúng ta là đệ tử của thiền sư Lâm Tế thì chúng ta
phải nhớ lời này: “Phật và Bồ Tát hả? Phật và Bồ Tát là ai? Là các vị đây chứ ai, các vị đang ngồi đây nghe pháp chứ ai”.
Chúng ta là sự tiếp nối của Bụt
Mỗi chúng ta đều có khả
năng ôm ấp niềm đau, chuyển hóa niềm đau của mình và giúp cho người khác
ôm ấp niềm đau, chuyển hóa niềm đau của họ. Chúng ta đang làm công việc
của Bụt, chúng ta đang là sự tiếp nối của Bụt.
Mỗi chúng ta đều có khả
năng chế tác ra những tư duy lành, những ngôn ngữ lành và những hành
động lành đó là chúng ta đang nối tiếp sự nghiệp của Bụt – sự nghiệp
thương yêu, sự nghiệp hiểu biết, sự nghiệp từ bi. Ai trong chúng ta cũng
có thể làm được điều đó.
Thông thường, Bụt ở đâu
thì quốc độ của Ngài ở đó. Ngài đi tới đâu cũng mang theo quốc độ của
mình. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng là Bụt, chúng ta là sự tiếp nối
của Ngài nên chúng ta cũng phải có cõi Bụt quanh mình. Ví dụ ta ngồi
nhìn ra cửa sổ thấy mùa xuân vẫn còn đang phơi phới, cỏ cây xanh mướt,
hoa đua nhau khoe sắc thắm, ta thấy những thứ đó rất mầu nhiệm. Tiếp xúc
được với những màu nhiệm đó thì ta thấy cuộc đời này đẹp đẽ quá. Ta có
thể ngồi trên một góc cỏ nhìn ngắm mọi thứ trong tâm trạng không có đau
buồn. Ta ngắm một cái lá sen, ngắm một cái lá tre trong bình an thì lúc
đó ta là Bụt.
Nếu bị giam hãm trong những cơn buồn giận, ta không tiếp xúc được với
những mầu nhiệm của thiên nhiên thì ta không phải là Bụt, ta đang không
có cõi Bụt bao quanh. Bụt ở đâu thì cõi Bụt ở đó. Khi ta có an lạc,
hạnh phúc thì quang cảnh xung quanh cũng có an lạc, hạnh phúc. Khi một
sư anh, sư chị hay sư em không dễ thương mà mình ôm được cái không dễ
thương đó, mình nhìn sư anh, sư chị, sư em của mình với con mắt từ bi
thì mình là Bụt và sư anh, sư chị, sư em ấy là cõi Bụt của mình. Nhìn
bằng con mắt từ bi thì mình khỏe và cõi của mình trở thành cõi tịnh độ.
Nhìn bằng con mắt đau buồn trách móc thì mình không phải là Bụt và cõi
xung quanh của mình không phải là cõi Bụt. Đó là sự thực tập của chúng
ta. Một tăng thân được thiết lập ra là để tiếp nối Bụt.
Một người thực tập cũng
là sự tiếp nối của Bụt. Nhưng nếu được sống trong tăng thân, được cùng
tăng thân thực tập thì chúng ta sẽ được che chở, được yểm trợ nhiều hơn.
Vì vậy tu tập mà có tăng thân thì dễ dàng hơn rất nhiều. Nương vào anh,
vào chị, vào em, và vào những người bạn đồng tu để mỗi giây phút mình
có thể chế tác được chánh tư duy, chánh ngữ và chánh nghiệp. Khi chế tác
ra được ba cái đó thì trong người mình có Bụt và xung quanh mình là cõi
Bụt. Còn khi chế tác ra những chất liệu ngược lại thì trong người mình
không có Bụt và xung quanh mình cũng không có cõi Bụt.
Chúng ta có thể đã từng
nghĩ rằng các chương trình sinh hoạt tại Làng Mai khá dày đặc: Buổi sáng
phải thức dậy sớm đi ngồi thiền, phải ăn sáng, làm việc, đi thiền hành,
ăn trưa, rồi đi theo các lớp học, rồi ăn chiều, rồi lại ngồi thiền tụng
kinh vào buổi tối. Vừa kết thúc khóa tu hai mươi mốt ngày đã sang khóa
tu mùa hè, rồi đi Ý, đi Đức, đi Đông Nam Á… Giống như không có thì giờ
để chơi. Chúng ta có cảm tưởng như là chúng ta bị một sức ép phải đi
theo. Chúng ta cảm thấy chúng ta không có đủ không gian. Khi chúng ta
cảm thấy mình bị ép theo thời khóa, chúng ta cảm thấy mình thiếu không
gian, thì trong chúng ta lúc ấy không có Bụt, không có tăng thân và hoàn
cảnh xung quanh ta cũng không phải là cõi Bụt.
Ở đời có những người rất
thích hát. Họ không có phải là người tu nhưng buổi sáng thức dậy họ
muốn hát một bài. Trong khi xả nước tắm, họ vừa tắm vừa hát. Nhưng có
những người khác khi thức dậy không hát được, lúc tắm họ cũng không hát
được, tại vì họ bị kéo đi bởi hàng trăm thứ lo toan, dự tính trong lòng.
Thường thì đó đều là những lo toan không đáng có như tại sao mình cứ
phải dậy sớm đi làm? Không biết hôm nay ở công ty ra sao? Chết rồi, tí
nữa phải nhớ đi đổ xăng v.v… Cùng thức dậy vào buổi sáng nhưng hai người
này khác nhau: một người thì có niềm vui trong lòng do biết an trú, một
người thì không có niềm vui do bị những lo toan kéo đi. Khi ta có niềm
vui trong lòng thì thế giới xung quanh trở thành cõi Bụt. Khi có phiền
não trong lòng thì thế giới xung quanh trở thành cõi Ta Bà.
Trong tu viện, mỗi sáng
ta đều thức dậy đi ngồi thiền. Ngồi thiền làm cái gì? Ngồi thiền tức là
khỏi làm gì hết, lúc ấy không có ai sai mình phải làm cái này hay làm
cái kia. Chỉ ngồi yên thôi thì sướng biết bao nhiêu. Thử hỏi trên thế
gian này có biết bao nhiêu người thức dậy được ngồi yên trong vòng nửa
giờ hay một giờ? Được ngồi thiền rất yên vào buổi sáng giống như có
tiếng hát trong lòng và ngồi thiền không phải là một cái áp lệnh nữa, mà
là một niềm vui. Khi ngồi thiền mình có thể tiếp xúc được với Thầy, với
sư anh, sư chị hoặc sư em đang ngồi chung với mình và mình được nuôi
dưỡng. Cũng như có người khi thức dậy mở cửa sổ ra là có thể hát được.
Ta cũng vậy. Khi thức dậy ta thấy được ngồi thiền, được đi thiền hành là
một niềm vui. Ngồi thiền và đi thiền hành đó không phải là công việc,
không phải là một áp lực, không phải là lao tác cực nhọc mà mình phải
trả nợ như là một người công dân.
Ở bên ngoài đa phần mọi
người đều rất bận rộn không có cả thời gian để ngồi yên, trong khi đó
tại tu viện, mỗi ngày chúng ta đều được ngồi yên không phải làm gì cả,
đó là những cơ hội rất quý. Thế nhưng có lúc ta lại cảm thấy đó là một
sự lao tác mệt nhọc, cảm thấy bị ép buộc. Khi ngồi thiền hay đi thiền
hành mà ta biết cách an trú trong mỗi bước chân, mỗi hơi thở thì ta có
an lạc, thảnh thơi. Lúc ấy ngồi thiền như là ngồi chơi, đi thiền hành
như là đi chơi và xung quanh ta là cõi Bụt. Còn khi ngồi thiền hay đi
thiền hành với tâm trạng bị ép uổng thì rất tội nghiệp và rất uổng.
Trong cùng một khung
cảnh nhưng có người thì thảnh thơi, thư thái, có người lại cảm thấy gò
bó, cảm thấy không có không gian, không có thời gian để sống cho mình.
Có những người thấy rất hạnh phúc được ngồi thiền, được đi thiền hành,
được nấu cơm cho đại chúng, được tổ chức và hướng dẫn khóa tu v.v...
Trong khi đó lại có những người cảm thấy phải ngồi thiền, phải đi thiền
hành, phải tổ chức khóa tu. Đối với những người ấy thì ngồi thiền, thiền
hành không phải để sống cho mình, quét nhà, làm vườn không phải để sống
cho mình. Cho nên tất cả là tùy theo cách mình nhìn. Cũng giống như ở
ngoài, có nhưng người họ rất thích đi làm vì họ yêu nghề. Lại có những
người rất ngao ngán khi thức dậy thấy có một ngày làm việc trước mặt.
Thiền Sư Lâm Tế có nói với chúng ta rằng: “Quý
vị đừng có tưởng tượng quá, đừng có nghĩ rằng cung trời Đâu Suất và đức
Di Lặc ở trên mây. Quý vị đừng đi tìm báo thân, pháp thân, ứng thân và
cũng đừng đi tìm Tịnh Độ, mất thời gian lắm. Quý vị chính là Bụt là Bồ
Tát đó, nếu quý vị nhận ra được đời sống là những cái nhiệm mầu”.
Có sáu đạo thần quang
tức là sáu thức khiến cho mình có thể tiếp xúc được với tất cả những cái
mầu nhiệm đó. Cung trời Đâu Suất của đức Bụt Di Lặc, hay cõi Tịnh Độ
hay tam giới có mặt hiện tiền để mình có thể tiếp xúc liền ngay được.
Tam giới là tam giới của mình chứ đâu nữa? Người ta lặp đi lặp lại một
cách máy móc câu: “Tôi tu học để mau thoát khỏi tam giới”. Tổ Lâm Tế nói: “Đừng
nói rằng quý vị đi tu là để thoát khỏi tam giới (cõi dục, cõi sắc và
cõi vô sắc). Thoát khỏi tam giới thì quý vị đi đâu. Ở ngay trong tam
giới này đã có đủ Bụt, Pháp, Tăng, có Tịnh Độ, cõi Bụt, có đủ hết”.
Khi tâm mình có ham muốn thì tức là mình đang ở trong cõi dục. Khi tâm
có từ bi, hiểu biết thì mình đang ở trong cõi bồ tát, cõi Bụt.
Chúng ta đã có cơ hội
được nghe những lời giảng, những lời khai thị rất nhiệm mầu của chư Tổ.
Và chúng ta có cơ hội để được sống thật sâu sắc những giây phút của đời
sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta có thể tiếp nối sự nghiệp của chư
Bụt. Chư Bụt rất gần chúng ta để được tiếp nối một cách đẹp đẽ.