Ý Nghĩa của sự Cầu Nguyện
Thích Viên Giác
I. LỜI MỞ ĐẦU
Cầu nguyện là một nhu cầu tinh thần của con người , một nhu cầu chính đáng .
Trước hết là giải toả các ức chế tâm lý do ápp lực của hoàn cảnh , của thất vọng
trong tình cảm , những bức xúc trong các mối quan hệ xã hội . Thứ đến cầu nguyện
là thể hiện các ước mơ , niềm hy vọng của con người về đời sống hiện thực hay
lý tưởng , dù sao cầu nguyện vẫn là một biểu hiện của thiện tâm , nghĩa là khi
một người chấp tay , cúi đầu trước bàn thờ Phật , Thánh , lòng họ trở nên khiêm
hạ , cái " Ta" trở nên nhỏ bé , lương tâm thổi dậy và tâm hồn họ được
bình hoà .
Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người phật tử ,
nhờ cầu nguyện mà nhuyện lực của họ mạnh mẽ , niềm tin tăng trưởng , thiện nghiệp
được phát huy, ác nghiệp được tiêu trừ , tâm xu hướng lộ trình giải thoát .
Trong ý nghĩa thông tục , cầu nguyện là một biểu hiện lòng nhớ ơn , đền ơn
đáp nghĩa đối với tổ tiên , ông bà , cha mẹ , người thân … một biểu hiện của
tình thương yêu , quan tâm , lo lắng đến nhau như các cầu nguyện : cầu siêu , cầu
an , sám hối …
Sự cầu nguyện ban đầu như là biểu hiện của sự lo lắng vị kỷ , nhưng dần dần
do bản chất của sự cầu nguyện sẽ nâng cao tinh thần vị tha . Những lời khấn
nguyện , niệm hương , bạch Phật , phục nguyện , hồi hướng , trong đạo Phật đều
mang tính 2 mặt cho mình và cho chúng sinh . YÙ nghĩa của sự cầu nguyện là nâng
cao đời sống tinh thần và củng cố niềm tin cho chính mình và tha nhân .
II. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN
Hình thức cầu nguyện , khái quát gồm 4 loại : cầu siêu , cầu an , cầu sám hối
, cầu tiến bộ tâm linh :
1. Cầu siêu : là cầu nguyện cho ông bà , cha mẹ , thân quyến đã qua đời
được siêu thoát , được an lành thế giới bên kia . Như vậy cầu siêu là biểu lộ sự
quan tâm , lo lắng , sự thương yêu giúp đỡ cho người thân của mình . Sự quan
tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơnlà cầu nguyện . Nhu cầu và
thực hành cầu siêu nói lên nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo vừa nhân
bản vừa rộng rãi ; chấp nhận goài thế giới hiện thực này còn có thế giới khác
mà ta gọi là vô hình .
2. Cầu an : là cầu nguyện cho người thân của mình hoặc chính bản thân
mình đượcan lành , vượt qua các tai ương hoạn nạn . Vậy cầu an cũng thể hiện ối
quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân , nhất là trong lúc mình
không làm được gì khác hơn là cầu nguyện . Nhu cầu cầu an cũng nói lên tinh thần
đạo đức của người phật tử khi đứng trước nổi bất hạnh của kẻ khác .
3. Cầu sám hối : Là cầu nguyện cho những lỗi lầm vụng dại của mình đã
làm không còn tái diễn nữa , bày tỏ sự hối hận ăn năn , mong sự chứng giám và
tha thứ của các đấng thiêng liêng hay cả của những người màmình đã gây khổ cho
họ . Có khi người ta cũng cầu sám hối giúp cho người thân của mình . Nhu cầu
sám hối nói lên tiếng nói của lương tâm , của đạo đức và của trí tuệ .
4. Cầu tiến bộ tâm linh : Là cầu nguyện cho tâm hồn của mình được
phát khởi thiện tâm , phát huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướng , ma chướng để
sớm thành tựu được mục tiêu giải thoát của mình . Nhu cầu cầu nguyện tâm linh
tiến bộ nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến , nói lên ước vọng tìm kiếm chân
lý của ngườu phật tử .
Tóm lại , mục đích cầu nguyện là mang đến lợi ích cho kẻ chết , người sống ,
đem đến thiện pháp tăng trưởng ,ác pháp tổn giảm , tâm lực củng cố , nềm tin vững
chãi hơn .
III. ĐỐI TƯƠ.NG CẦU NGUYỆN
Tùy theo niềm tin tôn giáo , tín ngưỡng mà có các đối tượng cầu
nguyện khác nhau . Đối với người phật tử , đối tượng cầu nguyện căn bản là
Tam bảo ( Phật , Pháp , Tăng ) cụ thể thì các Đức Phật Bổn Sư , Phật Di Đà , Phật
Dược Sư , Phật Di Lặc , các vị Bồ tát , thánh hiền … Đối tượng cầu nguyện dân
gian thì có tổ tiên , thần thánh ( thánh mẫu , quan công… ) ông bà cha mẹ đã
qua đời , các linh hồn vất vưởng cho đến các gốc cây , cụa đá hay các sinh vật
như cọp beo … Tóm lại tất cả mọi thứ nếu được coi là thiêng liêng .
Người phật tử chân chính chỉ cầu nguyện đối với Tam bảo , các Đức Phật , các
vị Bồ tát , Thánh Tăng . Những Phật tử chưa thuần thục đạo pháp họ vừa cầu Phật
, vừa cầu thần , nếu cần họ có thể cầu luôn cỏ cây , đá núi … Những Phật tử như
thế Đức Phật , Bồ tát đối với họ không khác các vị thần bao nhiêu .
Vì lý do là đối tượng của cầu nguyện nên Đức Phật Bồ tát mang sắc thái thần
thánh đầy quyền năng , không ai coi Phật , Bồ tát là người bình thường , nên đối
tượng của cầu nguyện là mang tính thiêng liêng . Đã là đối tượng linh thiêng
thì ranh giới giữa đối tượng này với đối tượng kia về bản chất tâm lý hầu như
không có , tất cả đều bình đẳng . Đối tượng được coi là linh thiêng thường là
không hiện thực , nhưng đầy quyền năng siêu việt . Nếu một đối tượng linh
thiêng mà hiện thực thì sớm muộn gì cũng bị bỏ quên và bị bôi bác bởi chính con
người thờ họ . Một người khi cha mẹ còn sống họ đối xử bình thường đôi khi coi
thường nữa , nhưng khi cha mẹ mất đi họ trở nên tôn trọng cung kính rất đặt biệt
, họ thể hiện niềm tôn trọng ấy băng nhiều cách để gọi là có hiếu , họ than thở
, tiếc nuối ân hận… Nếu cha mẹ họ nghe lời khấn nguyện của họ mà xúc động , sống
lại thì họ v64n đối xử như xưa .
Đối tượng của cầu nguyện , tuỳ theo trình độ văn hoá , phong tục , tập quán
, tôn giáo , tín ngưỡng mà khác nhau , đó là một thế giới muôn màu muôn vẻ . Dù
sao đã là đối tượng của cầu nguyện thì phải linh thiêng , phải hoàn hảo , quyền
năng vô tận và có tác dụng ảnh hưởng đến tâm thức của người cầu nguyện .
IV. TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN
Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích , không có tác dụng gì , làm sao có
tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất , đá , xi măng ,
gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý . Tượng Phật , Tượng thánh chắc chắn không phải
ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng ( symbolizes ). Điều quan
trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong tâm thức của người cầu
nguyện . Không ai lạl khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc cây cả , chẳng qua là cục
đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng ở đằng sau . Khi ta
nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ quốc không phải là
ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thần mà tấm vải đeo mang . Khi
một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng liêng thì nó không còn
thuần tuý vật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống , có tác dụng đối với con
người và hoàn cảnh xung quanh .
1. Tác dụng của cầu siêu : Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo phù hộ cho
linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoát ở thế giới bên kia cầu được sinh về
cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không ?
Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện cho người chết
rằng : Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7 phần , người tụng
được sáu , người chết đươọc một phần . Tại sao người được cầu nguyện chỉ được một
phần ? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnh , công đức phát sinh
năng lực công đức có trước hết là người tụng , rồi xử dụng năng lượng công đức ấy
hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận được một, phần năng lượng ấy
, trong khi người tụng là người suất sinh công đức .
Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư Tăng , nhờ sức mạnh
của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ , năng lượng của Tăng là năng lượng tập
thể nên có tác dụng lớn , nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào tâm thể của bà Thanh
Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của mình mà thoát khổ .
Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người chết thoát khổ bằng
cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thí , cúng dường hồi hướng
công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn . Tất cả những điều diễn tả trong kinh muốn
nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng chánh pháp sẽ tạo
khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của một chúng sinh đau
khổ , trường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.
Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân và báo ân đối với
các bậc Tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng mình nên người . Sự biết ân và báo
ân là một đức tính tốt , hiền thiện , là đạo đức xã hội , là một nét văn hoá
văn minh của loài người . Con người nếu không biết cội nguồn của mình , không
biết ơn , nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc ; quá khứ không rõ ràng thì tương
lai sẽ mờ mịt . Cầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ được siêu thoát
là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng : sự hiếu thảo của con cái , sự kính
trọng người già cả , sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy thuộc vào các sinh hoạt
tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này .
2. Tác dụng của cầu an : Cầu nguyện cho mình hay người thân của mình
được bình an là một cách thển hiện sự thương yêu , là một nhu cầu khẩn thiết .
Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không ? Người xưa nói :" Linh tại ngã , bất
linh tại ngã". Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnh . Sức mạnh tinh thần ấy
gọi là năng lượng tâm linh , nếu ta cố ý chuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người
nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy , đó là điều khó tin nhưng có thực
. Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác , giữa tâm linh và thế giới khách quan
là mối quan hệ duyên sinh tương tác lẫn nhau . Người ta có thể dùng sức mạnh
tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay sinh vật , các vị thiền sư có
thể cảm hoá hổ báo hung dữ , ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng
cũng tươi tốt hơn , đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học để chứng
minh chosức mạnh tinh thần này . Theo phong tục dân gian , khi người gia chủ
qua đời thì người ta" để tang" cho cây cối xung quanh nhà bằng cách cột
một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo
. Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đaã
từng có cây cối khô héo và chết khi chủ nhân của nó qua đời , khi người chủ còn
sống thương yêu săn sóc cây cối , hằng ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện
hay năng lượng tâm linh vào cây cối , chúng quen sống với luồn điện từ như vậy ,
nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy như con người mất đi chổ dựa tình cảm , sẽ cảm
thất hụt hẫng lạnh lùng … Cần phải có một sự quan tâm , một thay thế dòng sóng
từ trường mới , đó chính là hành động của người chủ nhân kế thừa , nên có vấn đề
để tang cho cây cối .
Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện ,
luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh
, bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện . Người phát ra một năng lượng tâm
linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một hấp lực thu hút luồng
năng lượng tương ứng trong không gian ( có thể gọi là năng lượng của các Đức Phật
hay Bồ tát ) mà ta gọi là tha lực . Tuy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả
năng , hiệu quả lớn hay nhỏ . Trong đời sống hằng ngày ta thường gặp nhau và
chúc lẫn nhau " mạnh khoẻ" " bình an" " hạnh
phúc" … nếu những lời chúc ấy có chú tâm , có thành tâm , có nhất tâm nó sẽ
tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc chúc .
Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bi , vị
tha , do đó tạo nên " đức độ". Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha
thì mối tương tác ( cảm ứng ) giữa tâm ta và tâm Phật , Bồ tát ( tha lực ) sẽ
chặt chẽ , do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình cần nguyện . Đó là
sức mạnh vô hình nhưng có thực . Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng , cũng được
an . Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiện , nhân duyên có đủ hay không ; một
ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy , vậy không nên coi cầu an
là phương pháp tối thượng mà chỉ là một "trợ duyên" Điều quan trọng vẫn
là "nội lực" hay "nghiệp lực". Cầu an đúng nghĩa là chuyển
hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt tiêu cực , còn mặt tích cực thì phải
xây dựng một tâm đức bằng bố thí , phóng sanh , cúng dường Tam bảo , giúp đỡ
tha nhân … như vậy là tích cực chuyển hoá nghiệp lực , cần cả hai mặt như vậy kết
quả mới tốt đẹp .
V. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT
Trong kinh Trung A Hàm I , Kinh Ca Di Ni , Đức Phật nói về sự vô ích trong cầu
nguyện đối với một số trường hợp như sau :" Có những người phạm chí tự cho
mình có khả năng cầu nguyện , giúp cho người khác được sinh lên cõi trời . Đức
Phật bác bỏ lời tuyên bố ấy , Ngài đưa ra một số trường hợp như :một người hung
dữ , độc ác , luôn làm 10 điều ác . Người này sai khi chết được nhiều người tập
trung lại cầu nguyện , van xin thì cũng không thể lên cõi trời được . Giống như
một người ôm một tảng đá lớn ném xuống sông rồi nhiều người khác tập trung cầu
nguyện van xin " mong tảng đá nổi lên", điều đó không thể được . Ngược
lại một người làm 10 điều thiện sau khi người ấy chết , nhiều người tập trung cầu
nguyện van xin " mong anh ta vào địa ngục" điều đó không thể xảy ra .
Giống như một người ôm một thùng dầu đổ xuống sông , nhiềi người tập trung cầu
nguyện " mong cho dầu chìm xuống đáy sông" điều đó không thể có được
.
Như vậy giới hạn của sự cầu nguyện rất rõ : cầu nguyện không phải muốn gì được
nấy , không phải là xin ơn trên thoả mãn các yêu cầu bất thiện của mình hay các
niềm hy vọng của mình . Cầu nguyện về ma75t tâm lý giải toả các ức chế nội tại
, một tình trạng bức xúc cao độ , sự tuyệt vọng rất là nguy hiểm , cầu nguyện sẽ
làm giảm áp lực ấy . Mặt khác cầu nguyện là bày tỏ những ước mơ , những hy cọng
tạo nên khích lệ tinh thần tăng thêm sinh lực cho con người vốn gặp nhiều đau
khổ .
Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển hoá nghiệp lực .
Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô ích , cầu nguyện theo hướng
chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích chấp nhận
.
Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ là nhờ đến tha lực của Phật
, Thánh … nhưng cầu nguyện trong Phật giáo không phải thuần tuý nhờ vào tha lực
mà nhờ vào tự lực là chính , cho nên câu nói :" Linh tại ngã bất linh tại
ngã" diễn tả đúng ý nghĩa này .
Tại sao có người cầu nguyện linh ứng , người khác lại không ? Điều đó tuỳ
thuộc vào tự lực hơn là tha lực . Không phải Phật không thiêng mà chính là
"tự lực" chưa đủ , nói cách khác lòng thành kính , sự thành tâm , nhất
tâm và nghiệp lực chưa đủ . Khi một người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cực lạc
thế giới , nhưng niệm lực không đủ thì Phật không tiếp dẫn được . Trong kinh A
Di Đà nói rõ :" Nếu có chúng sinh trước khi lâm chung mà niệm từ một cho đến
mười niệm trong trạng thái " nhất tâm bất loạn" thì liền vãng sanh cực
lạc . Chứng tỏ cầu nguyện vẫn dựa vào "tự lực" là chính.
VI. KẾT LUẬN
Cầu nguyện là một nhu cầu làm lắng dịu nổi lo âu , sợ hãi phiền muộn , thất
vọng . Cầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm kín , niềm hy vọng
, niềm tin vào cuộc sống . Qua các phương cách và đối tượng cầu nguyện , con
người có thể bày tỏ được niềm thương , nổi nhớ sự biết ơn và báo ơn đối với ông
bà cha mẹ , những người thân thuộc … Như vậy cầu nguyện là một loại hình văn
hoá đem lại niềm tin , củng cố đạo đức , thuần hoá tánh hung dữ của con người .
Hơn nữa , cầu nguyện làm tăng thêm nghị lực , củng cố niềm tin để hướng dẫn
đời mình đi theo chân lý , lý tưởng cao thượng .
Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm chưa vượt qua được những nổi
lo âu , sợ hãi , chưa đạt được trình độ tu chứng , tự tại vô ngại thì cầu nguyện
có tác dụng hổ trợ cho mình vững tiến trên đường đạo . Chỉ cần có sự thành thật
, thành tâm và mục đích hướng thượng , hướng thiện thì sự cảm ứng của Phật lực
… chắc chắn xảy ra . Điều cần thận trọng là đừng rơi vào cuồng tín , cực đoan ,
ỷ lại . Nếu cầu nguyện không đúng chánh pháp hay lạm dụng cầu nguyện để thực hiện
tham vọng riêng tư thì không những không linh ứng mà còn phản tác dụng , tạo
thêm ác nghiệp