Con người sanh ra ở đời, ắt phải có tôn ti trật tự,
có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ, có thứ lớp giai tầng,
đó là một qui luật tự nhiên, không ai có thể chối cãi, phủ nhận hay từ
bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là căn bản đạo đức, là cương kỷ, nề nếp
mà các Ngài Giáo Chủ đứng lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích
để dạy tập con người bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho
sự hòa hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề
“THỜ CÚNG và LỄ BÁI” được đặt ra.
Mục Lục
Lời Nhà Xuất Bản
Lời mở đầu
Lời Phát Đoan
I. VẤN ĐỀ THỜ
A. Ý nghĩa thờ
B. Cách thờ
C. Chỗ thờ
D. Giá trị nơi thờ
II. VẤN ĐỀ CÚNG
A. Ý nghĩa của sự cúng
B. Sự khác biệt cung dưỡng và cúng dường
C. Giá trị và quan mềm về sự cúng
D.Vấn đề ăn
E. Cách ăn của Tổ Tiên, Ông Bà
G. Cách cúng
H. Phụ Bản
1. Nghi cúng Ông Bà
2. Nghi thỉnh Vong
III VẤN ĐỀ LỄ BÁI
A. Định nghĩa
B. Nghi cách và ý nghĩa Lễ Bái
C. Quan mềm Lễ Bái
D. Về cách lạy của Thế Gian
E. Về cách lạy của Thánh Giáo
G. Lợi ích của sự Lễ Bái
IV. KẾT LUẬN
V. CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Con người sanh ra ở đời, ắt phải có
tôn ti trật tự, có trước có sau, có trên có dưới, có lớn có nhỏ,
có thứ lớp giai tầng, đó là một qui luật tự nhiên, không ai có
thể chối cãi, phủ nhận hay từ bỏ. Đó là một đạo lý tuyệt đối là
căn bản đạo đức, là cương kỷ, nề nếp mà các Ngài Giáo Chủ đứng
lên lập đạo phải lấy nó làm nền tảng, chủ đích để dạy tập con
người bảo giữ nguồn gốc tôn ti trật tự, để qui định cho sự hòa
hiệp sống chung, thái bình an lạc trong cõi đời. Từ đó mà vấn đề “THỜ
CÚNG và LỄ BÁI” được đặt ra.
Đây là phương pháp hay phong cách
giáo hóa rất quan trọng của đời sống nhân loại; cũng lại là
một giáo lý tốt đẹp làm nền tảng cho sự thương yêu, thân thiện,
cung kính, lễ phép với nhau trong cuộc sống. Một cung cách xử sự
liên quan truyền kiếp và nối tiếp đời đời đối với loài người nói
riêng và vạn vật chúng sanh nói chung. Nhất là sự liên quan
truyền nối giữa kẻ còn người mất của nhân loại. Lại nữa, truyền
thống và tập tục của người Á đông càng thâm thiết hệ
trọng hơn, từ trong guồng máy gia đình giòng tộc đến các tổ chức
Tôn giáo Tín ngưỡng tâm Linh như Khổng Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo
v.v... Tác phẩm “Thờ Cúng và Lễ Bái” này do Hòa
Thượng Thích Thắng Hoan, một nhà Duy Thức Học, một vị Giáo Phẩm
lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
Ngoại tại Hoa Kỳ đã dày công nghiên cứu và biên soạn, làm tài
liệu căn bản cho mọi giới đồng bào Phật tử Việt Nam, nhất là đồng
hương tị nạn nơi đất khách quê người có quá nhiều phức tạp
nhiều khê.
Đây là một Pháp Bảo cung ứng nhu
cầu thiết thực cho đại đa số quần chúng Việt Nam. Là kim chỉ nam
cho người Phật tử từ hạng bậc sơ cơ cho chí đến những
người trí thức mà chưa hề quan tâm đến vấn đề “Thờ
Cúng và Lễ Bái”, nó có một tác dụng
hữu ích như thế nào cho cuộc sống mà các Ngài khai đạo đã mở
đường giáo hóa nhân sanh bằng qui cũ trong sự Thờ Cúng và Lễ Bái nầy
vậy.
Tác phẩm “THỜ CÚNG VÀ Lễ
BÁI” đã dẫn giải, phân bày rất là khúc chiết, mạch lạc
và cụ thể, sẽ giúp cho độc giả hiểu biết rõ ràng hơn tầm quan
trọng của sự Thờ Cúng và Lễ Bái. Nhà Xuất Bản Nguồn Sống chúng
tôi xin được hân hạnh Giới thiệu đến quí đồng bào Việt Nam trong
và ngoài nước; Quí đồng hương Phật tử ở rải rác khắp Năm Châu
Thế giới với tác phẩm “Thờ Cúng Và Lễ Bái” nầy.
Trân trọng,
Rằm tháng Giêng năm Giáp Tuất
(1994) tại San Jose, California.
Thượng Tọa Thích Giác Lượng.
***
LỜI MỞ ĐẦU
Thờ Cúng Và Lễ Bái là một trong những
Gia Bảo tinh thần đáng quý của Tổ Tiên để lại cho con cháu kế
thừa. Gia Bảo này đã được hấp thụ tinh hoa lâu đời do các Tôn
Giáo bồi đắp và xây dựng. Gia đình Việt Nam có Truyền Thống, đều
coi trọng và thiết lập Hương án trong nhà để chuyên trách về
việc Thờ Cúng Và Lễ Bái.
Người Thờ Cúng Và Lễ Bái thì nhiều
nhưng người hiểu rõ ý nghĩa và giá trị vấn đề thì lại quá hiếm.
Nhất là những người Việt Nam tỵ nạn ra nước ngoài ít ai thông
hiểu về ý nghĩa và giá trị của sự Thờ Cúng Và Lễ Bái. Họ cũng
thiết lập bàn thờ và tổ chức nghi lễ trong nhà có tính cách giả
chiến, hời hợt tạm bợ cho có lệ theo tập tục cổ truyền, nhưng
việc làm của họ thiếu sự tôn kính thiêng liêng. Thành thử vấn đề
Thờ Cúng Và Lễ Bái không tạo được niềm tin vững chắc cho thế hệ
con cháu trẻ tuổi tân học.
Ngoài ra, lại có một số người lợi dụng
niềm tin và sự hiểu biết nông cạn của đa số quần chúng trong việc
Thờ Cúng Và Lễ Bái, nên họ đã manh nha khai thác tận cùng vấn đề
mê tín dị đoan nhằm mục đích buôn bán làm ăn. Họ bày vẽ thêm
nhiều nghi cách mơ hồ vô nghĩa, khiến cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái
trở nên phức tạp để độc quyền tín ngưỡng. Họ vô tình làm giảm
giá trị Truyền Thống Văn Hóa lâu đời của Dân Tộc về ý nghĩa Thờ
Cúng Và Lễ Bái. Đã vậy lại thêm một số người Trí Thức có thành
kiến, họ bôi bác và kết án, cho việc Thờ Cúng Và Lễ Bái là một
hình thức hoang đường.
Những lý do trên thúc đẩy chúng tôi cho
ra quyển sách: “Vấn Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái”. Tác
phẩm này không có cao vọng lột trần được toàn diện chiều sâu ý
nghĩa và giá trị của vấn đề. Ở đây chúng tôi chỉ trình bày
một vài quan điểm có tính cách biện minh lý giải ý nghĩa và giá
trị của sự “Thờ Cúng Và Lễ Bái” qua lăng kính
Phật Giáo.
Hơn nữa, sự ra đời của quyển sách “Vấn
Đề Thờ Cúng Và Lễ Bái” nhằm đóng góp một phần nào trong
phong trào phục hưng nền Văn Hóa Dân Tộc và tạo cơ hội phục vụ
cho Cộng Đồng Việt Nam ở hải ngoại về mặt Tín Ngưỡng. Nền Văn
Hóa Dân Tộc cần phải được phát huy rộng lớn và làm sáng tỏ quan
điểm Truyền Thống lâu đời qua nhiều khía cạnh trong mọi lãnh vực,
để làm khuôn vàng thước ngọc cho người Việt ly hương nương
tựa sống còn. Quyển sách nhỏ này được gói ghém bằng một tâm
nguyện khiêm tốn hầu đóng góp vào kho tàng Văn Hóa Phật Giáo và
Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam, xem như một công tác hiếm hoi, hướng
trở về Nguồn, phụng sự Chánh Pháp. Tác phẩm “Vấn Đề Thờ
Cúng Và Lễ Bái” nhất định còn thiếu sót nhiều về mặt
hình thức cũng như nội dung. Chúng tôi kính mong các bậc cao
minh chỉ bảo góp ý thêm để cho tác phẩm có giá trị và đầy
đủ hơn khi tái bản.
Cẩn bút
THẮNG HOAN
LỜI PHÁT ĐOAN
VẤN ĐỀ THỜ CÚNG VÀ LỄ BÁI
Thờ Cúng và Lễ Bái là một đạo lý Truyền
Thống của Dân Tộc có từ ngàn xa, khi con người ý niệm được bổn
phận. Ở thời kỳ Quân Chủ, các triều đại Vua Chúa cho Thờ Cúng và
Lễ Bái là biểu tượng cao quí nhất đối với các bậc Tiền Nhân, nên
đặc trách riêng một Bộ gọi là Bộ Lễ để trông coi việc này.
Còn riêng về Phật Giáo, vấn đề Thờ Cúng
và Lễ Bái lại càng hàm xúc bao ý nghĩa và giá trị, thể hiện được
tinh thần thiêng liêng trọng đại đối với các bậc Thánh Hiền. Thế
mà cho đến hôm nay ý nghĩa và giá trị vấn đề Thờ Cúng và Lễ Bái
đã được bao nhiêu người thông suốt? Vì không thông suốt, đa số
quần chúng thiếu sót Lễ Nghi cung cách, gây nhiều tội lỗi với các
bậc bề trên. Họ không phải không muốn, nhưng không được ai chú
dẫn tường tận để có đức tin.
Nhằm mục đích giúp người con Phật thông
suốt giá trị vấn đề trên, tôi xin trình bày ý nghĩa Thờ Cúng và
Lễ Bái qua những nhận định như sau:
I. VẤN ĐỀ THỜ:
Trước hết là vấn đề Thờ. Thờ
nghĩa là thể hiện, tỏ bày sự Tôn Kính của mình lên các Tiền Nhân,
các Thánh Đức mà mình đã dâng trọn niềm tin, như thờ Phật, thờ Chúa,
thờ Tổ Quốc, thờ Tổ Tiên, Ông-Bà v.v... Người con đã có Giòng Họ
Tông Môn thì phải có bàn thờ Tổ Tiên. Con người có giống
nòi chủng tộc thì phải có bàn thờ Tổ Quốc. Tín Đồ có Tín Ngưỡng
Tôn Giáo thì phải có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình. Ngược lại, con cái
mà không có bàn thờ Tổ Tiên, Ông Bà là con bất Hiếu. Một công dân
mà không có bàn thờ Tổ Quốc là kẻ bất Trung. Một tín đồ mà không
có bàn thờ đức Giáo Chủ của mình là người bất Tín.
Nhưng hiện nay có một số người
không hiểu bảo rằng Thờ Cúng là hành động mê tín dị đoan, kém văn
minh, thiếu khoa học, bởi vì những hình tượng được thờ đều bằng
xi măng, hoặc bằng giấy và hương đèn đều bằng cây, bằng mạt
cưa làm nên v.v... rồi tin tưởng đặt lên thờ và cho là
thiêng liêng. Những hành động ấy đã không lợi ích chi, lại còn nhơ bẩn
đến nhà cửa và tốn hao tiền bạc.
Lời này mới nghe qua như có lý,
nhưng kỳ thực xét cho kỹ thì hoàn toàn sai lầm. Sự sai lầm này
được nhận định như sau:
a. Hình Tượng mặc dù được xây
dựng bằng giấy hay bằng xi măng hoặc hương đèn được làm nên
bằng mạt cưa hay bằng gỗ đi chăng nữa, những vật thể ấy đã trở thành
thiêng liêng cao quí, nhất là đã tượng trưng (Symbolizes) cho
dòng họ, Tổ Tiên, Ông Bà, cho Thánh Hiền, cho chư Phật mà mình
đã Tôn Thờ. Cũng như Lá Cờ của một Quốc Gia, mặc dù nó được kết
bằng vải tầm thường không giá trị, nhưng nó đã được tiêu biểu
cho Tổ Quốc, cho Quốc Hồn Quốc Túy của một Dân Tộc mà ngời Công
Dân hay Chiến Sĩ đều phải Tôn Thờ. Một Công Dân hay Chiến Sĩ mỗi
khi chào cờ không phải chào miếng vải ấy, hoặc hy sinh dưới cờ
không phải chết cho miếng vải mà ở đây họ chào và chết vì Tổ
Quốc, vì Hồn Thiêng đất nước đã được biểu hiện qua lá cờ. Nước Mỹ ai
cũng cho là một nước Văn Minh đứng đầu trên Thế Giới về phương
diện khoa học cơ giới. Thế mà họ vẫn tôn trọng ngày Hollyvine nh
là một Quốc Lễ và đến ngày đó dân chúng cả nước đều được phép
nghỉ để tổ chức lễ theo phong tục của họ. Chúng ta đối với ngày
lễ này cho là hành động mê tín dị đoan, nhưng đối với người Mỹ,
ngày lễ này là một ý nghĩa trọng đại nhất và mỗi năm cần phải
đợc tổ chức linh đình không cho mất gốc. Còn ngày Lễ Tổ Tiên Ông
Bà của chúng ta chính là ngày cao cả không kém của Giòng Họ Tông
Môn, nhưng một số người khinh thường cho việc làm đó là hành
động mê tín dị đoan thiếu Văn Minh tiến bộ rồi cho nó đi vào quên
lãng. Thật là một tội lỗi nặng nề. Mỗi quốc gia đều có nền Văn
Hóa riêng của họ và Văn Hóa đó được họ tìm mọi cách đề cao tuyệt
đối tột đỉnh. Chúng ta cũng có nền Văn Hóa riêng của Dân Tộc ta.
Chúng ta cũng phải có bổn phận phát huy nền Văn Hóa của Tổ Tiên
đợc sáng tỏ thêm hơn là đi bôi bác và chà đạp lên nó để đắc tội với
Tiền Nhân.
b. Chúng ta thờ Tổ Tiên là để tri ân và
báo ân các bậc Cha Ông đã dày công sanh trưởng cuộc đời mình. Họ
đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo xã hội và giòng họ.
Chúng ta thờ Tổ Quốc là để ghi ân và noi gương các bậc anh hùng
liệt sĩ đã hy sinh cho sự sống còn của giống nòi. Chúng ta thờ
Phật là để quy ngưỡng hướng về các bậc đã giác ngộ và giải
thoát, nhờ các Ngài dẫn dắt chúng ta và chúng sanh vững vàng đi
trên con đường Thánh Thiện. Bàn thờ Ông Bà không được thiết lập
làm biểu tượng thì con cháu không biết nương vào đâu để thể hiện
lòng hiếu thảo đối với Tổ Tiên và bàn thờ Phật không được an vị
trang nghiêm thì đệ tử cũng chẳng biết nương tựa vào nơi nào để
bộc lộ lòng tôn kính đối với bậc Thầy chứng ngộ. Khác nào trên mộ
không có đặt vòng hoa tưởng niệm thì những người còn sống làm
sao tỏ bày được lòng tri ân đến những kẻ đã hy sinh vì đại
nghĩa. Con ngời cần phải có điểm tựa để an tâm, mặc dù điểm tựa
đó bằng bất cứ hình thức nào.
Chúng ta chưa phải là Thánh Nhân
thì nghi lễ, cung cách Thờ Cúng và Lễ Bái rất cần thiết cho việc
tu thân, giáo dục gia đình và hướng dẫn con người làm tròn bổn
phận trong xã hội loài người, nhất là con người ở vào thời đại văn
minh. Như vậy Thờ thế nào cho đúng nghĩa?
A. Ý NGHĨA THỜ:
Một khi thờ nhân vật nào đó, thì
nhân vật ấy phải thể hiện được ý sống và nghĩa sống qua Vật Thể
biểu tượng đợc thờ. Một Vật Thể biểu tượng cho Nhân Vật được
tôn thờ phải thể hiện giá trị tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm. Một
Vật Thể biểu tượng tinh thần Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm sẽ trở
thành Vật Linh, làm môi trường giao cảm giữa người thờ và Nhân
Vật được tôn thờ. Thế nào là Tâm ân Sắc và Sắc ấn Tâm;
a. TÂM ẤN SẮC:
1. Tâm: tiếng Phạn là
Citta nghĩa là Tâm linh của mỗi con người. Tâm linh này vẫn hiện
hữu trong con người khi xa lìa tất cả đối tượng và có khả năng xét
nghiệm tư duy để quyết định mọi việc. Nói một cách khác, Tâm con
người vẫn sinh hoạt suy tư trong khi tất cả đối tượng không
còn hiện hữu. Trước mặt, Tâm là danh từ chung gồm Tâm Vương và
Tâm Sở, là những Tâm Pháp quan hệ tương đối với Sắc Pháp. Tâm ở
đây tương đương với bốn Uẩn là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Tâm
này là chỉ cho Tâm Vương một trong năm Vị (Năm Vị là: Tâm Pháp,
Sắc Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi
Pháp).
Theo Đại Thừa Duy Thức Tông, Tâm
đây chính là Tâm Thức Alaya. Tâm Thức Alaya là thể căn bản có khả
năng sanh ra vạn pháp. Tâm Thức Alaya ngoài việc sanh ra vạn
pháp, còn có khả năng sanh khởi Tâm Ý (Thức Mạt Na) để chấp trì
vạn pháp và sanh khởi Tâm Thức Phân Ly (Ý Thức) để phân biệt vạn
pháp. Tâm đây còn có nghĩa là Tinh yếu.
2. Ấn: là in vào, chứng
nhận, tức là tiêu biểu hiển bày cái Đức chỗ chứng đắc nội Tâm
của chư Phật. ấn còn có nghĩa là quyết định. Nhưng Ấn ở đây nghĩa là
dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho vật đó trở thành Vật
Linh (đồ vật được thể hiện sự linh cảm) biểu hiện được Phật Tâm
linh cảm.
3. Tâm Ấn: theo Đại
Nhật Kinh Sớ quyển 3 và Đại Nhật Kinh Sớ Diễn Áo Sao quyển 2 giải
thích rằng: “Tâm Ấn là nơi tự thân thực hiện được tất cả Phật Tâm tác
dụng”, nghĩa là khiến cho tất cả Phật Tâm sinh hoạt. Theo Đại
Nhật Kinh Sớ quyển 5, Mục Bất Động Minh Vương giải thích: “Tâm
Ấn là biểu thị vạn Đức ở trong Tâm”.
Như vậy Tâm Ấn nghĩa là Tâm biểu
thị vạn Đức và khiến cho Phật Tâm tác dụng chứng đắc cho Hành
giả khải thỉnh.
4. Sắc: là sắc chất,
tức là chỉ cho một vật nào đó hoàn toàn thuộc về vật thể được
dùng làm biểu tượng để tôn thờ, như là Hình Giấy, Tượng Cốt, Ấn
Dấu, Pháp Khí, Đồ Hình, lá Bùa, khăn Ấn v.v... đều là Sắc Chất. ẤN: là
in sâu, tức là dùng Tâm in sâu vào vật nào đó và khiến cho nó
trở thành Vật linh (đồ vật được linh cảm).
5. Tâm Ấn Sắc: nghĩa là
Tâm Linh của con người in sâu vào một vật nào và khiến cho vật
đó trở thành có giá trị đợc gọi là Tâm Ấn Sắc. Vật đó được Tâm Linh
con người ấn vào gọi là Vật Thể, vì nó là một Vật Linh. Vật Linh
là một Vật Thể biểu tượng có tánh cách linh cảm đối với con
ngời.
Thí dụ: Một em bé đem Tâm ấn
vào cái gối nằm (Pillow) của em thì cái gối nằm đó trở
thành vật linh đối với em. Em quí gối nằm nói trên như quí thân
mạng của em. Gối nằm nói trên nếu như mất đi thì em đòi cha mẹ
phải tìm cho được, mặc dù em đã trưởng thành và cái gối nằm kia
đã rách nát. Một lá thơ của bà con ở Việt Nam gởi là một Vật
Linh, nguyên vì bà con đã Ấn Tâm vào đó. Một Danh Thiếp (Card)
chúc tết là một Vật Linh, nguyên vì người chúc tụng đã Ấn Tâm
vào đấy.
b. SẮC ẤN TÂM:
Sắc Ấn Tâm: nghĩa là
một Vật Thể nào được in sâu vào trong Tâm Linh của con người và
hình bóng Vật Thể đó làm khởi điểm trợ duyên cho Tâm Linh con người
tác dụng giao cảm bằng cách nhớ nhung, hồi tưởng, tưởng niệm
gọi là Sắc Ấn Tâm.
Thí dụ: Anh A nhớ quê hương,
nhớ Ông Bà nhà cửa, nhớ bà con thân thuộc, nhớ bạn bè
làng xóm, nhớ những hình ảnh kỷ niệm của tuổi học trò, nhớ những
quá trình kinh nghiệm sống của mình v.v... Những hình ảnh nhớ
nhung nói trên được gọi là Sắc Ấn Tâm.
Cũng từ tinh thần Tâm Ấn Sắc và
Sắc Ấn Tâm vừa trình bày, người có tín ngưỡng phát tâm thờ Phật
hoặc thờ Ông Bà trong nhà thường rước Thầy đến làm lễ an vị hầu
giúp cho bàn thờ Phật hay bàn thờ Ông Bà trở thành Vật Linh để làm
biểu tượng (Symbolizes) cho sự cầu nguyện. Bàn thờ Phật hay bàn
thờ Ông Bà sau khi làm lễ an vị thì đã thể hiện được ý sống và
nghĩa sống giữa chư Phật, chư Bồ Tát cùng với Tín Đồ, cũng như
giữa Tổ Tiên Ông Bà cùng với con cháu. Tâm Linh của chư Phật,
chư Bồ Tát liền cảm ứng với Tâm Linh của Tín Đồ, cũng như Tâm
Linh của Tổ Tiên ông Bà liền giao tình với Tâm Linh của con cháu
qua tầng số từ trường (Magnetic-field) ý sống và nghĩa sống
được phát xuất từ Vật Thể biểu tượng nơi bàn thờ qua sự nguyện cầu.
Trường hợp này cũng giống như
Tấm Thiệp chúc Tết là một Vật Thể biểu tượng ý sống và nghĩa
sống tình cảm của Tâm Linh người chúc tụng với Tâm Linh người
được chúc tụng. Tấm Thiệp chúc Tết sau khi mua về được người chúc
tụng Ấn Tâm vào đấy bằng cách thành tâm viết vài chữ cầu chúc
trong đó hến trở thành Vật Linh, nghĩa là tấm Thiệp chúc tết này
đã có chứa đựng ý sống của người chúc tụng. Người được chúc
tụng sau khi tiếp nhận tấm Thiệp chúc Tết nói trên của bạn gởi,
liền phát khởi Tâm Linh giao cảm nghĩa sống truyền đến người bạn
chúc tụng qua từ trường (Magnetic-field) ý sống của Vật Thể
(Tấm Thiệp). Tấm Thiệp chúc Tết trợ duyên này đóng vai trò vật đới
chất (vật dùng làm chỗ nương tựa) cho Tâm Linh của hai người giao
cảm ý sống và nghĩa sống với nhau. Duy Thức Học có dạy: “Dĩ
Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” là ý nghĩa của đoạn văn nói
trên. Câu “Dĩ Tâm Duyên Tâm Chân Đới Chất” nghĩa là đem
tâm mình duyên với tâm người qua sự nương tựa nơi Vật Thể làm
khởi điểm giao cảm một cách chân thành. Bàn thờ Ông Bà nếu như
không có để làm chỗ trợ duyên đới chất thì nhất định Tâm Linh của
Tổ Tiên không thể giao cảm với Tâm Linh của con cháu, cũng như
Tấm Thiệp chúc Tết nếu như không có đại diện thì Tâm Linh người chúc
tụng không thể giao cảm đến với ngời được chúc tụng. Bàn thờ
Phật cũng thế. Người Tín Đồ cầu nguyện, nếu không có bàn thờ
Phật để làm biểu tượng trợ duyên thì sự linh thiêng của chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền trong mười phương khó có thể
cảm ứng đến với người cầu nguyện.
Nhưng ở đây, một cành hoa giấy
và một cành hoa sống thì cành hoa giấy chỉ có giá trị trang trí
bàn thờ cho thêm sắc sảo so với một cành hoa sống. Một cành hoa sống,
ngoài nhiệm vụ tô điểm làm đẹp bàn thờ lại còn có giá trị thể hiện
được ý sống và nghĩa sống một cách trọn vẹn so với bông hoa
giấy. Nguyên vì cành hoa tươi tự nó có từ trường
(Magnetic-field) sức sống tỏa ra, trong lúc đó cành hoa giấy chỉ
là một loại hoa chết. Một đôi đèn nến có giá trị hơn đôi đèn
điện. Đôi đến nến, ngoài sự tiêu biểu cho ánh sáng, còn nói lên
được ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể. Đôi đèn nến biểu tượng
được ý sống và nghĩa sống của một Vật Thể qua sự biến thuyên
liên tục không ngừng. Nhờ sự biến thuyên liên tục không ngừng mà
Vật Thể mới sống còn tồn tại. Nhưng cũng vì sự biến thuyên liên
tục không ngừng này mà Vật Thể nói trên phải chết đi để chuyển sang một
Vật Thể khác qua ý sống và nghĩa sống của nó kết hợp nối liền.
Một Vật Thể nếu như không có ý sống và nghĩa sống tức là Vật Thể
đó đã chết. Dòng nước chảy là dòng nước sống và dòng nước không
chảy chính là dòng nước đã chết. Dòng nước đã chết thì không
thể hiện được ý sống và nghĩa sống của dòng nước.
Như vậy trên bàn thờ, chúng ta
không thể không đốt hương, đốt đèn, cắm hoa tươi v.v... là
những Vật Thể biểu tượng được ý sống và nghĩa sống, làm tăng
thêm sự uy nghiêm, tôn kính, linh động đối với chư Phật, chư
Tổ, Thánh Hiền hoặc đối với Tổ Tiên Ông Bà qua sự linh ứng biểu
trưng này. Trên bàn thờ, những Hình Tượng, những nén hương, những
đôi nến, những cành hoa tươi v.v... đều là những gạch nối giao cảm
quan trọng giữa Tâm Linh của Ôg Bà Tổ Tiên, của chư Phật mười
phương cùng với Tâm Linh của Môn Đồ Đệ Tử và của con cháu họ
hàng. Nh vậy, Thờ thế nào cho phải cách?
B. CÁCH THỜ:
Thờ Tổ Tiên là tiêu biểu đức nhẫn
nại của Ông Cha đã dày công bồi đắp cho giòng họ, cho Tông Môn
một sự nghiệp tinh thần, một ý sống của con người hầu giúp con
cháu đủ sức vươn lên trong xã hội và bắt chước đức tính đó để tiếp nối
xây dựng thế hệ mai sau ngày càng thêm vinh hiển.
Thờ Tổ Quốc là tiêu biểu gương
cao quý của các bậc Tiền Nhân đã hy sinh xương máu để tài bồi
Giang Sơn Cẩm Tú của chúng ta trường tồn và noi theo gương sáng
đó để bảo vệ giống nòi, phồn vinh đất nước và xây dựng một cuộc sống
thanh bình an lạc thật sự cho Dân Tộc, dĩ nhiên trong đó có con
cháu của mình.
Thờ Phật là tiêu biểu cho Trí Tuệ
Giác Ngộ, cho Đức Hạnh Từ Bi, cho ý chí Dũng Mãnh của chư Phật
mà chúng ta nương theo những gương cao quý này để đào luyện cho
mình đầy đủ sáng suốt, đầy đủ tình thương và đầy đủ nghị lực giống
như các đức Như Lai, ngõ hầu đả thông trước mọi vấn đề mê ngộ,
chân giả, để khỏi bị lầm lạc và nhận thức được chân giá trị của
cuộc đời, giải thoát mọi khổ đau sanh tử luân hồi. Đó là chân
nghĩa của cách thờ tự mà chúng ta đã và đang theo đuổi thực hiện.
C. CHỖ THỜ:
Theo quan niệm Tiền Nhân, con người
phải có xương sống mới đứng vững, cây cỏ phải có gốc rễ
mới tồn tại thì cái nhà phải có cột chính, thường gọi là cột Cái mới
hình thành. Cột chính bao giờ cũng ở giữa gọi là “Trung”
để gánh vác hai mái nhà và cột hai bên gọi là cột Con, cũng gọi
là cột Biên chỉ đóng vai trò phụ đỡ hai mái nhà yên đứng. Đây là
nói về phương diện hình thức tổ chức. Còn về phương diện tiêu
biểu, cột chính gọi là cột Trụ của cái nhà, cũng như Tổ Tiên Ông
Bà cha mẹ là cột Trụ của gia đình giòng họ, có nhiệm vụ gánh vác
cả sự nghiệp của Tiền Nhân và bảo tồn sự sống còn của con cháu
từ khi sanh ra cho đến khi thành nhân. Thế nên người xưa, trong ba căn
nhà, họ chọn căn giữa là căn Chính của cái nhà để thờ Tổ Tiên
Ông Bà. Lớn hơn nữa, mỗi giòng họ như họ Trần, họ Nguyễn, họ Lê
v.v... phải có nhà thờ Họ, được thiết lập riêng trong làng Họ
của mình để cùng nhau thờ tự. Giả sử một gia đình nghèo khó đến
mấy đi chăng nữa, dù chỉ có túp lều tranh, họ cũng chọn chỗ nào
chính giữa của túp lều ấy để trang trí bàn thờ Tổ Tiên.
Ngày nay theo quan niệm Tây
phương, họ cho chỗ chính của cái nhà là phòng khách, vì họ không
chủ trương thờ Ông Bà. Họ sống theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ biết lấy
mình mà thôi, ngoài ra không cần thiết đến ai cả, nhất là những
người thân thuộc về quá khứ, cho đến tông môn của họ cũng thế.
Chúng ta là người Á Châu, ý thức được
huyết thống giống nòi, nhận chân được sự liên quan chặt chẽ hệ
thống Tâm Linh trong quá trình chuyển hóa luân lưu, nhất định
phải có bàn thờ Ông Bà trong nhà để làm điểm tựa tinh thần, mặc
dù bàn thờ đó lớn hay nhỏ tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Ở
nước ngoài, khi nhu cầu đời sống còn thiếu thốn, chúng ta khó
chọn chỗ thờ tự đúng theo ý mình muốn. Đạo Phật chú trọng tinh
thần hơn hình thức. Chúng ta thờ tự như thế nào cũng được miễn
sao chỗ thờ đó thể hiện được lòng thành của mình đối với các Đấng
Thiêng Liêng và những Bậc trên trước.
D. GIÁ TRỊ NƠI THỜ:
Chúng ta thờ tự đức Phật hay Tổ
Tiên Ông Bà bằng cách nào đi chăng nữa cũng phải nói lên được
giá trị thiêng liêng nơi thờ. Theo Phật Giáo chúng ta có thể đặt bàn
thờ bất cứ nơi nào trong nhà, nhưng với điều kiện vị trí chỗ thờ
phải được thanh tịnh và bàn thờ phải được thiết trí trang
nghiêm, có thể gợi lên cho con cháu một ấn tượng Tôn Kính mỗi
khi chiêm ngưỡng. Chúng ta đừng quan niệm rằng, bàn thờ như kệ
đựng sách, như bàn đựng rượu v.v... bỏ lên trên đó đủ thứ tạp
nhạp để phải đắc tội với các bậc Thiêng Liêng. Chúng ta có một
bàn thờ rất sang trọng lộng lẫy, nhưng cứ để hương tàn khói
lạnh thì càng thêm có tội với Người Trên. Chi bằng chúng ta chỉ có
một bàn thờ đơn giản, nhưng được thiết trí trang nghiêm thanh tịnh
và được con cháu tới lui thăm viếng mỗi ngày cũng đủ nói lên bổn
phận làm người và giá trị nơi thờ. Chúng ta hằng ngày phải có
nhiệm vụ chăm sóc bàn thờ cũng như chăm sóc phòng khách, và coi
trọng bàn thờ như trọng bản thân, đừng tỏ thái độ khinh thường
nơi thờ tự và mỗi khi chiêm bái.
Để xác định một lần nữa, thờ tự
không phải là một hành động mê tín dị đoan mà là Truyền Thống Văn
Hóa và Tín Ngưỡng của Dân Tộc, chúng ta không thể quên được sự
nghiệp của nguồn gốc Văn Hóa Đông Phương. Đó chính là một trong những
biểu tượng văn minh của người Á Đông mà các nước Tây phương
khó có thể tìm được giá trị Tâm Linh ấy trong cuộc sống xã hội
con người.
Người Phật Tử chúng ta đã hiểu
được ý nghĩa, giá trị và phương cách thờ tự theo quan niệm Phật
Giáo, hãy cố gắng giữ gìn Truyền Thống và thực hiện cho kỳ được
việc Thờ Tự tại gia cho chu đáo, vừa lợi ích cho mình trong việc tu tạo
bản thân, cải thiện hoàn cảnh và giáo dục con em sau này trờ nên
Thiện Mỹ để xứng đáng là người Phật Tử trong hoàn cảnh hiện tại
giữa thời đại hiện kim này.
II. VẤN ĐỀ CÚNG:
Vấn đề Cúng là một nghi vấn không ít
trong quảng đại quần chúng và cũng có lắm người hành động sai
lệch, thành thử vô tình làm mất giá trị của sự Cúng Bái. Không
gia đình Á Châu nào mà không có Cúng kỵ Tổ Tiên và cũng không
Quốc Gia nào mà không có Quốc Lễ, nhưng không được bao nhiêu
người hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của sự Cúng Bái. Theo Phật
Giáo, Cúng Bái có những ý nghĩa và giá trị như sau:
A. Ý NGHĨA CỦA SỰ CÚNG:
Cúng gọi đủ là “Cúng Dường”,
đó là danh từ của Phật Giáo. Danh từ này được chuyển ngữ từ hai
chữ “Cung Dưỡng” của tiếng Trung Hoa. Trước hết chúng
ta cần hiểu hai danh từ: Cung Dưỡng và Cúng Dường.
a. Cung Dưỡng: nghĩa
là cung cấp và phụng dưỡng, tức là cung ứng theo sự nhu cầu về vật
chất của những kẻ thiếu thốn và nuôi dưỡng khi họ đói cơm rách áo
v.v... Sự Cung Dưỡng ở đây có tánh cách bố thí với tình thương
được mở rộng, giúp đỡ những phương tiện cần thiết về đời sống
cho những kẻ đang cần sự hỗ trợ qua tinh thần vị tha của những
người dư thừa.
b. Cúng Dường: (Tiếng
Phạm là: Pùjana) nghĩa là hiến cúng và dâng lễ, tức là dâng hiến
những lễ vật lên các bậc tôn kính, mong cầu ơn trên chứng minh. Cúng
Dường ở đây có tánh cách chí thành, quy ngưỡng, tưởng niệm đến
các Tiền Nhân, các bậc Thánh Đức thâm ân mà kẻ dưới có bổn phận
tri ân và báo ân.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CUNG DƯỠNG
Và CÚNG DƯỜNG:
a. Cung Dưỡng: nghĩa
là phụng dưỡng, chăm sóc những người hiện đang sống trên đời với
tình thương sẵn có mà bổn phận làm người cần phải trang trải trong
sự quan hệ sanh tồn lẫn nhau, như phụng dưỡng cha mẹ, anh chị
em, phụng dưỡng đồng bào ruột thịt v.v...
Còn đối với những kẻ đã quá cố, tức là
những người đã chết mất, chúng ta không dùng hai chữ “Cung
Dưỡng” trong sự tế lễ để khiến mất đi lòng Tôn Kính ở đây
chúng ta dùng hai chữ “CÚNG TẾ” nhằm để thể hiện lòng
thành đến với họ trong sự Lễ Nghi cung cách. Cúng Tế nghĩa là đem
lễ vật hiến cúng theo lễ nghi tế tự, như cúng tế tổ tiên ông
bà, cúng tế Thần Thánh v.v...
b. Cúng Dường: nghĩa
là tưởng niệm đến những bậc thâm ân, những Thầy chỉ đạo mà
mình đã tri ân, đã quy ngưỡng với hành động Tôn Kính. Chúng ta không
chỉ “Cúng Dường” cho những người hiện đang còn sống mà
còn “Cúng Dường” đến cho những bậc đã quá vãng, đã qua
đời. Hơn nữa, trong Phật Giáo còn gọi là Cúng Dường Tam Bảo
(Cúng dường Phật, Pháp, Tăng), cúng dường Thầy Tổ, cúng dường
Trai Tăng v.v...
C. GIÁ TRỊ VÀ QUAN NIỆM SỰ
CÚNG:
Người Việt Nam phần đông ít ai thông
suốt ý nghĩa và giá trị của sự Cúng Bái. Họ chỉ biết hành động
theo tập tục cổ truyền của Ông Bà để lại mà bổn phận con cháu
phải giữ gìn Gia Bảo tinh thần ấy. Đó là một điều rất tốt nhưng
cũng rất tai hại cho những con cháu thiếu đức tin. Vì không hiểu ý
nghĩa Cúng Bái, người kế thừa Gia Bảo Tổ Tiên không giải thích
được cụ thể cho con cháu lãnh hội và còn làm lệch lạc giá trị
cao quý của Truyền Thống Văn Hóa. Hơn nữa, một khi gặp phải kẻ
khác xuyên tạc, họ lại xem thường và thiếu tâm thành trong sự Cúng Bái
là hành động mê tín dị đoan.
Con người mỗi khi làm điều gì bị bắt
buộc nếu như không hiểu ý nghĩa về việc mình đang làm thì xem
như bị một hình phạt đau khổ rất lớn. Nhất là đối với những kẻ
có học thức, có trình độ Văn Hóa cao, họ đòi hỏi phải hiểu tường
tận và cụ thể những sự việc mà họ phải làm. Không ai có thể bắt
buộc họ làm những việc mà họ không hiểu. Đúng ra, họ rất muốn học
hỏi và tìm hiểu tất cả những gì có tánh cách Tín Ngưỡng và Văn
Hóa, nhưng không được ai giải thích vấn đề cho rõ ràng và thực
tế. Nguyên do kẻ trên trước đã không hiểu Văn Hóa và Tín Ngưỡng
thì đâu thể nào giải thích cho hậu lai được thông suốt. Cũng từ
đấy, một số người lầm lạc khinh thường sự Cúng Bái và tỏ thái độ
thiếu Lễ Nghi cung cách với bề Trên mà thật ra họ rất cần đến sự giao
cảm giữa Tâm Linh của họ với Tâm Linh của các bậc Tiền Nhân qua
sự nguyện cầu. Vì lẽ không hiểu, đôi khi họ mượn duyên cớ Cúng
Bái làm bình phong nhằm mục đích họp bạn ăn uống vui chơi hơn là
tưởng niệm để tri ân và báo ân. Họ không thể nào tin được có
Ông Bà hay Thần Thánh đến hưởng đồ Cúng Bái. Giả sử trong khi
Cúng Bái, con cháu nhìn thấy được Ông Bà hay Thần Thánh hiện
nguyên hình đến ăn uống giống như người sống thì lúc đó họ sẽ đau
khổ cực độ vì quá hoảng sợ mà con cháu lại tưởng ma quỷ hiện và sẽ
đốt nhà bỏ đi nơi khác. Nguyên do Ông Bà hay Thần Thánh không còn
hình tướng giống như người sống bình thường nữa.
Trên thực tế, có những hiện tượng mà
chúng ta bất lực trên lãnh vực quan sát. Chúng ta chỉ hiểu biết
những hiện tượng đó trên bình diện giả thuyết để tìm đáp số cho
đức tin. Chúng ta không thể nào nhìn thấy điện thể trong không
gian bằng sự quan sát. Chúng ta chỉ nhìn thấy điện trên lãnh vực
tác dụng. Nhưng điện tác dụng không phải là điện thể mặc dù điện
tác dụng được phát sanh từ điện thể trong không gian. Hơn nữa
chúng ta chỉ nhìn thấy sự vật bên ngoài bằng Ảnh Tử (Cause’s
Images of Illusions) ảo giác méo mó và không thể nào nhìn thấy mọi vật
đúng với giá trị và ý nghĩa của nó, nếu như không đặt quan niệm
thương ghét vào. Giả như chúng ta nhìn sự vật trên quan niệm
thương ghét thì thấy vạn pháp càng méo mó hơn. Chúng ta làm sao
cụ thể hóa được toàn diện về phần vật lý những thế giới siêu
hình theo sự mong muốn. Khác nào chúng ta nếu như có thể thì
cũng chỉ hiểu biết được những chúng sanh hiện hữu trong phạm vi
Thái Dương Hệ (Solar- Systems) này mà thôi và ngược lại không
thể nào biết được những chúng sanh hiện hữu trong các Thái
Dương Hệ khác ngoài Thế Giới chúng ta đang sống. Tại sao thế?
Nguyên do chúng ta là con người hiện đang sống trong Thế Giới
gọi là Ngoại Giới có hiện tướng (Thế Giới hiện hình tướng ra bên
ngoài) hoàn toàn lệ thuộc vật chất thì không thể nào thấy được chúng
sanh đã và đang sinh hoạt trong những Thế Giới có tánh cách Nội
Giới không hiện tướng. Chúng sanh trong những Thế Giới Nội Giới
không hiện tướng đều được xây dựng nên bởi Tâm Thức và chúng nó
thì không bao giờ bị lệ thuộc chút nào về vật chất cả, mặc dù
những Thế Giới Nội Giới vô hình này và những Thế Giới Ngoại Giới
hữu hình kia rất tương quan chặt chẽ với nhau trong sự duyên
sanh. Những Thế Giới Nội Giới vô hình kia nếu như không có thực
chất để làm Nhân thì những Thế Giới Ngoại Giới hữu hình này nhất
định không thể thành lập để làm Quả. Trường hợp đây cũng giống
như Điện Thể không gian ở trạng thái không hình tướng (Trạng
thái không có hiện tướng) nếu như không thật chất để làm Nhân
thì Điện Dụng (Điện đã tác dụng) sấm chớp ở trạng thái có hình
tướng (Trạng thái có hiện tướng) nhất định không thể phát sanh để làm
Quả. Thể và Dụng, Nhân và Quả là hai trạng thái rất quan hệ với
nhau một cách chặt chẽ không thể tách rời trong chiều hướng
duyên sanh để thành hình vạn pháp. Chúng ta chỉ biết được vạn
pháp từ nơi thành Quả, từ nơi tác dụng hiện tướng và ngược lại
chúng ta không thể nào quan sát được vạn pháp ở trạng thái
Nguyên Nhân cũng như ở trạng thái Thể Tĩnh không hiện tượng.
Hơn nữa, con người nhìn thấy vạn pháp qua Nhãn Quang
(Lenz-lights) chiếu soi. Nhãn Quang nếu như không chiếu soi thì con
người không thể nhìn thấy vạn pháp. Nhưng Nhãn Quang lại bị ảnh
hưởng nơi Nhãn Căn (Giác quan con mắt) cho nên chiếu soi không
được tinh nhuệ. Trường hợp này cũng giống như dòng điện bị ảnh
hưởng bóng đèn nên phát ra ánh sáng không được đúng độ. Vã
lại, Nhãn Quang bị ràng buộc quá nhiều bởi ánh sáng mặt trời. Do
đó con người không thể nhìn thấy rõ sự vật về đêm. Ngược lại,
một số loài động vật như con mèo, con chó v.v... cũng nhìn thấy
vạn pháp qua Nhãn Quang của chúng. Nhưng Nhãn Quang của những
loài động vật nói trên không lệ thuộc bởi ánh sáng mặt trời và cũng như
không bị ngăn cách bởi bóng đêm. Cho nên chúng nó có thể nhìn
thấy những hiện tượng vô hình cả ngày lẫn đêm mà loài người
không thể nào biết được. Nguyên do Nhãn Quang của loài người
không phải là Nhãn Quang của các loài vật kia. Khác nào ánh sáng
của mặt trời không phải là ánh sáng của mặt trăng. Như ánh sáng
mặt trời soi vào nhà, chúng ta mới thấy được vô số vi trần bay
khắp nhà xuyên qua ánh sáng. Trái lại, chúng ta nếu như không có
ánh sáng mặt trời chiếu soi thì không thể nào thấy được những vi trần
nói trên hiện đang bay lượn trong không gian. Như vậy, chúng ta
mặc dù không nhìn thấy các chúng sanh của những Thế Giới Nội
Giới ở trạng thái vô hình, nhưng đừng vội cho là chúng nó không
có mặt trong vũ trụ bao la.
Vũ trụ bao la có nhiều Thế Giới thì tất
nhiên cũng có nhiều loại không sanh hiện đang sinh hoạt trong đó.
Các nhà Khoa Học chưa khám phá được chúng, nhất là chưa biết
được chút nào về lãnh vực siêu hình. Các nhà Khoa Học chỉ biết
lẩn quẩn trong Thái Dương Hệ (Solar-system) có vật chất này mà
thôi và cũng chưa biết rõ tất cả Hành Tinh hiện có mặt trong
không gian. Trong không gian bao la, Thế Giới này được kết hợp
bởi những nguyên liệu không giống nhau như những Thế Giới khác,
thành thử chúng sanh ớ Thế Giới này không thể sinh hoạt nơi những
Thế Giới khác và hình tướg của họ cũng không giống nhau với các Thế
Giới khác. Tương tợ như khối nước chính là Thế Giới của
loài cá và không khí chính là Thế Giới loài ngời. Khối nước và
không khí khác nhau cho nên loài người không phải là loài cá. Vì
thế loài cá không thể sống trong Thế Giới của loài người và
ngược lại, loài người cũng không thể sống được dưới nước
giống như loài cá sinh hoạt.
Theo Phật Giáo, vũ trụ bao la có hằng hà
sa số Thế Giới, nghĩa là Thế Giới nhiều như hạt cát của sông
Hằng (sông Gange), trong đó chúng rất quan hệ từng loại với nhau,
đức Phật phân chia chúng thành ra ba nhóm khác nhau theo sự quan
hệ nói trên. Ba nhóm Thế giới gồm có: Dục Giới, Sắc Giới và Vô
Sắc Giới.
1 Dục Giới: là những
Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó đều do ái dục cực thịnh tạo
thành. Những Thế Giới này gồm có: Thế Giới loài người, Thế Giới Địa
Ngục, Thế Giới Ngạ Quỷ và Thế Giới Bàng Sanh (Súc Sanh).
2. Sắc Giới: là những
Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó cũng do ái dục và dục
tưởng kết hợp sắc chất tạo thành. sắc Chất ở đây thuộc thanh khí của
Sắc Ấm một trong năm ấm tạo thành Thân Thể và Thế Giới của Sắc
Giới. Sắc Chất này không phải Trược Khí của Sắc Uẩn, một trong
Năm Uẩn tạo thành Thân Thể vâ Thế Giới của Dục Giới. Sắc Uẩn thì
nhơ nhớp tanh hôi. Còn Sắc Ấm thì trong suốt giống như chất pha
lê.
3. Vô Sắc Giới: là
những Thế Giới mà chúng sanh sống trong đó chỉ do Nghiệp Thức kết thành
Thân Thể và Thế Giới. Những Thế Giới này muốn thấy được phải nhờ
đến Phật Nhãn mới quán thông. Mắt thịt của chúng ta không thể
nào biết được họ sinh hoạt trong những Thế Giới này.
Loài người còn không thể thấy được sự
sinh hoạt, cách ăn uống của các chúng sanh trong những Thế Giới
Địa Ngục, Ngạ Quỷ và A Tu La v.v. . . thuộc về cõi Dục thì làm
sao biết được những chúng sanh trong các cõi Vô Sắc.
Hiện tượng trong thế gian cho chúng ta
nhận thức rằng, con người sinh hoạt thường lệ thuộc quá nhiều
nơi ánh sáng mặt trời cũng như ánh sáng đèn cho nên không thể
biết được những gì thuộc về bóng đêm, nghĩa là con người muốn
nhìn thấy được sự vật phải nhờ đến ánh sáng mặt trời hoặc ánh
sáng đèn chiếu soi. Ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn nếu như
không soi sáng thì con ngời không thể nhìn thấy được những sự
vật của bóng đêm mặc dù những sự vật của bóng đêm vẫn hiện có
mặt trong thế gian. Ngược lại, những chúng sanh bị lệ thuộc bóng
đêm thì không thể biết được những gì của ánh sáng ban ngày, nghĩa
là chúng nó chỉ nhìn thấy được những sự vật thuộc về ban đêm.
Như con chim vạc, con rắn lục, con chim quốc v. v... chỉ nhìn
thấy được những sự vật của bóng tối thuộc về ban đêm và chúng nó
không thể nhìn thấy được những sự vật của ánh sáng thuộc về ban
ngày giống như con người. Còn những chúng sanh không bị lệ thuộc
bởi ánh sáng mặt trời cũng như không bị lệ thuộc bởi bóng tối
thì có thể nhìn thấy những sự vật của ban ngày và những sự vật
của ban đêm. Như con mèo, con chó v.v... có thể nhìn thấy những
sự vật cả ngày lẫn đêm không bị ngăn cách, nghĩa là bóng tối và
ánh sáng mặt trời không trở ngại cho sự sinh hoạt của chúng.
Trường hợp này cũng tương tợ như loài cá sống trên đất liền thì bị
chết khô và loài người sống dưới nớc thì bị chết ngạt. Ngược
lại loài rùa thì sống trên bờ hay sống dưới nước đều không bị
trở ngại. Sự ăn uống của những chúng sanh trong các cõi khác cũng
thế.
Chúng sanh đã có sự sống thì nhất định
phải có sự hưởng thụ, nghĩa là họ phải có sự ăn uống và sinh
hoạt để tồn tại. Nhưng sự ăn uống của họ không giống như sự ăn
uống của loài người. Sự ăn uống của họ tùy theo nghiệp quyết
định.
Thí dụ: Cùng một loại Thủy
Tộc chuyên sống dưới nước như nhau,có giống thích ăn thịt như
là Cá Mập, có giống chuyên ăn nhớt như là Cá Nược và có giống
chỉ biết ăn rong nước như là Cá Cơm v.v...
Đức Phật nói: “Chúng sanh tùy nghiệp
nhi thực” nghĩa là chúng sanh do bởi nghiệp sai biệt nên ăn
uống không giống nhau. Theo Phật Giáo, chúng sanh trong các cõi
Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới có nhiều cách ăn. Những cách ăn
của chúng sanh trong ba cõi được chia thành chín loại khác nhau,
gọi là Cửu Thực. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa và giá
trị chín cách ăn nói trên.
D. VẤN ĐỀ ĂN:
Ăn, tiếng Trung Hoa gọi là Thực,
tiếng phạn và tiếng Pali gọi chung là ÀHÀRA, nghĩa là duy trì và
nuôi dưỡng Thân Thể xác thịt của chúng sanh hoặc Pháp Thân của
các Thánh Nhân để hình thái được tồn tại, để tinh thần được nẩy
nở và phát triển lâu bền. Trong ba cõi, những thực vật để nuôi lớn Thân
Thể xác thịt thì gọi là món ăn của thế gian. Còn những thực vật
dể nuôi lớn Pháp Thân Trí Tuệ Giác Ngộ thì gọi là món ăn của xuất
thế gian. Thế Gian ăn có bốn cách và Xuất Thế Gian ăn có năm
cách. Bốn cách ăn của Thế Gian cộng với năm cách ăn của Xuất Thế
Gian gọi chung là chín cách ăn. Trước hết chúng ta tìm hiểu bốn
cách ăn của Thế Gian. Bốn cách ăn này được Kinh Tăng Nhứt A Hàm
quyển 41 giải thích như sau:
Tứ Thực: (Nghĩa là bốn
cách ăn của thế gian tiếng Phạn là Catvàra-àhàràh, hoặc
Ahàracatuska. Tiếng Pali là Cattàro- àhàra). Bốn cách ăn này nhằm mục
đích nuôi lớn Sắc Thân sanh tử trong thế gian. Bốn cách ăn của Thế
Gian gồm có: Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực và Thức Thực. Hình
thức bốn cách ăn được giải thích như sau:
1. ĐOẠN THỰC: (Tiếng Phạn là:
Kavadim=Kàràhàra, Kavlì-kàràhàra. Tiếng Pali là:
Kabalinkàràhàra). Đoạn Thực còn có tên là Đoàn Thực, Kiến Thủ Thực và
còn có tên nữa là Tuy Thực. Ý nghĩa của những tên này được giải
thích nh sau:
a. Đoạn Thực: nghĩa là
chia lương thực ra từng đoạn, từng phần để ăn nên gọi là Đoạn
Thực.
b. Đoàn Thực: nghĩa
là nắm đồ ăn vo tròn đưa vào miệng để ăn nên gọi là Đoàn Thực. Đây
cách ăn của người An Độ thời xưa dùng tay nắm vắt đồ ăn bóc
đưa vào miệng.
c. Tuy Thực: nghĩa
là vò nát đồ ăn hoặc bẻ ra từng mảnh để ăn nên gọi là Tuy Thực.
d. Kiến Thủ Thực: nghĩa
là cầm lấy đồ ăn đưa vào miệng nên gọi là Kiến Thủ Thực. Bốn
hình thức ăn vừa giải thích đều nằm trong ý nghĩa của Đoạn Thực
được nêu ở trên. Theo Phật Học Đại Từ Điển quyển 4, Trang 3997-3998
Đoạn Thực được giải thích như sau:
ĐOẠN THỰC: nghĩa là ăn uống bằng cách
lấy mùi hương, chất vị và tinh thể của xúc trần nơi sắc pháp để
tươi nhuận và bổ ích cho các Căn trong thân thể nên gọi là Đoạn
Thực. Đoạn Thực có hai phần: Phần Thô và Phần Tế.
a. Phần Thô: (Tiếng
Phạm là Odàrika. Tiếng Pali là Olària), nghĩa là thể chất của thực
vật phổ thông để ăn được nằm trong cơm, trong miến, trong cá, trong
thịt.
b. Phần Tế: (Tiếng
Phạm là Sùksma. Tiếng Pali là Sukhuma), nghĩa là các thứ để uống và
các mùi thơm như là hương, dầu, sinh tô v.v... Nói tóm lại Đoạn
Thực nghĩa là ăn bằng cách dùng tay đem đồ ăn đưa vào miệng để
nuôi dưỡng Thân Thể, như loài người ăn v.v...
2. XÚC THỰC: (Tiếng Phạm là
Spar-sàkàràhàra. Tiếng Pali là phassà- Kàràhàra), cũng gọi là Lạc Thực
và Ôn Thực.
a. Xúc Thực: nghĩa là
Khí quản cảm giác xuyên qua tinh thần làm chủ thể tức là Tâm tác
dụng tiếp xúc ngoại cảnh liền sanh ra cảm giác và ý chí để bồi dưỡng và
nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là Xúc Thực. Nói cách khác, Xúc Thực
nghĩa là ăn bằng cách dùng miệng thay thế tay chân tiếp xúc thẳng
lương thực không qua trung gian đưa vào, như cách ăn theo
kiểu heo, gà, chó v.v...
b. Lạc Thực: nghĩa
là Tâm Sở xúc khi tiếp xúc trực tiếp với cảnh vật đối tượng
liền phát sanh hỷ lạc ưa thích để nuôi lớn Nhục Thân nên gọi là
Lạc Thực. Như người mê xem hát suốt ngày mà không cảm thấy đói.
c. Ôn Thực: nghĩa
là như chim Khổng Tước, chim Anh Vũ v.v... khi sanh Trứng
xong, liền đích thân trực tiếp ấp Trứng cho đến khi nào Trứng nở
thành con mới thôi. Chúng ấp Trứng nhầm mục đích nuôi dưỡng sức ấm để
sanh Lạc Xúc và Trứng nhờ đó mới nẩy nở thành con, nên gọi là Ôn
Thực. Con người tắm rửa, mặc áo cũng gọi là Xúc Thực.
Nói tóm lại, căn cứ nơi nghiệp lực của
chúng sanh mà nhận xét, Xúc Thực ở đây có nghĩa là ăn bằng cách
dùng miệng tiếp xúc thẳng lương thực mà không dùng đến tay chân
mang thức ăn vào miệng giống như cách ăn của loài ngời.
3. TƯ THỰC: (Tiếng
Phạm là Manah-Samce=Tanàkàràhàra. Tiếng Pali là
Mano-Sance=Tanàkàràhàra), cũng gọi là Tác ý Tư Thực (Ý Thực),
Niệm Thực (Ý Niệm Thực), Ý Chí Thực, Nghiệp Thực, nghĩa là tác
dụng của ý Chí (Tư) mong cầu cho mình được trạng thái tốt đẹp
và tồn tại tức là trạng thái sanh tồn được kéo dài nên gọi là
Tư Thực. Nói cách khác, Ý Thức thứ sáu đối với cảnh sở duyên liền
phát khởi tư tưởng mong muốn và phát sanh Ý Niệm hy vọng các Căn
(giác quan) được tiếp tục thêm lớn. Luận Thành Thật cho là “Tư
nghiệp hoạt mạng”, nghĩa là do Nguyện Lực của tư tởng
khiến cho Mạng Căn sinh hoạt. Còn Đại Thừa Nghĩa Chương, tiết
mục Đại 44, trang 620 giải thích rằng: “Do Tư Nghiệp của quá
khứ khiến Mạng Căn tiếp nối không dứt, nên gọi là Tư Thực. Như
thế, tất cả chúng sanh có sanh mạng đều do tư tưởng ở quá khứ
tạo nên, hoặc mang sống của họ đều do tư tưởng hiện tại tạo
thành nên gọi là Tư Thực”.
4. THỨC THỰC: (Tiếng Phạm là
Vi-jnànàkàràhàra. Tiếng Pali là Vinnànà- kàràhàra), nghĩa là Tâm
Thức hữu lậu nương nhờ nơi Thức Alaya làm thể và ỷ lại vào thế
lực của ba cách ăn ở trước để cồ thể tạo tác quả báo cho kiếp
sau nhầm mục đích duy trì thân mạng của chúng sanh hữu tình không
cho hư hoại, nên gọi là Thức Thực. Chúng sanh hữu tình trong
các cõi Vô Sắc và Địa Ngục thường dùng cách ăn này nên gọi là
Thức Thực.
Trong bốn cách ăn nói trên, Tâm Thức
sinh hoạt một cách linh diệu để duy trì vạn pháp được tồn tại
trong thế gian nên gọi là Thức Thực. Xúc Thực Tư Thực và Thức
Thực đều thông cả ba cõi, nghĩa là chúng sanh hữu tình trong ba
cõi phần nhiều sử dụng ba cách ăn này nên gọi là thông cả ba cõi.
Riêng Đoạn Thực chỉ hạn cuộc trong cõi Dục, nghĩa cách ăn này
chỉ dành riêng cho các chúng sanh hữu tình trong cõi Dục sử dụng
nhiều hơn.
Có thể nói, Thức Thực là cách ăn bằng
Tâm Thức và lương thực để cho Tâm Thức sử dụng chính là hương
vị của các pháp. Riêng những người bị chết, sau khi bỏ Thân Thể
xác thịt hôi tanh liền nương tựa nơi Thân Thể bằng Tâm Thức nên
gọi là Thức Thân và cũng gọi là Thân Trung Ấm. Những người mang
Thức Thân thì họ ăn bằng cách Thức Thực và lương thực của họ
nuôi sống chính là hương vị của những đồ cúng tế mà phần đông
những chúng sanh trong các cõi Đia Ngục, Ngạ Quỷ, A Tu La và cõi
Trời thuộc Dục Giới đều thọ hưởng.
Như chúng ta đã biết sự ăn uống
của chúng sanh hữu tình trong năm cõi (Cõi Trời, cõi Ngời, cõi
Địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh) sở dĩ khác nhau chính là do bởi
chúng có nhiều hình thái được sanh ra từ nơi bốn loại không giống
nhau (loại sanh ra bằng trứng, loại sanh ra bằng bào thai, loại
sanh ra bằng chỗ ẩm thấp và loại sanh ra bằng sự chuyển hóa từ
hình tướng này sang hình tướng khác). Do đó so với các bậc
Thánh Nhân, bốn loại chúng sanh nói trên đều thuộc hạng phàm phu
và chúng ăn uống cũng khác với sự ăn uống của các bậc Siêu Đẳng.
Bốn cách ăn này của bốn loại chúng sanh hữu tình trong năm cõi
cũng gọi là Bất Tịnh Thực (Cách ăn không trong sạch).
Khác hơn bốn cách ăn của các hàng phàm
phu, năm cách ăn của các bậc Thánh Nhân được gọi là Thanh Tịnh
Thực (Năm cách ăn rất trong sạch) và cũng gọi là Xuất Thế Gian
Thực (Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian). Đây là năm cách ăn
của các đức Phật, của các vị Bồ Tát, các vị Duyên Giác và các bậc
Thinh Văn thường sử dụng. Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian
gồm có:
1. Thiển Duyệt Thực:
nghĩa là Hành Giả dùng phương pháp Thiền để bố ích Tâm Thần, tức là
những vị ấy hưởng đặng cái vui trong Thiền Định, nên gọi là
Thiền Duyệt Thực.
2. Pháp Hỷ Thực: nghĩa
là Hành Giả khi nghe pháp liền sanh tâm hoan hỷ, khiến tăng trưởng
thiện căn và lợi ích huệ mạng, nên gọi là Pháp Hỷ Thực.
3. Nguyện Thực: nghĩa
là Hành Giả vì muốn cứu độ chúng sanh đoạn trừ phiền não sớm chứng
quả Bồ Đề nên phát nguyện rộng lớn duy trì bản thân để thường tu vạn
hạnh, nên gọi là Nguyện.
4. Niệm Thực: nghĩa là
Hành Giả sau khi an định được Tâm ý, thường ghi nhớ mãi những
thiện pháp Xuất Thế mà mình đã chứng đắc không bao giờ quên, nên gọi là
Niệm Thực.
5. Giải Thoát Thực:
nghĩa là Hành Giả khi tu hạnh Thánh Đạo Xuất Thế của bậc Thánh
Nhân đã đoạn được sự trói buộc của Nghiệp Phiền Não và không còn
thọ nhận sự bức bách hay bị chi phối bởi khổ sanh tử nên gọi là
Giải Thoát Thực.
Đây là danh xưng năm cách ăn của các
bậc Xuất Thế Gian. Năm cách ăn này được thiết lập là căn cứ nơi
Pháp Hỷ của năng lực Thiền Định, của năng lực Chánh Nguyện, của
năng lực Chánh Tư Duy làm nền tảng. Hành Giả nhờ năng lực Thiền
Định, năng lực Chánh Nguyện và năng lực Chánh Tư Duy sau khi
đoạn được phiền não và được học hỏi Phật Pháp liền sanh ra Pháp
Hỷ. Pháp Hỷ thường nuôi dưỡng sanh mạng và bảo trì hạt giống
Trí Tuệ, nên gọi là Thực.
Năm cách ăn của các bậc Xuất Thế Gian
cộng chung với bốn cách ăn của Thế Gian nói trên trở thành chín
cách ăn, gọi là Cửu Thực. (Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 28 và Kinh
Tăng Nhứt A Hàm, quyển 41).
E. CÁCH ĂN CỦA TỔ TIÊN ÔNG BÀ:
Thế thì Tổ Tiên, Ông Bà ăn như
thế nào?
Như đã trình bày ở trên, Tổ
Tiên, Ông Bà có thể ăn uống thường gọi là Hưởng Thực nghĩa là
ăn bằng cách Thức Thực những hương vị của món đồ mà con cháu
dâng cúng và nếu như không có món đồ dâng cúng thì làm sao có
hương vị để cho Tổ Tiên, Ông Bà hưởng thực.
Sở dĩ sự hưởng thực của Ông Bà không
giống như sự ăn uống của loài người, nguyên vì các vị ấy không
còn mang tấm thân xác thịt như loài người và cũng không còn sống
trong thế giới loài người. Họ chết, nghĩa là họ bỏ lại tấm thân
xác thịt bằng chất liệu máu huyết tanh hôi của cha mẹ. Họ chỉ còn
lại thân thể bằng Tâm Thức, gọi là Thức Thân và cũng gọi là
Trung Ấm Thân hay Danh Thân. Đã là Thức Thân sống trong thế giới
nội Tâm không hiện tướng thì sự ăn uống của họ chỉ bằng Tâm Thức
nên gọi là Thức Thực và lương thực của họ sống chính là Hương Vị của
vạn pháp, thường gọi là Dưỡng Khí. Thức Thân là thân thể thuộc
trạng thái vô hình không thể dung chứa những vật chất thuộc hữu
tình, cho nên họ không thể hưởng đồ ăn bằng vật chất giống như
sự tăn uống của loài người. Đến khi nào đi đầu thai thọ thân
kiếp sau, họ kết hợp với sắc chất tức là tinh cha huyết mẹ để thể
hiện Thức Thân nói trên trở thành Nhục Thân hiện tướng thì chừng
đó họ có thể ăn uống những vật chất vào giống như sự ăn uống
của loài người. Hoặc họ sanh vào những cõi khác, ngoài Thế Giới loài
người thì sẽ ăn uống theo cách của chúng sanh ở những cõi đó.
Hơn nữa, Tổ Tiên Ông Bà đã đi đầu
thai vào Thế Giói nào khác từ lâu, vậy chúng ta cúng kỵ có ý nghĩa
gì? Trường hợp này chúng ta cúng kỵ có hai ý nghĩa:
a. Ý nghĩa thứ nhất, chúng ta
cúng kỵ nhằm mục đích tri ân và báo ân những đấng sanh thành đã
từng hy sinh tạo nên chúng ta cũng như gầy dựng nên giòng họ
Tông Môn của Gia Phả mình. Đồng thời chúng ta giáo dục con cháu thiêng
liêng hóa Tông Đường để tiếp nối sự nghiệp hiển vinh giòng họ Nội
Ngoại hai bên. Không khác nào Dân Tộc Việt Nam mỗi năm
thường làm lễ kỷ niệm Quốc Tổ Hùng Vương để nhắc nhở giống nòi
đừng quên cội mất nguồn. Cũng như Tín Đồ làm lễ kỷ niệm Phật Tổ hay
Thánh Chúa là để hình ảnh thiêng liêng đó ăn sâu vào tâm khảm của
mỗi Tông Đồ.
b. Ý nghĩa thứ hai, chúng ta cúng
kỵ với giá trị là sử dụng năng lực tâm linh thành kính của mình
biến hương vị lương thực hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển
dưỡng khí đó thành chất liệu dưỡng sinh để mang đến cho người
mình cúng qua hệ thống tâm linh. Người mình cúng ở cõi khác tự
nhiên được nhiều sự may mắn không biết từ đâu đến mà người đời thường
gọi là được phước đức ông bà. Trờng hợp này cũng tương tợ
như bóng đèn điện đã bể, chúng ta thay vào đó một cái quạt máy.
Hình thức quạt máy hoàn toàn không phải là hình thức một bóng
đèn. Giờ đây chúng ta tăng sức dòng điện cho đường giây bóng đèn
cũ thì trên thực tế quạt máy tự nhiên được ảnh hưởng ngay.
Người mình cúng tuy không còn là hình thức ông Bà, nhưng Tâm
Linh của họ vẫn cùng một dòng Tâm Linh với Tổ Tông không khác.
Chúng ta tăng năng lực cầu nguyện trên đường giây Tâm Linh dòng
họ thì người mình cúng sẽ được ảnh hưởng ngay. Giá trị này
cũng giống như chúng ta đánh Fax hay gọi Điện-thoại viễn liên
thay vì điện tử qua hệ thống Tâm Linh rất linh diệu vô cùng, ảnh
hưởng đến người mình gọi.
Tóm lại, Tổ Tiên Ông Bà và Nghiệp Lực
thọ sanh vào những Thế Giới vô hình thì sự sinh hoạt ăn uống của
họ chỉ bằng Thức Thực không giống như sự ăn uống của loài người
và con cháu cúng dường là đem hương vị của món đồ dâng lên
thành kính tưởng niệm để tri ân và báo ân. Đó là cách ăn uống
của Tổ Tiên Ông Bà theo quan niệm Phật Giáo.
G. CÁCH CÚNG
Cúng phải có quy cách của cúng tế, nghĩa
là cách thức cúng tế đã được quy định trong Nghi Lễ, như Nghi
Lễ của Quốc Gia gọi là Quốc Cách, Nghi Lễ của Quân Đội gọi là
Quân Cách, Nghi Lễ của Tôn Giáo gọi là Tôn Giáo Cách v.v...
Người kế thừa trong sự cúng bái nếu
như thiếu Nghi Lễ quy cách chính là thiếu cung cách trong việc
cúng tế, tức là người đó đã phạm lỗi với các bậc Thánh Hiền đáng
tôn kính. Theo Kinh Di Giáo, người cúng dường trước hết sử
dụng thân thể cũng như hành vi làm chủ yếu và sau đó họ sử dụng
tinh thần để giao cảm. Cho nên họ phải thể hiện được hai đức
tánh: Thân Cúng Dường và Tâm Cúng Dường.
a. Thân Cúng Dường:
nghĩa là người cúng dường phải dâng cúng những lễ vật như đồ ẩm thực,
y phục, thuốc thang v.v... lên cho Tam Bảo, cho Sư Trưởng, cho
Cha Mẹ, cho Hương Linh v.v... một cách tâm thành, gọi là Thân
Cúng Dường.
b. Tâm Cúng Dường:
nghĩa là người cúng dường cảm thấy tâm không nhàm chán, không
biết đủ, không hối tiếc và tự tại trong hành động, gọi là Tâm
Cúng Dường.
Cũng từ ý nghĩa này, Quy Cách của Phật
Giáo có hai phương thức cúng là Sự Cúng và Lý Cúng.
1. SỰ CÚNG:
Những lễ vật hiến cúng lên bàn thờ chính
là hình thức biểu tƯợng lòng chí thành của một ngƯời con, của
một Tín Đồ dâng trọn niềm tin lên Tổ Tiên Ông Bà, lên Thánh Hiền
và lên Chư Phật. Họ dâng hiến lễ vật là mong nhờ Tổ Tiên Ông Bà
và Thánh Hiền Chư Phật đoái tưởng ấn ký, gọi là chứng minh cho
tất lòng chí thành biết ơn của kẻ dưới. Nếu như không có lễ vật
biểu tượng thì không thể hiện được lòng chí thành của mình đối
với những bậc thâm ân mà mình tôn kính. Cũng như nếu không có
Thiệp (Card) chúc tết hoặc lời chúc tụng thì không thể nào tỏ bày
được lòng thành của mình đối với người mình chúc tụng. Nhờ sự tướng
(hình thức) hiển bày được nguyên lý, nhờ hình tướng hiển bày
được thể tánh, nghĩa là sự tướng nếu như không có thì không
thể hiện được lý tánh. Sự và Lý cũng như Tướng và Tánh đều
dung thông với nhau không ngăn ngại. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lý
Sự Vô Ngại Pháp Giới”, nghĩa là Lý Tánh nhờ Sự
Tướng được hiển bày và Sự Tướng nhờ Lý Tánh được thành hình.
Sự Lý không thể rời nhau được để thành lập. Vạn pháp tuy có
tướng trạng khác nhau, nhưng đều cùng chung một bản thể.
Người có lòng chí thành thì dù hột muối
cắn làm hai đem dâng cúng lên bề trên cũng có giá trị và ngược
lại. Người không có lòng chí thành thì mặc dù đem mâm cao cỗ đầy
cũng không có ý nghĩa, đúng như câu: “Phật tức tâm, Phật
chứng tại tấm lòng, tâm tức Phật lòng thành có Phật”.
2. LÝ CÚNG:
Lý Cúng Dường nghĩa là thể hiện được
chân lý đã chứng nhập đem ra cúng dường, nên gọi là Lý Cúng. Kinh
Phổ Hiền, Phẩm Hạnh Nguyện nói Cúng Dường có ba ý nghĩa:
a. Tài Cúng Dường: nghĩa
là dùng những hoa quả, tiền của châu báu thường dùng trong thế
gian đem ra cúng dường.
b. Pháp Cúng Dường:
nghĩa là đem tâm Bồ Đề làm lợi ích cho mình và lợi ích cho mọi
người để cúng dường.
c. Quán Hạnh Cúng Dường:
nghĩa là thật hành pháp quán để nhận thấy vạn vật khắp trong ba
cõi đều dung thông với nhau, tức là thật hành phương pháp quán
chiếu về “Sự sự vô ngại pháp giới” của Kinh Hoa Nghiêm
để cúng dường.
Kinh Thập Địa Luận, quyển 8 nói: Cúng
dường có 3 cách:
a. Lợi Dưỡng Cúng Dường: nghĩa
là chỉ dùng các thứ y phục, ngọa cụ v.v... để cúng dường.
b. Cung Kính Cúng Dường:
nghĩa là tỏ lòng thành bằng cách dâng hương hoa, tràng phang
bảo cái v.v...để cúng dường.
c Hạnh Cúng Dường:
nghĩa là tiến tu đạo nghiệp về các hạnh, như Tín Hạnh, Giới Hạnh
v.v... để cúng dường.
Pháp Hoa Văn Cú quyển 8 nói rằng: dùng
Tam nghiệp cúng dường. Tam nghiệp cúng dường như là:
a. Thân Nghiệp Cúng Dường:
nghĩa là dùng thân này chí thành lễ bái, kính ngưỡng các đức
Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
b. Khẩu Nghiệp Cúng Dường:
nghĩa là dùng lời nói ca tụng khen ngợi công đức của các đức
Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
c. Ý Nghiệp Cúng Dường:
nghĩa là dùng tâm ý đoan chánh tưởng niệm đến Tướng Hảo Trang
Nghiêm của các đức Phật, các vị Bồ Tát để cúng dường.
Với tinh thần Lý Cúng vừa trình
bày trên, chúng ta luôn luôn noi gương tốt của các bậc Tiền Nhân
Thánh Đức, của Tổ Tiên Ông Bà, cố gắng ngăn ngừa các điều tội ác
nguyện làm các việc phước lành, giữ gìn thân tâm cho trong
sạch, trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm, để
xứng đáng danh nghĩa con cháu yêu quý của dòng họ của Tông Môn,
để làm gương mẫu tốt trong xã hội. Chúng ta thể hiện được tinh
thần cao đẹp vừa nói trên để cúng dường lên Tổ Tiên Hiền Thánh,
ngưỡng mong các bậc tôn vinh trên chứng minh vâ gia hộ, đó là ý
nghĩa của Lý Cúng.
Theo quy cách của Phật Giáo, con cháu
mỗi khi cúng kỵ Ông Bà hay Thánh Hiền phải hội đủ những điều kiện
sau đây:
a. Phải có lòng thành kính đối
với bậc trên trước mà mình cúng bái, nghĩa la không phải cúng
bái với mục đích họp bạn ăn uống vui chơi.
b. Phải trang nghiêm thanh tịnh
trong lúc cúng tế, nghĩa là trong lúc cúng tế không được tổ chức
ca múa hát xướng như một hí trường.
c. Phải có ba chén cơm, ba chung
nước thanh khiết và ba đôi đũa hoặc ba muỗng nĩa cùng với hơng
đèn hoa quả v.v... Đó là điều kiện cần thiết trong khi cúng. Còn
các thức ăn khác thêm bớt là tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia chủ.
d. Tất cả con cháu trong gia đình
đều phải quỳ xuống, im lặng, chắp tay hướng về bàn thờ Tổ Tiên,
Thánh Hiền v.v... bày tỏ lòng chí thành. Lúc đó gia chủ đại diện
nguyện hương, vái tên họ, tuổi và ngày tháng, năm tạ thế của
người quá vãng (người đã chết) mà mình cúng kỵ. Trong khi cha mẹ
đang cúng Ông Bà, con cháu không được đùa giỡn làm thiếu lễ nghi cung
cách. Kế đến, tất cả con cháu đều chí thành đọc tụng Thần Chú
Chuyển Lương Thực để Ông Bà thọ hưởng sự cúng dường. Sau cùng
tất cả đều lạy ba lễ.
Đây là năm điều căn bản của con
cháu mà bổn phận làm người cần phải nằm lòng trong việc kế thừa
sự nghiệp gia bảo của tiền nhân. Chúng ta tại sao phải có bổn
phận và lại còn hãnh diện mỗi khi tổ chức trọng đại lễ kỷ niệm Hùng
Vương, Đức Thánh Trần, Tổng Thống v.v... và còn đọc tiểu sử ghi công
các vị ấy một cách trang nghiêm. Ngược lại, chúng ta tại sao
thiếu bổn phận và lơ là trong việc cúng bái Tổ Tiên là những bậc
có công ơn lớn nhất của Tông Môn của dòng họ mình. Trong Phật
Giáo, tội bất hiếu là một trong năm tội Ngũ Nghịch của Địa Ngục
Vô Gián. Chúng ta mang danh là Phật Tử cần phải biết cung cách
Hiếu Hạnh vừa trình bày ở trên đề ngăn ngừa đừng phạm phải.
H. PHỤ BẢN:
I.- KHI CÚNG ÔNG BÀ:
Khi cúng ông Bà, con cháu phải tập
họp đầy đủ trước bàn thờ Tổ Tiên và ăn mặc chỉnh tề, im lặng.
Gia Chủ đại diện lên đèn va đọc thầm bài Kệ Đốt Dèn:
KỆ ĐỐT ĐÈN:
Đốt sáng đèn Tâm,
Nguyện cho chúng sanh,
Chiếu tỏa mười phương,
Tẩy trừ mê ám.
Nam Mô Nhiên Đăng Vương Bồ Tát.
(3 lần)
Tiếp theo Gia Chủ đốt ba cây hương
và đọc thầm Thần Chú Đốt Hương:
CHÚ ĐỐT HƯƠNG:
Tinh Hương kết vần mây thể,
Thơm khắp ba cõi mười phương,
Năm Uẩn biến thành trong sạch,
Trần ai ba độc thanh lương.
Án Phóng Ba Tra Tá Ha. (3 lần)
Tới cả con cháu đều quỳ xuống và
Gia Chủ đại diện nguyện hương.
KỆ NGUYỆN HƯƠNG:
Đem tất lòng thành kính,
Nguyện kết đài Mây-hương,
Dâng lên khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Cúng Cửu Huyền Thất Tổ,
Nội Ngoại cả hai bên,
Niệm ơn trên hiển linh,
Ứng lòng Từ chứng giám,
Gia hộ đàn con cháu,
Sớm lập Đức bồi Tâm,
Khiến tỏ rạng Tông Môn,
Lưu danh thơm kim cổ.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát.
(3 lần)
Kế đến cầu nguyện:
Hôm nay ngày lành tháng tốt,
chính là ngày kỷ niệm (Kể tên họ, tuổi và năm, tháng, ngày, giờ
tạ thế của ngời mình cúng kỵ). Để tỏ lòng tưởng niệm, nhớ nghĩa
thâm ân, gia đình chúng con gồm có........... (liệt kê tên họ)
thành tâm sắm sửa trai nghi, hương hoa, quả phẩm thanh khiết dâng lên,
trước hết cúng dường Cửu Huyền Thất Tổ, Thất Thế Phụ Mẫu, đa
sanh Phụ Mẫu, Lục Thân Quyến Thuộc, Nội Ngoại Hương Linh, trên
đến Cao Tằng Tổ Khảo, dưới đến Tử Tôn Tằng Huyền, và tiếp theo
cúng dường Hương Linh (Tên họ người mình cúng kỵ).
Duy nguyện, chư Hương Linh
quang lâm án Tiền chứng minh công đức, gia hộ con cháu chúng con,
tai chướng tiêu trừ, thân tâm hương thới, mạng vị bình an căn
lành tăng trưởng, bốn mùa không còn chút tai ương, tám tiết phước
lớn như đông hải. Gia đình hưng thịnh, quyến thuộc tăng phúc đoàn
viên, cầu chi đều nh ý, nguyện tất cả đợc tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3
lần)
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC:
Biến cơm, biến nước Chơn Ngôn
thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa
Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha
Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố
Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Phạ
Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)
(Lạy ba lễ là xong)
II.- NGHI THỈNH VONG:
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh,
Hương Linh lắng nghe, Cuộc đời dâu bể, sớm còn tối mất tợ chiêm
bao, Sống gởi thác về, mau quay đầu trở lại đường xa bến cũ,
Hương Linh giờ đây tỉnh ngộ, Nghe lời triệu thỉnh quang lâm, An
tọa trước bạn hương án trang nghiêm, Xin chứng giám lòng thành
của Gia Chủ. U Minh Giáo Chủ, Bồ Tát hiện thân, Hóa độ khắp chốn
cùng nơi, Tiếp dẫn ba đường sáu nẻo, Lòng từ thương xót, Chí nguyện
kiên cường: “Địa Ngục chưa hết chúng sanh, Ngài thệ không
thành Phật quả. Đến khi Địa Ngục không còn, Chừng đó lên ngôi
Chánh Giác”. Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Từ Bổn Tôn Địa
Tạng Vương Bồ Tát, Thương vì Gia Chủ.......... (Kể tên họ con
cháu) Tiếp độ Hương Linh. (Đọc tên người quá vãng), Về nơi Đạo
Tràng, Chứng minh công đức.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
(3 lần)
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh,
Hương Linh lắng nghe, Năm Uẩn giả hợp nên người, Bốn Đại duyên
sanh thành vóc, Bản chất vô thường, Hình hài biến đổi, Chốn phù
sinh mang thân gởi tạm, Đường tội lỗi mình lỡ tạo nên, Hôm nào
còn đó, Bữa nay mất rồi, Thân cát bụi trả về cát bụi, Mượn Ấm
Thân nhờ chuyển kiếp sau, Phiền não trầm luân khổ lụy, Sông mê lặn hụp
triền miên, Hương Linh nên tỉnh ngộ, Thuyền Bát Nhã đợi chờ, Nơi
bến Giác mau về cập bến, Nhờ Hào Quang dẫn lối soi đờng, An nhàn
nơi đất Phật, Tĩnh tọa trên tòa Sen, Quan âm, Thế Chí hộ trì,
Giáo chủ Di Đà thọ ký, Liền trở về đây nơi chốn dương trần, Sớm
gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức,
Tai chớng tiêu trừ, Thân tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn
mùa không còn chút tai ương, Tám tiết phước lớn như đông hải,
Gia dình hng thịnh, Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều
như ý, Nguyện tất cả được tùng tâm.
Nam Mô Linh Tự Tại Bồ Tát. (3
lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba
chung, Tang Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thành,
Hương Linh lắng nghe, Nay riêng mình, Giờ đây bụi trần phủi
sạch, Còn gia quyến, âm dương hai ngã cách đôi, Tỏ lòng đạo
nghĩa thâm ân, Con cháu chí thành tưởng niệm, Trước tiên dâng
hiến nước Cam Lồ, Chất liệu tươi nhuận khắp mười phương, Thiền trà
Pháp Nhũ, Thiền vị ngát hương, Gia chủ mong nhờ Thiền Đức, Chuyển
lời triệu thỉnh Hương Linh, Khởi hành từ chốn U Minh, Nương tòa
Sen về dương thế, Tĩnh tọa trước Đạo Tràng Hương án, Nghe
kinh và thọ lãnh cúng dường, Do Gia Quyến chí thành dâng hiến,
Xin nguyện Hương Linh (kể tên) hết lòng gia hộ cháu con, Quyến
thuộc Tông Môn nam nữ, Thừa tư công đức, Tai chướng tiêu trừ,
Thân tâm hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai
ương, Tám tiết phước lớn như đông hải, Gia đình hưng thịnh,
Quyến thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả
được tùng tâm.
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát. (3
lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba
chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
Hương Hoa thỉnh Nhứt Tâm triệu thỉnh,
Hương Linh lắng nghe, Nương Từ Bi vô lượng, Nhờ Phật Pháp nhiệm
mầu, Bao nhiêu quả phẩm Cam Lồ, Lương thực thiết đầy Hương án,
Pháp nhũ mỹ vị tịnh chay, Biến khắp hư không Pháp Giới, Con
cháu chí thành, Hiến dâng cúng bái, Hương Linh nghe lời triệu
thỉnh, Về đây thọ lãnh cúng dường, Đó là món ăn tinh thần, Thanh tịnh
huơng thơm Pháp Vị, Xin nguyện Hương Linh........(kể tên) Sớm
được ấm no đầy đủ, Hết lòng gia hộ cháu con, Quyến thuộc Tông
Môn nam nữ, Thừa tư công đức Tai chướng tiêu trừ, Thân tâm
hương thới, Mạng vị bình an, Bốn mùa không còn chút tai ương,
Tám tiết phước lớn như đông hải, Gia đình hưng thịnh, Quyến
thuộc tăng phúc đoàn viên, Cầu chi đều như ý, Nguyện tất cả
được tùng tâm.
Nam Mô Mỹ Hương Trai Bồ Tát. (3
lần)
Thiền Trà dâng cúng, Thiền Vị ba
chung, Gia Chủ trà châm, Chí thành ba lễ.
TỤNG CHÚ CHUYỂN LƯƠNG THỰC: Biến
cơm, biến nước Chơn Ngôn thành tâm trì tụng:
1. Nam Mô Tát Phạ Đát Tha, Nga Đa
Phạ Lồ Chỉ Đế, Án, Tam Bạt Ra, Tam Bạt Ra, Hồng. (3 lần)
2. Nam Mô Tố Rô Bà Da, Đát Tha
Nga Đa Da, Đát Diệt Tha, Án, Tố Rô Tố Rô, Bát Ra Tố Rô, Bát Ra Tố
Rô, Ta Bà Ha. (3 lần)
3. Án, Nga Nga Nẳng Tam Bà, Pha
Phiệt Nhựt Ra, Hồng. (3 lần)
Hương Hoa thỉnh, Nhứt Tâm triệu thỉnh,
Hương Linh lắng nghe, Tâm giác ngộ vốn thanh tịnh, Dứt si mê
chứng quả ngay, Có thân có khổ, Có nghiệp chướng có luân hồi,
Không sanh không tử, Không nghiệp chướng không đến đi, Sanh tử
đến đi như giấc mộng, Cuộc đời dâu bể tợ chiêm bao. Hơng Linh
đừng luyến tiếc kiếp phù sinh, Mau thoát khỏi bể khổ đau ái dục, âm
Dương tuy hai đường ngăn cách, Nhưng Thể Tánh chỉ có một Pháp
Thân, Mong Hương Linh được nhẹ nhàng, Sanh sang nước Cực Lạc,
của đức Phật A Di Đà, Hiện đang làm Giáo Chủ, Thuyết Pháp độ
chúng sanh, Hương Linh ngồi trên tòa Sen báu, Chí thành chiêm
ngưỡng đức Thế Tôn, Ngưỡng mong đức Phật Từ Bi, Duỗi lòng phóng
quang tiếp độ , Hơng Linh siêu sanh Tịnh Độ, Chứng quả Niết Bàn
Vô Dư.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát. (3
lần)
Tóm lại, vấn đề Cúng là một cung
cách rất thiết yếu của người có Tín Ngỡng đối với Tổ Tiên, đối
với Hiền Thánh mà bổn phận làm người không thể thiếu trong việc
cải tiến bản thân, cũng như xây dựng xã hội an lạc thật sự về
phương diện Tâm Linh. Cúng là một hành động tri ân và báo ân Tiền Nhân
với mọi hình thức biểu tượng mà con người ý niệm đợc thâm ân
không thể thiếu nghĩa vụ. Cúng cũng là một phương thức giáo dục
con người ý thức Truyền Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và Tín
Ngưỡng để họ làm tròn bổn phận làm người. Nhất là ngời Phật
Tử, chúng ta phải cúng, nhằm thể hiện tâm linh để bất cẩu giao
cảm với chư Phật, mong nhờ Tam Bảo gia hộ cho mình được an
lành trên con đường Giác Ngộ và Giải Thoát. Đây là ý nghĩa và
giá trị của Cúng Dường. Ý nghĩa và giá trị Cúng Dường được
trình bày qua Sự cũng như qua Lý để làm quy cách căn bản cho Phật Tử
chánh tín hành trì, ngõ hầu giúp đỡ họ sớm kết duyên lành với chư
Phật trong mười phương.
III.- VẤN ĐỀ LỄ BÁI:
Lễ Bái là một Đạo Nghĩa nhằm tiêu
biểu ý chí tôn kính, tưởng niệm đến những ân đức sâu dày của Tổ
Tiên Ông Bà, của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng và
tự thân Phát nguyện tu tâm luyện trí hầu trở thành ngời hữu ích
trong xã hội để làm tròn bổn phận con cháu của Tông Môn và để xứng
đáng là Đệ Tử của các bậc Thánh Đức. Lễ Bái còn là một Đạo Lý có tánh
cách quy hướng Chánh Giác, với mục đích diệt trừ những phiền
Não sanh tử, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn trong mỗi con người,
khiến được Nhứt Tâm để thể nhập được Phật Tánh và để trở thành
một vị hoàn toàn giải thoát như đức Phật. Trước hết muốn thông
suốt ý nghĩa và giá trị của sự Lễ Bái, chúng ta cần phải hiểu qua
thế nào là Lễ Bái.
A.- ĐỊNH NGHĨA:
a. Lễ: là những quy
tắc nhứt định của cung cách qua sự đi, đứng, nói năng trong những
Quan Hôn Tang Tế nhằm thể hiện sù Tôn Kính.
b. Bái: nghĩa là quỳ
lạy bằng cách hạ mình xuống đất tưrớc những bậc Hiền Đức mà mình
Tôn Kính.
c. Lễ Bái: tiếng Phạn
là Vandana, Tàu dịch âm là Ban Đàm, còn gọi là Hòa Nam, hoặc gọi
là Na Mô Tất Yết La, nghĩa là lễ nghi cung cách với hình thức cúi
đầu quỳ lạy trước những bậc Tiền Nhân Thánh Đức mà mình đã đặt
trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Bồ Tát,
chư Hiền Thánh Tăng, như lạy Cha Mẹ, Thầy Tổ v.v... Chúng ta
quỳ lạy các vị đó nhằm biểu lộ đức tánh khiêm tốn và để tỏ lòng
tri ân, báo ân mà bổn phận kẻ dưới hằng tạc dạ ghi tâm, ân tiên
công đức. Ngoài ý nghĩa thông thường trên, theo Phật Giáo, sự Lễ
Bái còn tiêu biểu nhiều ý nghĩa khác nữa, như tiêu biểu: “Chánh
Quán Lễ, Phát Trí Thanh Tịnh Lễ, Thật Tướng Bình Đẳng Lễ và
Biến Nhập Pháp Giới Lễ”. Ý nghĩa của những phương cách Lễ
Bái này sẽ đề cập ở sau.
B.- NGHI CÁCH VÀ Ý NGHĨA LỄ
BÁI:
Muốn hiểu ý Nghĩa Lễ Bái, chúng ta
trước hết nên hiểu qua cách thức Lễ Bái theo mỗi Tôn Giáo cũng
như mỗi Tông Phái quy định. Tổng quát chúng ta nên hiểu cách
thức Lễ Bái của những Tôn Giáo và của những Tông Phái hên hệ rất
gần đối với chúng ta. Giờ đây chúng ta nên hiểu cách thức Lễ Bái của
Khổng Giáo và Phật Giáo chủ trương:
C.- QUAN NIỆM LÊ BÁI:
Mỗi Tôn Giáo Lễ Bái mỗi cách và
mang mỗi ý nghĩa khác nhau, theo sự quy định của các Giáo Chủ làm
cách nào tổ bày được tâm thành của Tín Đồ đối với những bậc
Thánh Đức mà họ quy ngưỡng.
Theo Truyền Thống Việt Nam, dân tộc ta
phần đông chịu ảnh hưởng sâu đậm Văn Hóa của Khổng Giáo và Phật
Giáo, là hai Tôn Giáo có công rất lớn qua quá trình lịch sử xây
dựng đất nước. Mỗi người dân đều chịu ảnh hởng không ít cách
Lễ Bái của hai Tôn Giáo này. Thời xa Vua Chúa đã quy định rõ
ràng, mỗi người dân, khi Lễ Bái Vua, Quan, Hiền Thần, Đình Miếu thì
phải áp dụng theo cung cách của Khổng Giáo và khi Lễ Bái Phật Trời,
Hiền Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà v.v... thì phải áp dụng theo cung
cách của Phật Giáo.
Về sau người dân bị thất truyền,
không được ai chú dạy ý nghĩa và cách thức Lễ Bái cho đúng
pháp. Thành thử họ chỉ biết Lễ Bái theo thói quen, hành động
không đúng nghĩa và cũng không đúng chỗ. Chúng ta muốn rõ Nghi Lễ của
Khổng Giáo thì nên đọc “Văn Công Thọ Mai Gia Lễ" và muốn
biết Nghi Lễ của Phật Giáo thì nên am tường “Nhân Thừa Phật
Học”. Cả hai rất quan hệ cho cuộc sống làm người. Sự Lễ Bái
mà người Việt Nam thường áp dụng, như trên đã trình bày, đều
theo Nghi Cách của Khổng Giáo và của Phật Giáo. Nghi Cách Lễ Bái
khác biệt giữa Khổng Giáo và Phật Giáo được giải thích dưới đây:
1. THEO QUAN NIỆM KHỔNG GIÁO:
Cách lạy của Khổng Giáo, trước hết con
người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái UY của kẻ sĩ. Hai tay
Cung Thủ, nghĩa là hai tay nắm lại nhau là tiêu
biểu cho cái Dũng của Thánh Nhân. Trước khi lạy,
hai tay Cung Thủ đa lên trán, kế đưa sang phía
phải, rồi đưa sang phía trái là tiêu biểu cho Tam Tài (Trời,
Đất và Người). Khi lạy, hai tay Cung Thủ chống lên đầu gối chân
mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự Tôn Kính
mà không mất tư thế cái Uy Dũng của kẻ sĩ Cúi đầu xuống đất là
tiêu biểu cho sự Cung Kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là Cung
Cách và Ý Nghĩa tổng quát mà Khổng Giáo quan niệm.
2. THEO QUAN NIỆM PHẬT GIÁO:
Sự Lễ Bái của Phật Giáo so với sự Lễ Bái của Khổng Giáo có phần
khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa. Riêng về Phật Giáo, ý
nghĩa và giá trị Lễ Bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến.
Theo Phật Giáo quan niệm, sự lễ bái cũng là một trong những phương
pháp tu tập để diệt phiền não mà bổn phận người con Phật phải hành
trì thường xuyên trong hằng ngày để được giải thoát tất cả
nghiệp chướng khổ đau sanh tử và sớm chứng quả Bồ Đề Niết Bàn
Tịch Tịnh. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện quyển 4 ghi rằng: "Phật
chỉ dạy các Đệ Tử phải Lễ Bái Tam Bảo và Lễ Bái các bậc Đại Tỳ
Kheo”. Kinh Phạm Võng quyển hạ giải thích rằng: “Nếu có
bậc Hoà Thượng, Thượng Tọa, A Xà Lê, hoặc người bạn đồng học,
người đồng kiến giải người đồng hành đều phải nghinh tiếp Lễ
Bái và vấn an". Luật Ngũ Phần quyển 7 ghi rằng: “Một vị Tỳ Kheo
Ni một trăm tuổi, đã thọ giới Cụ Túc từ lâu cũng phải Lễ Bái một
vị Tỳ Kheo Tăng mới thọ giới Cụ Túc”. Đại Đường Tây Vực Ký
quyển 2 ghi rằng: “Ấn Độ có chín cách Lễ Bái được gọi là
Tây Trúc Cửu Nghi”. Chín cách lễ bái nói trên được ghi nhận
như sau;
1. Phát Ngôn Úy Vấn Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách mở lời vấn an.
2 . Phủ Thủ Thi Kính Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách cúi đầu tôn kính.
3. Cử Thủ Cao Ấp Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách dơ tay cao vái chào.
4. Hiệp Chưởng Bình Cung Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách chấp tay ngang bằng vái chào.
5. Khuất Tất Lễ: nghĩa
là Lễ Bái bằng cách quỳ gối.
6. Trường Quy Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách quỳ nầm dài ra.
7. Thủ Tất Cứ Địa Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bằng cách hai tay và hai đầu gối quỳ sát đất.
8. Ngũ Luân Cu Khuất Lễ:
nghĩa là Lễ bái bằng cách năm vóc đều cúi xuống.
9. Ngũ Thể Đầu Địa Lễ:
nghĩa là Lễ Bái bầng cách năm vóc gieo xuống đất.
Ngoài ra người ấn Độ còn có nhiều cách
Lễ Bái khác nhau. Theo phong tục mỗi nơi, người Tín Đồ Lễ Bái
trước Tượng Phật hoặc trước Bảo Tháp có hơi khác về cung
cách. Sự khác biệt về cung cách Lễ Bái được nêu cử như sau:
1. Tồn Cứ Lễ: nghĩa là
Lễ Bái bằng cách đứng một chân quỳ lạy.
2. Khởi Cư Lễ: nghĩa
là dùng nghi thức bước một bước Lễ một lạy.
3. Hữu Nhiễu Tam Thất Lễ:
nghĩa là Lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của
Phật hoặc của Bảo Tháp.
4. Tạ Lễ: nghĩa là Lễ
Bái bằng cách ngồi xuống đất cúi đầu lạy, tức là lạy bằng cách
ngồi v.v...
Phật Giáo Việt Nam hầu hết đều áp dụng
phơng pháp “Ngũ Thể Đầu Địa Lễ” trong khi lễ bái. Đây
là một phương pháp tiêu biểu ý chí Tôn Kính cao đẹp nhất trong
các cung cách Lễ Bái. Khi Lễ Bái, người Phật Tử đầu tiên phải
đứng ngay thẳng trước Tượng Phật cho nghiêm trang và khép hai chân sát
vào nhau để lấy lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiềm thúc
Tâm ý không cho chao động vọng tưởng. Ngay lúc đó, đôi mắt họ
nhìn lên Tượng Phật và Tâm họ quán tưởng các tướng tốt, quán
niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật để tỏ bày nguyện vọng
chân chánh của mình hầu mong Ngài chứng minh. Hai tay họ thay vì
Cung Thủ (nắm lại nhau) mà ở đây phải HIỆP CHƯỞNG, nghĩa là hai
tay chắp lại nhau cho khít là tiêu biểu Thức Tâm hiệp nhứt (Nhất
Tâm) và để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm. Khi lạy Phật,
có người để hai tay nơi ngực lạy xuống, nhưng có người đưa
hai tay lên trán rồi mới lạy xuống, cách nào cũng có ý nghĩa của
nó. Cách lạy để hai tay nơi ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn Tâm như
đã giải thích ở trên. Còn cách lạy đa hai tay lên trán là tiêu
biểu ý nghĩa tâm nguyện của mình dung thông đến chư Phật qua
nhục đỉnh kế (qua Mỏ Ác, hay qua Đỉnh Đầu) và lạy theo nguyên tắc
“Ngũ Thể Đầu Địa”, nghĩa là đầu, hai tay, hai đầu gối
của người Lễ Bái phải đặt sát đất và họ lạy xuống với tư thế
ngồi để khỏi thất lễ nơi người đứng sau. Tiếp theo họ chỏi tay phải lên
mặt đất rồi quỳ hai đầu gối và ngửa hai bàn tay ra giống như
đóa sen nở. Họ quán tưởng đức Phật hiện đang đứng trên đóa sen
kết thành bởi hai bàn tay của họ và họ đặt trán mình vào lòng hai
bàn tay như đặt đầu mình lên chân của Phật, đồng thời họ nằm
mọp xuống đất để biểu hiện sự Tôn Kính với tâm thành quy ngưỡng
nương tựa. Cách Lễ Bái này là tiêu biểu cho ý nghĩa “Đầu
diện tiếp túc quy mạng lễ” (nghĩa là đầu và mặt của mình để
lên chân của Phật gọi là Quy Mạng Lễ).
Phật Giáo cho rằng, người Phật Tử ngoài
sự Lễ Bái để tỏ lòng Tôn Kính các đức Phật, các vị Bồ Tát, các
Hiền Thánh Tăng, còn phải tưởng niệm những ân đức cao dày của
các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài tiến tu đạo
nghiệp để được trở thành đức Phật như quý Ngài. Người Phật Tử
thật hành hạnh nguyện như trên được gọi là quy mạng lễ.
Nhân Thừa Phật Giáo có chia làm bảy cách
lạy, trong đó có ba cách lạy của Thế Gian thường áp dụng và bốn
cách lạy của Thánh Giáo thường hành trì về mặt sự (về mặt hình
thức) cũng như về mặt lý (về mặt nội dung). Để cho Phật Tử nhận
thức dễ dàng và chọn lựa tu tập cho đúng pháp, bảy cách lạy được
phân tích như sau:
D. VỀ CÁCH LẠY CỦA THẾ GIAN:
Trong Thế Gian về mặt sự tướng, tức là
về mặt hình thức, có ba cách lạy phổ thông mà người đời thường
áp dụng. Trong ba cách lạy nói trên, có hai cách lạy mà người
Phật Tử chân chánh cần phải để ý và tuyệt đối không nên áp dụng.
Hai cách lạy đó là Ngã Mạn Lễ và Cầu Danh Lễ. Hai cách lạy này
chính là những tật xấu không thể có nơi con người thánh thiện. Bảy
cách lạy nói trên dựa theo tinh thần Kinh Pháp Uyển Châu Lâm, quyển
20 được trình bày như sau:
1. Ngã Mạn Lễ: nghĩa
là người lạy Phật hoặc lạy Ông, lạy Bà, lạy Tổ Tiên, vì hoàn
cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn
lạy, do dó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không có
chút nào lễ độ cung kính cả. Đầu họ lạy xuống không sát đất và họ
đứng lên cúi xuống một cách cẩu thả cho qua việc. Họ vì sợ mất
thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần áo quý giá của mình, nên
buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã Mạn. Họ sợ bạn bè chê trách
mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất tín, bất trung, cũng như họ
quý trọng quần áo và bạn bè hơn chư Phật, Ông Bà Tổ Tiên. Cách
lạy đó gọi là Ngã Mạn Lễ.
2. Cầu Danh Lễ: nghĩa
là người lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và
ngợi khen của cấp trên cũng như lấy lòng quần chúng ủng hộ. Khi
có cấp trên cũng như khi có quần chúng, họ siêng năng lễ lạy để
cho mọi người thấy rằng mình có đạo đức, thượng cấp nên nâng đỡ và quần
chúng nên ủng hộ. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín
thành cả và ngược lại, một khi không có ai, họ lại biếng nhác
giải đãi trong việc lễ lạy. Như vậy họ lễ lạy vì mọi người chứ
thật ra không phải lễ lạy cho chính họ. Cách lạy này gọi là Cầu
Danh Lễ.
Hai cách lễ lạy vừa trình bày là
hành động dối trá không thể có nơi người Đạo Đức chân chánh. Đức
Phật sở dĩ nêu lên trong kinh điển nhằm mục đích chỉ dạy cho
người con Phật sau này phải ngăn ngừa và người con Hiếu Hạnh
phải tránh xa.
3. Thân Tâm Cung Kính Lễ:
nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính.
Thân và Tâm người lễ lạy đều cung kính thì sự Lễ Bái mới có giá
trị. Nói một cách khác, người lễ lạy phải chí thành cả Thân và
Tâm, nghĩa là họ phải có đức tin trong sự lễ lạy thì sự cảm ứng rất dễ
dàng với chư Phật, với các Thánh Hiền, với Ông Bà, Tổ Tiên.
Ngược lại, Tâm người lễ lạy nếu như thiếu cung kính thì thân
họ sẽ hiện ra phong cách thiếu lễ độ dễ nhìn thấy (Hữu ư trung
xuất hình ư ngoại, nghĩa là Tâm ở trong như thế nào thì tướng
hiện ra như thế đó). Người lễ lạy muốn cho Thân và Tâm đều cung
kính thì phải theo cách lạy của Phật Giáo mà ở trên đã giải
thích và phải lạy thường xuyên để cho cung cách được thuần
thục. Người lễ lạy đã thuần thục thì mới có khả năng nhiếp phục Tâm
loạn động của mình. Thân Tâm Cung Kính Lễ là cách lạy cơ bản của
Phật Giáo về mặt sự tướng, tức là về mặt hình thức mà người
xuất gia cũng như kẻ tại gia phải hành trì cho nghiêm túc. Nhờ
đó họ sau này mới đủ khả năng bước vào lãnh vực Thánh Giáo Lễ
của các bậc Thánh Chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở ngại.
E. VỀ CÁCH LẠY CỦA THÁNH GIÁO:
Cách lạy của Thánh Giáo là cách
lạy thuộc về lý lễ của các bậc Đại Thừa Bồ Tát thường tu tập. Những
cách lạy này nhằm mục đích thể nhập Pháp Giới Tánh của chư Phật,
tức là thế giới thuộc về Pháp Tánh của chư Phật an trụ và thấy
thẳng được Phật Thân, tức là thấy được Pháp Thân thanh tịnh của
ch Phật. Bốn cách lễ lạy của Thánh Giáo xin liệt kê như sau:
1. Chánh Quán Lễ: Chánh
Quán nghĩa là quán chiếu Pháp Thân chân chánh của chư Phật hiện ra
trước mặt, tức là Bồ Tát tu tập bằng cách vận dụng Thiền Quán chiếu
soi Phật Thân ảnh hiện ra trước mặt để lễ lạy. Người thực hiện
được cách hành lễ này phải là người đạt đến mức độ cao thâm
trong phương pháp Thiền Quán. Phương pháp tu Thiền chia ra làm
hai phần: CHỈ và QUÁN. Phần CHỈ tức là phần chận đứng các duyên
bên ngoài lôi cuốn để được nhứt Tâm và nhờ đó dễ đi vào chánh
niệm. Tâm một khi chuyên nhất và chánh niệm thì Trí Tuệ sẽ được
phát sanh, thường gọi là Tâm Định.
Còn về phần QUÁN, người tu Thiền
sau khi Huệ đã phát sanh liền sử dụng Huệ quán chiếu Phật Thân (tức
là Pháp Thân thanh tịnh của chư Phật) và Phật Cảnh (tức là Pháp
Giới của chư Phật an trụ) khiến cho tất cả đều hiện bày ra
trước mặt để lễ lạy. Muốn áp dụng phương pháp CHỈ để khiến Trí
Tuệ phát sanh, người tu Thiền phải thực hành ba phương pháp:
Điều Thân, Điều Tức và Điều Tâm cho thuần thục. Điều Thân, Điều
Tức và Điều Tâm đã thuần thục một cách tự tại thì ngay lúc đó Trí
Tuệ liền phát sanh. Một khi Trí Tuệ đã được phát sanh, ngời tu
tập Thiền Quán mới có thể bước sang giai đoạn hai là sử dụng Trí
Tuệ để quán chiếu Phật Thân và Phật Cảnh. Đây là liệt kê tổng quát về
phương pháp Thiền Quán.
2. Phát Trí Thanh Tịnh
Lễ: nghĩa là người thật hành Thiền Định phải tu tập Thiền Quán
cho đến khi nào Trí Tuệ thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm mà
không phải Trí Tuệ phát sanh từ nơi Thức Tâm. Trí Tuệ thanh tịnh
phát sanh từ nơi Chân Tâm tức là Phật Trí trong bản Tâm thanh
tịnh của mình đảnh lễ Pháp Thân chư Phật trong mười pháp Giới.
Trí Tuệ phát sanh từ nơi Tâm Thức thuộc về Phàm Trí. Còn Trí Tuệ
thanh tịnh phát sanh từ nơi Chân Tâm thuộc về Thánh Trí. Phàm Trí
còn bị lệ thuộc cũng như bị giới hạn bởi Căn và Trần. Trái lại
Thánh Trí đã thoát ra ngoài vòng cương tỏa cả hai. Người tu tập
Thiền Quán phải thấu triệt rằng: Pháp Thân chư Phật trong mười Pháp
Giới đều phát sanh từ nơi Bản Tâm thanh tịnh (tức là Pháp Thân
thanh tịnh của chư Phật hiện bày từ nơi Chân Tâm) và Trí Tuệ
thanh tịnh của mình cũng phát sanh từ nơi Bản Tâm Thanh tịnh
chung của mười Pháp Giới. Lý do đó, người lễ bái lạy một đức
Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mời phương không ngăn
ngại.
3. Thật Tướng Bình Đẳng
Lễ: nghĩa là cách lễ lạy này, người tu Thiền phải dùng Trí Tuệ
quán chiếu thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình
đẳng không sai biệt, không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ
bái không thấy có mình lạy và người để cho mình lạy. Nói một
cách khác, người thật hành Thật Tướng Bình Đẳng Lễ là dùng Trí
Tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng: mình và
người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai
(đều là nhứt như). Ngài Văn Thù Bồ Tát nói: “Năng lễ Sở lễ
tánh không tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể
tánh của người để cho mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
4. Biến Nhập pháp Giới
Lễ: nghĩa là người tu Thiền phải tận dụng Trí Tuệ Bát Nhã
thanh tịnh của mình quán chiếu Thân và Tâm nơi chính minh biến
nhập vào Pháp Giới Tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống
như Bác Sĩ sử dụng năng lượng Quang Tuyến X (X-ray) rất lớn
chiếu soi vào thân thể con người và năng lượng Quang Tuyến X
thấu suốt xuyên qua thân thể con người không chút ngăn ngại. Đó
mới chính là lễ lạy thật sự theo phương pháp Biến Nhập pháp Giới
Lễ. Pháp Giới Tánh tức là Thể Tánh của vạn pháp biến giáp khắp
thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp Giới Tánh là nơi mà chư Phật
thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh. Người thực hiện
được pháp quán chiếu này một cách tự tại thì người đó mới thật
sự hành lễ đúng pháp chân thật.
Qua những phương cách Lễ Bái đã
được trình bày ở trên, Thân Tâm Cung Kính Lễ chính là pháp môn
quan trọng là điều kiện tất yếu của người hiếu nghĩa tín tâm để tỏ bày
lòng tri ân và báo ân. Cách lễ lạy này cũng là phương tiện cần
thiết dùng làm gạch nối giữa chư Phật và tâm linh con người qua
sự nguyện cầu gia hộ. Phương pháp lễ lạy này lại còn là nền
tảng căn bản cho Phật Tử trên con đường tiến tu đạo nghiệp để
được chứng ngộ qua bốn cách lễ bái của Thánh Giáo. Vậy ngời
Phật Tử phải nên cố gắng hành trì cho đúng pháp.
G. LỢI ÍCH CỦA SỰ LỄ BÁI:
Như trước đã trình bày, Lễ Bái
ngoài ý nghĩa tỏ lòng Tôn Kính và tưởng niệm ân đức sâu dày của
các bậc Tiền Nhân Thánh-Đức của Tổ Tiên dòng họ, còn là phương pháp tu
tập nhằm diệt phiền não, loại bỏ tánh cống cao ngã mạn của mỗi
con người nhằm mục đích quy hướng Chánh Giác để được giải
thoát và giác ngộ như đức Phật. Đặc tánh Cống Cao Ngã Mạn đã sẵn
có nơi mỗi con ngời. Nó châm rễ ăn sâu trong Tâm Thức con
người từ vô lượng kiếp về trước. Nó gây nên nguyên nhân đau
khổ sanh tử lưu chuyển trong ba cõi. Con dao bén Cống Cao Ngã
Mạn chặt đứt tình thương, phá hoại tình đoàn kết và gây nên nhiều
hận thù chia rẽ.
Quyển “Phật và Thánh Chúng”
của Cao Hữu Đính, trang 110, Mục 18 về bi vận của thành Ca Tỳ
La, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản ghi lại câu chuyện tại họa do tánh
Cống Cao Ngã Mạn gây nên trong lịch sử ấn Độ như sau:
Nguyên từ trước khi vua Ba Tư
Nặc chưa quy y Phật, nhà vua đã cho sứ giả qua Ca Tỳ La cầu hôn
với giòng họ Thích Ca. Các Thân Vương của giòng họ nầy tự cao tự đại
cho rằng giòng họ mình là cao quý nhất đời không nên hạ mình kết
hôn với vua nước Kiều Tát La. Tuy nói huynh hoang như thế,
nhng họ lại sợ uy thế của vua Ba Tư Nặc, vì Kiều Tát La bấy giờ
là một cường quốc như Ma Kiệt Đà trong vùng châu thổ sông
Hằng. Do đó, giòng họ Thích Ca mới dùng một Nữ Tỳ nô lệ hầu hạ
trong cung tên là Mạt Lỵ (Malika), tráo thành Vương Nữ đem gả
cho Ba Tư Nặc. Mạt Lỵ tuy là gái nô lệ, nhưng tư chất rất thông
minh mà dáng mạo lại cực kỳ xinh đẹp, nên được vua Ba Tư Nặc sủng
ái, phong làm Đệ Nhất Phu Nhân.
Mạt Lỵ phu nhân sanh con đầu lòng
là Tỳ Lưu Ly (Virùdhaka) về sau mệnh danh là ác Sanh Vương. Năm
Tỳ Lưu Ly lên tám, vua cha cho sang quê ngoại để luyện tập bắn cung,
vì Ca Tỳ La vốn nổi tiếng về môn xạ thuật.
Bấy giờ, trong thành Ca Tỳ La mới
kiến thiết xong một đại giảng đường nguy nga dành để đón tiếp Phật
mỗi khi Phật về thuyết pháp. Giòng họ Thích Ca cho đây là một chốn
thiêng liêng, cấm không cho kẻ ty tiện bước vào. Không dè Tỳ
Lưu Ly nhân thả bộ rong chơi trong cung, lạc vào chơi cấm địa
ấy, bị các Thân Vương bắt gặp, xỉ mạ không tiếc lời, bảo rằng
con của gái nô lệ Mạt Lỵ đã làm ô uế Thánh Địa. Họ đuổi Tỳ Lưu
Ly ra và lập tức truyền lệnh cho gia nhân cấp tốc đến bới đất cũ
trong giảng đường lên rồi chở đất mới về thay thế.
Tỳ Lưu Ly nộ khí xung thiên, bèn
phát lời thề độc rằng: “Khi nào lên ngôi vua, ta thề quyết
tiêu diệt sạch giòng họ Thích Ca mới hả giận”.
Về sau, khi trở về Xá Vệ, Tỳ Lưu
Ly ngày đêm mưu tính việc rửa hận. Một hôm, nhân vua Ba Tư Nặc
cùng Mạt Lỵ xuất thành tuần thú, Tỳ ưLu Ly cùng nghịch thần Ca Lê Da
Na tập hợp quân đội lại, chặt đầu thị vệ của vua cha, đoạt lấy
vương miện và bảo kiếm. Nghe tin, Ba Tư Nặc hết sức kinh hoàng.
Mạt Lỵ khuyên nhà vua nên tạm lánh nạn qua lưu vong bên Ca Tỳ
La, chờ dịp khôi phục. Nhưng không bao lâu sau, ông chết tại bên
ấy thọ 80 tuổi.
Tỳ Lưu Ly nghe tin vua cha băng
hà, hạ lệnh cô lập thái tử Kỳ Đà, rồi tự tuyên bố thừa kế vương
vị. Bi vận Ca Tỳ La bắt đầu.
Một hôm, nhân đại triều, Tỳ Lưu
Ly truyền hỏi bá quan rằng:
Nếu có kẻ sỉ nhục Đấng Quốc
Vương tôn quý của mình, khinh thị Đấng Quốc Vương ấy là con giòng
hạ tiện, tội ấy các khanh nghĩ nên xử trị như thế nào?
Muôn miệng đáp trọng tội ấy đáng
tru di.
Giòng họ Thích Ca tự cao tự đại,
Tỳ Lưu Ly nói tiếp. Họ cho rằng ta là con của một gái nô lệ, vậy
nay phải hung binh tru diệt họ.
Ba lần xuất quân, ba lần Tỳ Lưu
Ly gặp Phật cản đường tìm cách ngăn trở. Nhưng đến lần thứ tư,
biết rằng không ngăn đón được nữa vì nghiệp nhân quá khứ của giòng họ
Thích Ca quá nặng. Phật xót xa báo trước cho A Nan hay ráng
trong 7 ngày nữa thì giòng họ Thích Ca sẽ tuyệt diệt. Tự mình tạo
nghiệp dữ, không cách gì cứu gỡ nỗi...
Tỳ Lưu Ly tiếp tục công hãm
thành rất gấp và cuối cùng hạ được. Sau khi vào thành, y hạ lệnh bắt
lính giữ thành gồm 500 người đem giết hết. Còn nhân dân trong
thành ước chừng 3 vạn người kể cả già trẻ lớn bé, y bắt chôn
chân xuống đất để cho voi dữ chạy qua mà chà nát. Ma Ha Na Ma
nghe tin này lấy làm kinh hoàng đau xót, bèn xin với Tỳ Lưu Ly
cho ông và nhân dân được chết toàn thây. Tỳ Lưu Ly mới cho đổi
lệnh giết bằng voi chà ra lệnh giết bằng trầm nịch. Thế là cả
thành bị lùa xuống sông cho chết đuối. Tỳ Lưu Ly lại hạ lệnh vớt
xác Ma Ha Na Ma lên, bắt chặt đầu treo lên gốc cây.
Sau khi tiêu diệt giòng họ Thích
Ca và sát nhập Ca Tỳ La vào lãnh thổ Kiều Tát La, Tỳ Lưu Ly cho thi
hành một chính sách vô cùng bạo ngược và giết luôn anh là Thái Tử
Kỳ Đà. Vì vậy đời mới gọi ông là Ác Sanh Vương. Không lâu sau,
cung thành Xá Vệ bị một trận hỏa hoạn khủng khiếp, Tỳ Lưu Ly và
tất cả vợ con dâu bị chết cháy trong trận hỏa hoạn nầy.
Nước Kiều Tát La dần dần suy
yếu, khiến A Xà Thế sau khi quy y Phật cất quân sang đánh, chiếm được
Kiều Tát La, rồi sát nhập Kiều Tát La và Ca Tỳ La vào bản đồ nước
Ma Kiệt Đà.
Lịch sử ấn Độ ghi lại câu chuyện
trên cho chúng ta thấy rằng tai họa khủng khiếp do nghiệp Cống Cao
Ngã Mạn gây nên. Nghiệp Cống Cao Ngã Mạn có thể diệt vong cả một quốc
gia, cả một chủng tộc. Một chủng tộc cao quý nhất là chủng tộc
Sakya, chủng tộc sanh ra một vị Giáo Chủ tôn vinh nhất đương
thời chính là Đức Phật Thích-ca cũng không thoát khỏi thảm họa
diệt vong đó. Cống Cao Ngã Mạn là danh từ khác của tự cao tự đại,
nghĩa là đặc tánh của một loại Nghiệp thích tự cho mình trên
hết, cho giòng họ mình, chủng tộc mình là cao cả và lại khinh khi
kẻ khác, ghép họ vào hạng thấp hèn. Nhà Duy Thức phân chia tánh Cống
Cao Ngã Mạn thành hai trạng thái Tâm Lý khác nhau. Tánh Cống Cao
với một danh từ là Kiêu. Tánh Ngã Mạn với một danh từ là Mạn.
Theo nhà Duy Thức, tánh Cống Cao là loại tâm lý tự cao có thể hóa
giải dễ dàng một khi con người giác ngộ được sự tai họa của
nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc về Tâm Sở Kiêu. Tâm Sở
Kiêu là một trong mười Tiểu Tùy Phiền Não. Còn tánh Ngã Mạn là
loại tâm lý tự đại khó có thể hóa giải, mặc dù con người đã giác
ngộ được sự tai họa của nó. Cho nên nhà Duy Thức ghép nó thuộc
về Tâm Sở Mạn. Tâm Sở Mạn là một trong sáu Căn Bản Phiền Não. Đặc
tánh của Tâm Sở Kiêu và Tâm Sở Mạn được quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học
cùng một Tác giả do Ban Văn Hóa Xã Hội chùa Phật Tổ Ấn Hành,
trang 88-99 trình bày như sau:
1. Tâm Sở Kiêu: là
kiêu căng ngạo mạn. Trạng thái Tâm Lý này thường xuất hiện mỗi khi
thấy mình giàu sang, thấy mình có quyền tước, có tài năng, có
sắc đẹp v.v... vợt trội hơn người khác. Những kẻ có bệnh Kiêu
thích hành động kiêu cách, ngạo nghễ và nhìn mọi ngời dưới cặp
mắt thấp hèn. Tất cả có sáu loại Kiêu được phân định như sau:
a. Không bệnh tật kiêu.
b. Trẻ tuổi hơn ngời kiêu.
c. Sắc đẹp kiêu.
d. Quý phái kiêu.
e. Giàu sang kiêu.
f. Học nhiều, biết nhiều kiêu.
Đặc tánh của Tâm Sở Kiêu thường
thúc đẩy con người khinh khi kẻ khác, tự đề cao mình lên và cho
mình là nhân vật quan trọng hơn cả. Đối xử với quần chúng, người kiêu
cách hành động thiếu sự nhún nhường và thiếu sự khiêm cung lễ độ.
Tâm Sở này chính là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi. Tâm Sở này
cũng làm chướng ngại và ngăn cản không cho tâm lý Không Kiêu
Căng phát sanh.
Thí dụ: Ông A và ông B
trước kia là bạn chí thân ở cùng quê. Lúc còn nhỏ, ông A nghèo hơn
ông B và đến tá túc nhà của ông B tại Linh thành để đi học. Gia đình
ông B đối xử với ông A rất đẹp. Đến khi tốt nghiệp, ông A khéo
nịnh hót nên được cấp trên cân nhắc lên Sài Gòn làm quan to có
nhà lầu, có xe hơi, có cổng kín tường cao. Một hôm ông B nhơn
dịp lên Sài Gòn chơi, nghĩ đến tình xa bạn cũ, nên ghé thăm ông
A. Ông A đã không tiếp và lại còn bảo người ở ra trả lời rằng, “Quan
lớn không có quen biết với kẻ ăn xin, đừng thấy sang bắt quàng
làm họ. Ông nên về đi”. Đây là giọng nói của kẻ kiêu cách,
của kẻ thiếu lịch sự khiêm cung.
2. Tâm Sở Mạn: là
khinh mạn, ngạo mạn. Trạng thái tâm lý này thích biểu lộ tánh khinh
khi và tỏ bày cử chỉ hống hách với mọi người chung quanh. Con
ngời khinh mạn thường đề cao cá nhân mình trên hết và cho mọi
ngời chung quanh đều là hạng thấp hèn. Họ ỷ có tài đôi chút hoặc
cậy thế lực hơn người nên xem ai không ra chi. Những thái độ
của người khinh mạn thường thể hiện trong những trường hợp
như:. có khi hành động bộc lộ ra ngoài và cũng có lúc dấu kín cử
chỉ ngấm ngầm bên trong thân tâm. Về phía cử chỉ dấu kín ngấm
ngầm bên trong thân tâm của người khinh mạn, chúng ta chỉ để ý đến thì
mới nhận biết được sự ngạo mạn của họ qua cách đối xử. Tâm Sở
này được phân làm sáu loại như sau:
a. Mạn: nghĩa là
người có đôi chút tài năng hoặc có quyền thế nào đó liền tự hào, hãnh
diện, lên mặt hiu hiu tự đắc với mọi người chung quanh, chỉ
thấy mình trên hết, xem mình quan trọng hơn cả và coi ai không ra
chi. Người khinh mạn thờng biểu lộ cử chỉ cao ngạo hống hách
và bắt buộc mọi người chung quanh phải quan tâm đến mình. Còn
đối với những kẻ tài năng và quyền thế ngang hàng mình, người
khinh mạn hay ỷ lại, tự phụ và xem mình có vai vế tương đương
với họ, cho nên trước công chúng, người kinh mạn giao tiếp với
họ thiếu phong cách và thiếu lễ dộ.
Thí dụ 1: Ông thầy T.Q.
có đôi chút tài năng được tiếng là người du học ngoại quốc lại là
người đương kim một chức vụ nào đó trong Giáo Hội, rồi lên mặt cao
ngạo nhìn mọi người không ra chi. Nhưng thật ra, có tiếng mà
không có miếng, nghĩa là ông không có khả năng tương xứng với
địa vị đương kim mặc dù họ là người du học.
Thí dụ 2: Ông T và ông H
là hai người bạn thân với nhau và tài năn của hai người đều
tương đơng nhau. Ông T thì may mắn hơn được phong chức là Giám
Đốc của một Xí Nghiệp P.B. Một hôm, ông H vì muốn thăm ông T, nên
từ Cần Thơ cồn cả lên thành phố Sài Gòn. Ông T đã không tiếp và
lại còn sai nhân viên ra tiếp. Trong khi tiếp chuyện, người nhân
viên tỏ thái độ bất cần trước mặt ông H. Ông H bất mãn ra về.
b. Quá mạn: nghĩa
là đối với những người có tài năng và địa vị ngang hàng mình, người
Quá Mạn thường lên mặt kiêu cách, tự cho mình hơn họ. Còn đối
với những người có tài năng và dịa vị hơn mình, người Quá Mạn
lại lên mặt khoe khoang tự cho rằng mình bằng họ.
Thí dụ 1: Cùng một địa
vị ngang nhau, trớc mặt công chúng, anh X có bệnh Quá Mạn
thích ra mặt thầy đời, tỏ ra mình là người lãnh đạo, tự cho mình là
kẻ chỉ huy, đi cắt đặt người này, sai bảo người kia và bắt mọi
ngời phải theo sự điều khiển của mình mà thật ra anh X không có
nhiệm vụ chi cả.
Thí dụ 2: Thấy người
khác có địa vị cao sang hơn mình, người có bệnh Quá Mạn thích khoe
khoang, ưa khoác lác với mọi người rằng; Tài năng ông đó dâu có hơn
tôi ông ấy nhờ gặp thời nên mới được địa vị như thế. Tôi nếu
như ra lãnh đạo thì đâu có thua ông ấy.
c. Mạn Quá Mạn: nghĩa
là tranh lấy phần hơn. Theo nguyên tắc, người ta thật sự đã hơn
mình về khả năng cũng như đức độ Thế mà mình lại ra mặt tranh lấy phần
hơn với họ và quả quyết rằng mình nhất định không thua họ. Ai
khuyên can mình cũng không chịu nghe.
Thí du: Anh A và anh B
tranh tài với nhau. Kết cuộc Ban Giám Khảo chấm anh A thua
anh B. Nhưng anh A không chịu thua. Anh viện đủ lý do phản đối cho
rằng, Ban Giám Khảo bất công, thiên vị. Anh cương quyết đấu
tranh đòi hỏi anh B phải thi lại. Lúc đó mọi người đều khuyên
can, nhưng anh cũng không nghe.
d. Ngã Mạn: nghĩa
là ỷ mình có đôi chút tài năng và quyền thế, người bệnh Ngã Mạn
thường đề cao cá nhân, tự cho mình là kẻ đáng quý hơn hết và mỗi
khi giao tiếp với bất cứ ai, họ thường ra mặt khinh khi và hành
động lấn áp những người chung quanh.
Thí dụ: Anh K là một nhà
chánh trị có tài năng và địa vị trong xã hội, đương kim là
một Nghị Sĩ trong Quốc Hội. Anh K thường hách dịch cao ngạo, tự
tôn vinh mình và tự cho mình là nhân vật quan trọng trong xã hội.
Anh ta nhìn mọi người dưới cặp mắt thấp hèn và cho họ không
xứng đáng để anh ta làm quen. Người nào nếu như có tài năng
bằng anh ta hoặc vượt bực hơn anh ta thì người đó nhứt định bị
anh ta tìm mọi cách chèn ếp, lấn áp và đè đầu họ xuống không cho
ngước lên.
e. Tăng thượng Mạn: nghĩa
là những kẻ chưa chứng ngộ đến chỗ chân lý tuyệt đối chưa đạt
được chánh đạo mà lại đi quảng cáo, đi khoe khoang, lâm ra vẻ mình đã
chứng đắc để mờ mắt mọi người.
Thí dụ: Một vị tu pháp
môn nào đó có chuyên nghiệp dôi chút, rồi lập dị, làm tướng, khoe
khoang, dùng mọi kỷ thuật quảng cáo cho mọi người biết mình đã chứng
đắc, nhằm để mê hoặc chúng sanh. Đồng thời họ chê bai các pháp
khác của Phật đều sai lầm, chỉ có pháp của họ mới đúng chân lý
v.v...
g. Ty Liệt Mạn: nghĩa
là biết mình kém tài kém đức hơn người ta, nhưng vẫn khoe khoang
với mọi ngời rằng, mình có nhiều tài nhiều đức hơn họ và chuyên đi
khích bác người này, chê bai người nọ, cho tất cả không ai bằng
mình.
Thí dụ: Anh G thì học
lem nhem không có bằng cấp chi cả. Nhưng anh ta vẫn khoe khoang và
khoác lác với mọi ngời rằng, anh có chứng chỉ này, có bằng cấp nọ,
rồi anh mượn áo Cử Nhân, mượn áo Tiến Sĩ chụp hình để lòe đời.
Nhưng khi vào thực tế anh chẳng làm được trò chi, bởi lẽ anh
không có khả năng và trình độ chút nào cả.
Đặc tánh của Tâm Sở Mạn là nguyên
nhân để sanh ra các tội lỗi và ngăn chận không cho Tâm lý Khinh An
phát sanh.
Bao nhiêu bệnh Kiêu Mạn vừa trình
bày đã nói lên được sự nguy hiểm của chúng trong việc điều
khiển con người sinh hoạt ở mọi lãnh vực. Chúng tạo nên những nguyên
nhân Chấp Ngã và Chấp Pháp kiên cố. Người tu hành muốn diệt sự
chấp ngã và chấp pháp, trước tiên phải diệt những con bệnh Kiêu
Mạn. Nhưng muốn diệt con bệnh Kiêu Mạn, chúng ta hằng ngày phải
áp dụng phương pháp Lễ Bái một cách thuần thục. Lễ Bái là một
trong những phương pháp hữu hiệu nhất cho việc hóa giải con bệnh
Kiêu Mạn. Con người can đảm cúi đầu hạ mình trước kẻ khác chính
là người khiêm cung nhất. Con người đó đã diệt được tánh kiêu
mạn và họ không còn chấp ngã chấp pháp nữa. Theo quan niệm của Phật
Giáo, mình cúi đầu đảnh lễ trước kẻ khác không phải hành động mất
phẩm cách con người. Cử chỉ đó biểu lộ sự tương kính và tăng
thêm sự cảm thông đối với mọi người chung quanh. Con người sợ
mình không có tài năng, sợ mình không có căn bản đạo đức làm
người và đừng sợ rằmg, mình cúi đầu lễ bái kẻ khác sẽ mất thể
diện. Đức.Phật cho chúng ta biết: “Tất cả chúng sanh đều cồ
Phật Tánh”, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Tâm Phật. Tất
cả chúng sanh đã có Tâm Phật thì tất nhiên họ cũng có Thân Phật.
Tâm Phật trong Tâm chúng sanh thì Thân Phật cũng ở trong Thân phàm phu
của chúng sanh. Cho nên một vị Sa Môn đảnh lễ một vị Tỳ Kheo
không phải đảnh lễ tấm thân ô trược (tấm thân xác thịt nhơ nhớp
tanh hôi) của họ mà ở đây, vị Sa Môn phải quán tưởng rằng, đang
định lễ Thân Phật thanh tịnh trong con người của vị Tỳ Kheo đó.
Giá trị của sự Lễ Bái qua Tiểu Sử về vua A Dục (Asoka) được ghi
lại trong giai thoại như sau: Theo sử liệu, vua A Dục (Asoka) là
con của vua Tân Đầu Sa La (Bindusàra) thuộc Vương Triều Khổng
Tước (Vương Triều Maurya). Vua lên ngôi khoảng sau đức Phật nhập
diệt 218 năm. Vua phát tâm theo Phật Giáo khoảng sau đức Phật nhập
diệt 234 năm. Vua có công lớn nhất trong việc Kiết Tập Kinh Điển
Phật Giáo lần thứ III. Giai Thoại rằng, sau khi Quy Y theo Phật
Giáo, vua gặp vị Sa Môn nào và bất cứ ở đâu đều cúi đầu đảnh lễ
sát đất. Vị Cận Thần thấy vậy khuyên vua rằng:
- Bệ Hạ là một vị cao quý được
vạn dân tôn vinh và đầu của Bệ Hạ là biểu tượng cho các bậc Thánh
Đức. Bệ Hạ đừng đảnh lễ mấy Đạo Sĩ ăn xin hạ tiện làm mất thể diện của
Đức Vua.
Vua A Dục không trả lời và ra
lệnh vị Cận Thần đó đi bán đầu người, đồng thời sai vị Đại Thần khác
đi bán đầu heo. Chiều đến vua triệu hai vị vào cung báo cáo kết
quả. Trước hết vua hỏi vị Đại Thần bán đầu heo: Khanh bán đầu heo
như thế nào? Vị Đại Thần bán đầu heo thưa:
- Tâu Bệ Hạ, đầu heo không đủ bán
cho dân. Họ yêu cầu cung cấp thêm.
Tiếp theo vua hỏi vị Cận Thần bán
đầu người.
- Còn Khanh, Khanh bán đầu ngời
nh thế nào?
Vị Cận Thần bán đầu người lo sợ
tái mặt, cúi đầu cúm núm thưa:
- Muôn tâu Bệ Hạ, Hạ Thần bán đầu
người không được. Ai cũng đều chê không chịu mua.
Vua liền nói:
- Như vậy đầu của Trẫm đây cũng
không có giá trị bằng đầu heo?
Các quần Thần đều im lặng, ngẩn
người.
Vua nói tiếp:
- Các vị Sa Môn là những bậc tu
hạnh ly trần thoát tục, đáng cao quý. Trẫm đây cúi đầu đảnh lễ các
bậc đã thật hành những điều mà người đời không thể làm được để tỏ
lòng tôn kính họ. Tại sao các Khanh cản trở Trẫm. Từ đây về sau
ai cản trở không cho Trẫm đảnh lễ các vị Sa Môn sẽ bị chém đầu.
Câu tryện lịch sử ở trên nói lên ý
nghĩa và giá trị của sự lễ bái trong Phật Giáo mà vua A Dục đã
bày tỏ trước quần thần. Người đời thường chìm đắm trong bể ái dục khổ
đau một cách đam mê không chút gì giác ngộ. Những tiền của, danh
vọng, sắc dục, ăn uống, ngủ nghỉ v.v... trói buộc họ quá nặng
trong vòng lẫn quẩn và thúc đẩy họ tạo thêm nhiều tội ác của
nghiệp sanh tử luân hồi trong ba cõi. Họ biết đó là những điều
đau khổ trước mắt, nhưng họ vẫn sa ngã và hành động không chút
từ nan.
Thế mà, bậc Sa Môn là những
người đã cắt ái ly gia, thoát khỏi những sự ràng buộc của thế tình,
dứt bỏ ngoài thân năm điều ái dục, an nhiên tự tại trên con đường
giải thoát và giác ngộ. Họ đã thoát khỏi những điều mà thế nhân
không thoát khỏi và họ đã thật hành những hạnh thanh tịnh mà thế
nhân không thể làm. Họ là những bậc đáng cao quý cho chúng ta lễ
bái. Thế nên vua A Dục sẵn sàng đảnh lễ họ bất cứ lúc nào và bất
cứ ở đâu mỗi khi được diện kiến.
Lợi ích của sự Lễ Bái như đã
trình bày ở trước, ngoài công dụng tiêu diệt dần đần những phiền não
trong mỗi con người, còn tăng trưởng Đạo Lực trong nội Tâm của
người tu tập. Mình lạy người khác tức là mình lạy mình. Mình
tôn vinh người khác tức là mình tôn vinh mình. Trường hợp này
cũng như chúng ta học Anh Văn. Chúng ta càng đọc lớn lên chừng
nào thì chúng ta càng mau thuộc chừng đó. Chúng ta càng học nhiều
chừng nào thì chúng ta càng thuộc lòng nhiều và nhớ lâu chừng
đó. Chúng ta càng niệm Phật nhiều chừng nào thì Phật Tâm của
chúng ta càng phát triển chừng đó. Chúng ta càng lạy Phật tụng Kinh thâm
hậu chừng nào thì công đức Đạo Lực trong nội Tâm của chúng ta
càng nẩy nở và tăng trưởng chừng đó. Chúng ta phát ra Đạo Tâm
bao nhiêu thì lúc đó chúng ta thâu vô Đạo Lực bấy nhiêu không bao
giờ mất. Những công đức càng bồi dưỡng bao nhiêu thì càng phát
triển bấy nhiêu không chút sai trái.
Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có
ghi lại những điều lợi ích của sự Lễ Bái. Kinh nói rằng: Cung
kính lễ bái đức Như Lai sẽ hưởng được năm phần công đức như sau:
1. Đoan Chánh: nghĩa là
ngời lễ bái thấy tướng hảo của Phật liền khởi niệm hoan hỷ và
phát tâm ớc mơ mong cầu. Nhờ nhân duyên đó họ qua kiếp sau có thể
hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp.
2. Hảo Thinh: nghĩa
là người lễ bái xưng tụng danh hiệu đức Như Lai ba lần. Nhờ nhân
duyên đó họ đời sau có thể được tiếng nói lảnh lót trong trẻo
tốt đẹp.
3. Đa Tài Bảo: nghĩa
là người lễ bái thường dâng hoa, đốt đèn v.v... để bố thí cúng
dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau hưởng được nhiều
tiền của vật báu.
4. Sanh Trưởng Giả Gia:
nghĩa là người lễ bái đem tâm không chấp trước, chấp tay quỳ gối, chí
thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó họ đời sau được sanh vào nhà
giàu sang quí tộc.
5. Sanh Thiện Xứ Thiên
Thượng nghĩa là nhờ công đức cung kính lễ bái các đức Như Lai,
hành giả (người lễ bái) đời sau sẽ được sanh vào các cõi lành
hoặc các cõi trời.
Tóm lại, Lễ Bái không phải hành
động thấp hèn làm mất phẩm cách con người. Trái lại Lễ Bái chính là
một đạo nghĩa của con người tiến bộ và còn là một đạo lý của Tín Đồ
chân chánh. Đối với Tổ Tiên, người Hiếu Hạnh cần phải lễ bái để
tỏ lòng cung kính đối với Thánh Hiền, Tín Đồ chân chánh cần phải
lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong sự tu tập đạo lý
giác ngộ. Lễ Bái nhầm giao cảm với bề trên, kết sợi giây tương
thân trong xã hội và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn
cách chia rẽ trong đoàn thể. Người con Hiếu Hạnh không thể
thiếu cung cách Lễ Bái. Người Tín Đồ trung kiên và đạo đức
gương mẫu không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách Lễ Bái này.
IV.- KẾT LUẬN:
Vấn đề thờ, cúng và lễ bái là những biểu
tượng tín ngưỡng có giá trị chẳng những về phương diện hình
thức và còn hữu ích không nhỏ về phương diện tâm linh. Thờ, cúng
và lễ bái là nhu cầu cần thiết cho con người không thể thiếu
trong việc tu tập đào luyện đạo đức làm người. Vấn đề trên chẳng
những cần thiết cho cá nhân mình, cho gia đình mình trong đời
này, mà hơn nữa, đây cũng là một nhu cầu hữu ích cho thế hệ con
cháu mai sau. Chẳng những thế vấn đề THỜ, CÚNG và LỄ BÁI còn là
một yếu tố cần thiết trong việc tạo dựng nhân lành cho cuộc đời
mình ở kiếp sau. Điều này rất quan trọng kể cả hình thức lẫn nội dung,
kể cả sự tướng cho đến lý tánh, để chúng ta và tất cả chúng sanh
sớm giải thoát phiền não khổ đau và được an vui tự tại trong sự
giác ngộ.
Thờ ở đây nhằm thể hiện sự tưởng niệm,
tỏ bày lòng Tôn Kính dâng lên các bậc Tổ Tiên và các vị Thánh Đức
mà mình đã gởi trọn niềm tin. Người Thờ Cúng và Lễ Bái là tự
tạo điều kiện giao cảm, thiết lập điểm tựa cho Tâm Linh giữa họ
với Bề Trên mỗi khi cảm thấy tâm hồn lạc lỏng mà chính họ cần đến
quyền năng hỗ trợ của Tiền Nhân. Thờ ở đây còn là một hình thức
giáo dục gia đình, nhắc nhở con cháu ý niệm được bổn phận làm
người đối với bề trên trong sự nghiệp kế thừa Truyền Thống. Hình
Thức Thờ Tự cũng tạo phương tiện cho con cháu noi gương đức hạnh
của Tiền Nhân để soi sáng cõi lòng tu tâm dưỡng tánh.
Cúng ở đây nhằm tri ân sâu dầy của Tổ
Tiên, của Thánh Hiền đáng kính với sự dâng hiến lễ vật quý trọng
và mong cầu ơn trên chứng minh gia hộ. Ngoài ra Cúng kỵ còn tăng
trưởng phước Ông Bà cho dòng họ Cháu Con và tăng trưởng Đạo Lực
giải thoát cho Tín Đồ qua hệ thống Tâm Linh làm gạch nối giữa
người nguyện cầu với các bậc Tiền Nhân Thánh Đức. Có thể nói
Cúng Kỵ rất cần thiết cho việc giáo dục gia đình ý niệm Truyền
Thống Tổ Tiên, lý tưởng Giống Nòi và làm tròn nghĩa vụ Đạo Đức
con người. Muốn bồi dưỡng Tâm Linh lành mạnh, người Đạo Đức và Hiếu
Nghĩa không thể không Thờ, Cúng và Lễ Bái Tổ Tiên, Chư Phật và
Thánh Hiền.
Lễ Bái ở đây nhằm báo ân với cung cách
quy ngưỡng, hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý
chí siêu thoát của các bậc Tôn Kính để tu tập. Người Lễ Bái
mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của Tiền Nhân trên
con đường giác ngộ và giải thoát khổ đau sanh tử. Phận làm cha
mẹ cần phải giải thích cho con cháu hiểu rõ ý nghĩa và giá trị
Thờ, Cúng và Lễ Bái. Con cháu nhờ đó tiếp nối sự nghiệp Thờ, Cúng
và Lễ Bái của Tổ Tiên cho đúng đạo lý.
Truyền Thống Văn Hóa Việt Nam, Vấn đề
Thờ, Cúng và Lễ Bái là hình ảnh linh động nhất, cao đẹp nhất, sâu
đậm nhất của một Dân Tộc có hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Hình ảnh
Thờ, Cúng và Lễ Bái làm sống dậy tinh thần Hiếu Nghĩa và Đạo Đức
Nhân Luân của con Lạc cháu Hồng, Việt Nam bất diệt.
CÁC KINH LUẬN THAM KHẢO
* Khảo Nghiệm Duy Thức Học, Trung
Tâm Văn Hóa Xã Hội xuất bản.
* Câu Xá Luận, quyển 1 và 4.
* Thuận Chánh Lý Luận, quyển 10.
* Thành Duy Thức Luận, quyển 7.
* Bánh Pháp Minh Môn Luận Sớ,
quyển Thượng.
* Thành Duy Thức Luận Thuật Ký,
quyển 7 Mạt.
* Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 3 và
quyển 5.
* Đại Nhật Kinh Sớ Diễn áo, quyển
2.
* Phật Học Đại Từ Điển, quyển 4,
Trang 3997-3998.
* Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 8.
* Kinh Tăng Nhứt A Hàm, quyển 27
và quyển 41.
* Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ
* Kinh Di Giáo.
* Kinh Phổ Hiền, Phẩm Hạnh
Nguyện.
* Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh, quyển
13.
* Kinh Thập Địa Luận, quyển 3.
* Kinh Phạm Võng, quyển Hạ
* Ma Ha Tăng Kỳ Luật, quyển 25 và
quyển 27.
* Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa, quyển
18.
* Tứ Phần Luật, quyển 60.
* Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện,
quyển 4.
* Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 20.
* Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2.
* Thích Môn Quy Kính Nghi, quyển
Hạ.
* Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển 15.
* Đại Bảo Tích Kinh, quyển 43.