Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thờ thì dễ, giữ lễ thì
khó”, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu đề tài ý nghĩa và tác dụng của lễ
bái.
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là
lễ? Thế nào là lễ bái?
Lễ, theo Tự điển Tiếng Việt của viện ngôn
ngữ học Việt Nam, là phép tắc phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ
thần, hoặc giao tế trong xã hội. Nói một cách rộng rãi dễ hiểu hơn, đây
là những quy tắc nhất định của cung cách, đi đứng, nói năng trong Quan,
Hôn, Tang, Tế, nhằm thể hiện sự cung kính và bao gồm cả những phép lịch
sự chào hỏi nhau để biểu lộ sự thân thiện quen biết. Nó còn là một
phương tiện đặc biệt để gây tình cảm. Người dưới gặp người trên mà không
biết chào hỏi là thiếu lễ độ. Người trên không biết đáp lại lời chào
của người dưới, thường bị mang tiếng là hách dịch, khinh người.
Bái là sự cung kính biểu hiện ở thân tướng,
nghĩa là quỳ lạy, bằng cách hạ mình xuống trước những bậc Hiền đức mà
mình tôn kính. Lễ bái tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch âm là Ban-đàm, còn
gọi là Hòa nam, hoặc gọi là Na-mô Tất-yết-la. Có nghĩa là ý tôn kính
biểu hiện ra ở thân tướng, là lễ nghi cung cách với hình thức cúi đầu
quỳ lạy trước những bậc tiền nhân, Thánh đức mà mình đã đặt trọn niềm
tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Hiền Thánh, như lạy tổ
tiên, cha mẹ, thầy tổ v.v...
Lễ bái là một đạo nghĩa nhằm tiêu biểu cho ý
chí tôn kính, để tỏ lòng tri ân và báo ân ngõ hầu trở thành những con
người hữu ích trong xã hội, để làm tròn bản phận của con cháu tông môn
và để xứng đáng là đệ tử các bậc Thánh đức. Lễ bái còn là một phương
pháp tu để diệt trừ lòng ngã mạn cống cao, diệt trừ những phiền não,
nghiệp chướng.
Lễ bái là một nghi thức tín ngưỡng thường
thấy ở một số tín ngưỡng tôn giáo phương Đông. Khởi nguyên, lễ bái biểu
thị sự phục tùng, tôn kính tuyệt đối với các uy lực siêu nhiên, đấng
thần linh mà con người tôn thờ. Dần dần, tùy theo sự phát triển của mỗi
tôn giáo mà có những ý nghĩa khác nhau trong cách thức lễ bái. Ở đây,
chúng tôi không thể so sánh hết tất cả các hình thái nghi lễ mà chỉ giới
hạn tìm hiểu cách thức lễ bái của Khổng giáo và Phật giáo mà thôi.
Theo truyền thống Việt Nam, dân tộc ta phần
đông chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng giáo và Phật giáo. Do đó, mỗi
người dân đều chịu ảnh hưởng không ít cách lễ bái của hai tôn giáo này.
Thời xưa vua chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân khi lễ bái vua,
quan, hiền thần, đình miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng
giáo và khi lễ bái Phật trời, Hiền thánh, Tổ tiên, ông bà v.v… thì phải
áp dụng theo cung cách của Phật giáo.
Cách lạy của Khổng giáo, trước hết con người
phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái uy của kẻ sĩ. Hai tay cung thủ là
tiêu biểu cho cái dũng của Thánh nhân. Trước khi lạy, hai tay cung thủ
đưa lên trán, kế đưa sang phải, rồi đưa phía trái là tiêu biểu cho Tam
tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay cung thủ chống lên đầu gối
chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu cho sự tôn kính mà
không mất tư thế cái uy dũng của kẻ sĩ. Cúi đầu xuống đất là tiêu biểu
cho sự cung kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là cung cách và ý nghĩa
tổng quát lễ bái theo quan niệm của Khổng giáo.
Lễ bái theo quan niệm của Phật giáo có phần
khác biệt về cung cách cũng như về ý nghĩa so với Khổng giáo. Riêng về ý
nghĩa và giá trị lễ bái được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Phật giáo
quan niệm, vì sự sùng kính ân đức vô lượng, trí tuệ vô biên của chư Phật
mà hàng Phật tử đã biểu lộ sự thành kính ấy qua hình thức lễ bái và noi
theo gương sáng của chư Phật, chư Hiền thánh để phát triển hạnh lành,
tiến tu đạo nghiệp đạt được trí tuệ giải thoát như các Ngài. Trong nhân
quả của sự tôn kính thì “kính thầy sẽ được làm thầy”.
Sự lễ bái cũng là phương pháp tu để diệt trừ
sự cống cao, ngã mạn – bản chất con người chúng ta lúc nào cũng luôn tự
cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang, xem “cái tôi” của mình là trung tâm
vũ trụ. Đó là tánh xấu khiến mọi người chán, xa lánh làm tiêu mòn công
đức. Chúng ta ý thức được điều này, vì tự mình thấy mình không sánh kịp
các Ngài, biết mình thấp kém tài đức nên phải kính lạy Phật, Bồ-tát và
các bậc tôn túc để diệt trừ tâm ngã mạn thì tự nhiên tánh ngạo mạn từ từ
biến mất. Ngoài ra, lễ bái còn là pháp hành căn bản mà người con Phật
phải hành trì tinh tấn để giải thoát các nghiệp chướng mà chúng ta đã
gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp. Trong Phật giáo, có nhiều cách lễ bái.
Theo sách Đại Đường Tây Vực Ký,
quyển 2, ghi rằng: Ấn Độ có chín cách lễ bái được gọi là “Tây Trúc cửu
nghi”. Chín cách lễ bái đó như sau:
1. Phát ngôn úy vấn lễ: Mở lời thưa hỏi.
2. Phủ thủ thi kính lễ: Cúi đầu biểu thị sự cung kính.
3. Cử thủ cao ấp lễ: Đưa tay cao vái chào.
4. Hiệp chưởng bình cung lễ: Chắp tay ngang vái chào.
5. Khuất tất lễ: cúi gập đầu gối.
6. Trường quy lễ: Quỳ nằm dài ra.
7. Thủ tất cứ địa lễ: Tay và gối quỳ sát.
8. Ngũ luân câu khuất lễ: Năm vóc co lại.
9. Ngũ thể đầu địa lễ: Năm vóc gieo xuống đất.
Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy
có một đoạn miêu tả về những cách lễ trên:
“Hoặc có người lễ bái
Có người chỉ chấp tay
Cho đến giơ một tay
Có người lại cúi đầu
Để cúng dường tượng Phật
Sẽ thấy Phật vô lượng
Tự thành đạo Vô thượng”.
Ngoài chín cách lạy trên đây, người Ấn Độ
còn có nhiều cách lễ bái khác nhau, tùy theo phong tục của mỗi nơi mà có
sự khác biệt với nhau về cung cách như: Lễ bái đứng một chân quỳ lạy
(Tồn cử lễ); bước một bước lễ một lạy (Khởi cư lễ); lễ một lạy rồi đi
nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật hoặc bảo tháp (Hữu nhiễu tam thất
lễ); lễ bằng cách ngồi cúi đầu lạy (Tạ lễ).
Riêng về Phật giáo Việt Nam, phần đông Phật
tử đều áp dụng theo phương pháp Ngũ thể đầu địa (năm vóc sát đất) trong
khi lễ bái. Đây là một phương pháp tiêu biểu cho tâm ý tôn kính cao đẹp
nhất trong các cung cách lễ bái.
Khi lễ bái, đầu tiên Phật tử phải đứng ngay
thẳng trước tượng Phật cho trang nghiêm và khép hai chân vào nhau để lấy
lại sự an tâm thanh tịnh, đồng thời kiểm thúc tâm ý không để chao động
vọng tưởng.
Ngay lúc đó, đôi mắt nhìn lên tượng Phật,
quán tưởng các tướng tốt và quán niệm những đức hạnh cao quý của đức
Phật, bày tỏ nguyện vọng chân chính của mình hầu mong Phật chứng minh.
Hai tay chắp lại là biểu thị thân tâm hiệp
nhất để nói lên sự nhất tâm cung kính của mình và để hai tay trước ngực
là tiêu biểu ý nghĩa Ấn tâm. Chắp tay đưa lên giữa chặng mày (cử án tề
mi) thể hiện sự cung kính và tiêu biểu cho ý nghĩa tâm nguyện của mình
được dung thông đến chư Phật, rồi xướng câu: “Năng lễ sở lễ tính
không tịch, cảm ứng đạo giao nan từ nghì, ngã thử đạo tràng như đế châu,
thập phương chư Phật ảnh hiện trung...” và lạy theo nguyên tắc Ngũ
thể đầu địa - “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”.
Ngửa lòng bàn tay ra giống như đóa hoa sen
nở, ta tưởng tượng như đức Phật đang đứng trên đóa sen kết thành bởi hai
bàn tay và ta đặt trán mình lên lòng bàn chân của đức Phật, đồng thời
nằm mọp xuống để biểu thị sự cung kính tâm thành quy ngưỡng, nương tựa.
Phật giáo cho rằng, người Phật tử ngoài sự
lễ bái chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ra còn phải tưởng niệm
ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các Ngài để
tiến tu đạo nghiệp, nên được gọi là quy mạng lễ.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức
Phật dạy:
“Thiện Nghiệp đã lễ trước
Đầu tiên không lỗi lầm
Cửa giải thoát trống không
Đây là nghĩa lễ Phật
Nếu người muốn lễ Phật
Vị lai và quá khứ
Nên quán pháp trống không
Đây là nghĩa lễ Phật.”
Nhân thừa Phật giáo chia lễ bái ra làm 7
cách lạy. Bảy cách lạy này do ngài Tam tạng Pháp sư Lặc Na phân chia ra,
trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có nói rõ về nguyên nhân và hoàn
cảnh vì sao phải chia ra 7 cách lạy này:
1. Ngã mạn lễ: Nghĩa là lạy với tâm ngã mạn,
tâm kiêu căng. Người lạy Phật hoặc lạy ông bà, tổ tiên vì hoàn cảnh bắt
buộc phải hành lễ, nhưng thâm tâm của họ không muốn lạy, do đó họ lạy
với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ kiêu căng, không chút nào lễ độ cung kính
cả. Hoặc có người cậy thế ỷ quyền cao chức trọng, thẹn khi chào hỏi
người kém hơn mình, tâm không dựa vào phép tắc lễ nghi. Tuy có lễ bái
nhưng tâm chạy theo ngoại cảnh. Đầu họ lạy không sát đất và họ đứng lên
cẩu thả cho qua chuyện. Họ sợ mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần,
nên buộc lòng phải lễ bái theo kiểu Ngã mạn để bạn bè khỏi chê trách
mình là kẻ bất hiếu, bất nghĩa, bất trung, bất tín. Cách lạy đó gọi là
Ngã mạn lễ.
2. Cầu danh lễ: Nghĩa là lạy xướng họa cầu
danh. Những người lạy vì mong cầu danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và
ngợi khen của cấp trên, cũng như lấy lòng quần chúng để được ủng hộ; khi
có cấp trên cũng như có đông người thì họ siêng năng lễ lạy để cho mọi
người khen mình là người siêng năng có đạo đức. Thật ra thâm tâm của họ
không có chút gì tín thành cả; oai nghi thô vụn, thân tâm cung kính dối
trá. Thấy người thì thân nhẹ lạy mau, người đi thì thân tâm mệt mỏi,
biếng nhác giải đãi trong việc lễ lạy. Cách lạy này gọi là Cầu danh lễ.
(Hai cách lạy vừa trình bày trên là hành động dối trá, không thể có nơi
người đạo đức chân chính. Sở dĩ Pháp sư Lặc Na nêu ra là nhằm mục đích
ngăn ngừa chúng ta).
3. Thân tâm cung kính lễ: Nghĩa là người lễ
lạy phải thể hiện thân và tâm đều cung kính. Do thân tâm cung kính không
nghĩ đến việc khác, kính cẩn cúng dường tình không chán đủ. Lễ lạy bằng
sự tha thiết chí thành cả thân và tâm vì họ có đức tin trong sự lễ lạy
nên sự cảm ứng của họ rất dễ dàng giao cảm với chư Phật, với Thánh hiền,
với ông bà Tổ tiên. Thân tâm cung kính là cách lạy cơ bản trong Phật
giáo về mặt sự tướng, hay nói cách khác về mặt hình thức mà người xuất
gia và tại gia phải hành trì nghiêm túc.
Thân tâm cung kính lễ, công đức
tuy lớn nhưng thật sự chưa phải là mục đích cứu cánh trong lễ bái. Thân
tâm cung kính lễ chỉ là phương tiện nhờ đó mà hành giả tiếp tục tiến
đến lãnh vực Thánh giáo lễ của các bậc Thánh chúng về mặt lý tính không
cảm thấy trở ngại.
4. Phát trí thanh tịnh lễ: Lạy phát trí
thanh tịnh, nghĩa là hành giả tu tập thiền quán cho đến khi trí tuệ
thanh tịnh phát sinh từ nơi chơn tâm là Thánh trí, chứ không phải trí
tuệ phát sinh từ thức tâm. Trí tuệ phát sinh từ thức tâm thuộc về nơi mà
phàm trí còn bị giới hạn bởi căn và trần. Trái lại, Thánh trí đã thoát
ra vòng cương tỏa của cả hai. Trong phép lạy này, hành giả phải thấu
suốt rằng: cảnh giới của chư Phật đều hiện bày từ nơi chân tâm và trí
tuệ thanh tịnh của mình cũng phát sinh từ bản tâm thanh tịnh. Cho nên
người lễ bái một đức Phật tức là lạy tất cả chư Phật trong mười phương
không ngăn ngại. Lạy một lạy tức là lạy tất cả pháp giới, vì Pháp thân
của Phật dung thông.
5. Biến nhập pháp giới lễ: Lạy khắp vào pháp
giới. Nghĩa là trong phép lạy này, hành giả phải tận dụng trí tuệ tự
quán thân, tâm cùng tất cả pháp giới, từ hồi nào đến giờ không rời pháp
giới. Pháp giới tính tức là thể tính của vạn pháp biến mãn khắp thế giới
và thường trụ bất diệt. Pháp giới tính là nơi chư Phật thường an trụ để
hiện thân hóa độ chúng sinh.
Hành giả thực hiện phép lạy này là quán
chiếu thân và tâm nơi chính mình biến nhập vào pháp giới tính của vạn
pháp một cách dung thông, giống như bác sĩ sử dụng quang tuyến X (X-ray)
rất lớn chiếu vào thân thể con người và năng lượng quang tuyến X thấu
suốt xuyên qua thân thể người không chút ngăn ngại. Đó mới là lạy theo
phương pháp Biến nhập pháp giới lễ.
6. Chính quán lễ: Lạy chính quán nghĩa là
quán chiếu Phật tự tâm của chính mình không duyên cảnh khác. Trong phép
quán này, hành giả lễ lạy đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không
duyên đức Phật nào khác, vì tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, đều sẵn có
Phật tánh viên mãn, bình đẳng, chân giác.
7. Thật tướng bình đẳng lễ: Lạy thật tướng
bình đẳng nghĩa là trong phép lễ này, hành giả dùng trí tuệ quán chiếu
thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng, không sai biệt.
Không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy mình lạy và
người để cho mình lạy.
Nói một cách khác, người thực hành phép lễ
này là dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng:
mình và người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai
(đều nhất như). Bồ-tát Văn Thù dạy rằng: “Năng lễ sở lễ tánh không
tịch”, nghĩa là thể tính của mình đang lạy và thể tính của người để
mình lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
(Bốn cách lạy: Phát trí thanh tịnh, Biến
nhập pháp giới, Chính quán và Thật tướng bình đẳng là những pháp môn
thuộc về lý lễ bái của các bậc Đại thừa Bồ-tát thường tu tập để thể nhập
vào pháp giới tính của chư Phật).
Qua những phương cách lễ bái trên đây, chúng
ta thấy Thân tâm cung kính lễ chính là pháp môn quan trọng, là điều
kiện tất yếu của người hiếu nghĩa, tín tâm để tỏ bày lòng tri ân và báo
ân. Thân tâm cung kính lễ là phương tiện cần thiết để làm gạch nối giữa
chư Phật và tâm linh con người qua sự nguyện cầu gia hộ. Phương pháp lễ
lạy này lại còn là nền tảng căn bản của chúng ta trên con đường tiến tu
đạo nghiệp để được chứng ngộ qua bốn cách lễ của Thánh giáo. Vậy chúng
ta nên cố gắng thực hành cho đúng pháp.
Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo pháp
thực tập ba cách lạy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng năm 2000, do Đạo
Tràng Mai Thôn biên tập. Chúng tôi xin phép lược trích về ba cách lạy
trong sách ấy.
Lạy thứ nhất: Năm vóc sát đất, con tiếp xúc
với Tổ tiên và con cháu của con trong hai dòng tâm linh và huyết thống.
(chuông, lạy xuống) Con có Tổ tiên tâm linh của con là Bụt, các vị
Bồ-tát và các vị Tổ sư qua các thời đại, trong đó có các bậc sư trưởng
của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị đang có mặt trong con, các vị
đã truyền trao cho con những hạt giống bình an, trí tuệ, tình thương và
hạnh phúc nhờ liệt vị mà con có được một ít vốn liếng của an lạc, tuệ
giác và từ bi... Tổ tiên tâm linh và Tổ tiên huyết thống của con cũng
như con cháu tâm linh và huyết thống của con, đều đang có mặt trong con.
Con là họ, họ là con, con không có một cái ta riêng biệt; tất cả đều có
mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn biến mầu nhiệm.
Lạy thứ hai: Năm vóc sát đất, con tiếp xúc
với mọi người và mọi người đang có mặt với con giờ này trong sự sống.
(chuông, lạy xuống) Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải
trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi
loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là
những hạnh phúc và khổ đau của chính con... Con thấy con trong tất cả
các vị và tất cả các vị trong con.
Lạy thứ ba: Con buông bỏ hình hài và thọ
mạng. (chuông, lạy xuống) Con thấy được thân tứ đại này không đích thực
là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất cả dòng
sinh mạng tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến tới
ngàn sau...
Ở trên, chúng ta đã tìm hiểu sơ qua ý nghĩa
của sự lễ bái, còn tác dụng và lợi ích của lễ lạy thì thế nào?
Tác dụng và lợi ích của sự lễ lạy xét về
phương diện y học: Khi khấu đầu làm lễ, toàn bộ các chi trong cơ thể đều
vận động, lại thêm vào sự chuyên chú về tinh thần tình cảm, động tác
khoan thai, không những có thể giải tỏa sự căng thẳng tinh thần mà còn
có thể làm cho gân cốt thả lỏng, máu huyết lưu thông. Trong khi làm lễ,
tâm ý chân thành, ý thức và động tác đều theo chỉ dẫn của tâm linh, tất
cả những cái đó đều có lợi cho sức khỏe và có tác dụng phòng trừ tật
bệnh.
Tác dụng và lợi ích của sự lễ bái trong kinh
điển: đức Phật đã chỉ giáo rất rõ ràng. Kinh Tăng Nhất A Hàm,
quyển 24 có ghi: Cung kính lễ Phật sẽ được 5 phần công đức:
1. Đoan chính: Nghĩa là người lễ bái, thường
chiêm ngưỡng dung nhan và tướng hảo của đức Phật liền khởi niệm hoan hỉ
và phát tâm mơ ước mong cầu. Nhờ nhân duyên đó, họ qua kiếp sau có thể
hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp (Ngũ trược chúng sinh linh ly
cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân).
2. Hảo thinh: Nghĩa là người lễ bái xưng
tụng hồng danh của chư Phật. Nhờ nhân duyên đó đời sau họ sẽ được tiếng
nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp (Niệm Phật nhứt thanh, phước tăng vô
lượng. Lễ Phật nhứt bái tội diệt hà sa).
3. Đa tài bảo: Nghĩa là người lễ bái thường
dâng hoa, đốt đèn v.v... để cúng dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên
đó đời sau hưởng nhiều tiền của vật báu.
4. Sinh Trưởng giả gia: Người lễ bái đem tâm
không chấp trước, chắp tay, quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên
đó, đời sau họ được sinh vào nhà giàu sang, quý tộc.
5. Sinh Thiện xứ thiên thượng: Nghĩa là nhờ
công đức lễ bái các đức Như Lai, người lễ bái sẽ được sinh vào các cõi
lành, hoặc các cõi Trời.
Tóm lại, lễ bái không phải là hành động thấp
hèn làm mất phẩm cách con người, gợi lên dấu ấn phong kiến. Trái lại,
lễ bái chính là một đạo nghĩa, một nghĩa cử rất cao đẹp của những người
sống có văn hóa. Đối với tổ tiên, người hiếu hạnh cần phải lễ bái để tỏ
lòng cung kính. Đối với Thánh hiền, tín đồ chân chính cần phải lễ bái để
thể hiện đức tính khiêm cung trong tu tập đạo lý Giác ngộ. Lễ bái nhằm
giao cảm với bề trên và tạo nên chất liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn
cách chia rẽ trong đoàn thể. Lễ bái tạo ra sự lễ phép và thân thiện
không chia rẽ nhằm thêm bạn bớt thù tạo ra một xã hội thanh bình an lạc.
Trong xu thế hướng về cội nguồn văn hóa dân
tộc, chúng ta nên phát huy truyền thống lễ bái vì đây là những thuần
phong mỹ tục. Lễ bái là tinh hoa, là nét đẹp trong đời sống sinh hoạt
văn hóa tâm linh. Khi xa quê, khi tuổi cao tác lớn, khi có người thân
qua đời chừng ấy chúng ta sẽ thấy việc lễ bái với những động tác quỳ
xuống, đứng thẳng lưng, rồi quỳ xuống là cần thiết biết dường nào! Nó
thay cho những lời nói, những lời phát biểu, những cảm tưởng dông dài,
đây gọi là tấm lòng thành của mình.
Lễ bái có ý nghĩa là báo ơn, tạ ơn với cung
cách quy ngưỡng hướng về, cũng như noi gương đức hạnh cao quý và ý chí
siêu thoát của các bậc tôn kính để tu tập. Người lễ bái mong cầu sau này
kế thừa xứng đáng sự nghiệp của tiền nhân trên con đường giác ngộ khổ
đau sinh tử. Lễ bái là một nét đẹp văn hóa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc,
cho nên trong mỗi người Phật tử không thể thiếu nghĩa vụ với nghi cách
lễ bái cao đẹp này.
Theo: Tập san Pháp Luân