Giả dụ tôi đang đi trên đường, thấy người kia rớt cái bóp, tôi lượm lên.
– Nếu ý định, động cơ của tôi là trả lại
cái bóp, tôi cúi xuống nhặt cái bóp mà không lo sợ gì cả, lại còn thấy 
vui vui. Nhưng thình lình người ấy quay lại, cho là tôi định lấy cái bóp
hay tôi đã móc túi, người ấy la mắng tôi, tát tai tôi. Tôi có đau, có 
gặp phiền phức, nhưng không khổ. Cuối cùng thì cái bóp ấy cũng được trả 
về chủ nhân của nó.
Ý định, động cơ là thiện. Dù có khó 
khăn,trắc trở trong khi thực hành ý định, động cơ ấy, nhưng ý định vẫn 
thành, có kết quả tốt. Tôi có bị hiểu lầm, bị đau nhưng tôi vui vì việc 
thiện đã hoàn thành.

– Nếu ý định, động cơ của tôi là muốn 
lấy luôn cái bóp, tôi vừa làm vừa lo sợ, khổ sở bắt đầu ngay với hành 
động này. Người đó quay lại và la mắng, tát tai tôi. Cái bóp vẫn được 
trả về với người sở hữu nó, nhưng việc bị la mắng, bị tát tai gây cho 
tôi khổ vì tôi không có một cái gì để nương dựa, chống đỡ cho sự nhục 
nhã, đau đớn của mình. Ý định, động cơ là bất thiện, kết quả là khổ đau 
từ tâm đến thân.
Trường hợp trên là một cái tôi làm 
thiện, làm đúng thì dầu có bị va chạm nặng nề cũng không sao. Trường hợp
này là một cái tôi làm điều bất thiện, điều không đúng thì cũng cùng 
một sự va chạm ấy làm nó tổn thương và khổ đau nặng nề. Một cái tôi làm 
thiện làm đúng thì mãnh mẽ hơn, khó vỡ hơn một cái tôi làm điều bất 
thiện điều không đúng.
– Nếu tôi có ý định, có động cơ là muốn 
lấy luôn cái bóp, khi làm tôi lo sợ, nhưng rồi tôi thành công, người ấy 
không biết gì cả. Tôi lấy số tiền trong bóp, khoảng nửa tháng lương, mua
cho gia đình một bữa ăn ngon, cho con một món đồ chơi. Khi ăn ngon, khi
thấy con vui vẻ với món đồ chơi, tôi chợt thấy khó chịu. Biết đâu số 
tiền ấy người kia dùng cho việc chữa bệnh cho người thân đang nằm bệnh 
viện? Ít nhất, con của người ấy mất một món đồ chơi. Đồ chơi con tôi 
đang chơi phải là của con người kia. Tôi đã kéo cả gia đình mình vào một
điều bất thiện, không đúng. Từ một động cơ ý định bất thiện đã dẫn đến 
một kết quả không đúng, không hợp lý. ‘Sự không phải’ này làm tôi khó 
chịu, phiền não.
– Nếu ý định, động cơ của tôi là trả lại
cái bóp, công việc suôn sẻ, người ấy vui mừng cảm ơn và tôi cũng hạnh 
phúc. Đây là một ý định thiện, kết quả là cái thiện ấy được thành tựu và
kèm với nó là cái đúng, cái hợp lý, cái phải là như vậy, nhờ thế mà cái
thiện ấy càng rộng lớn thêm. Tôi vui vẻ vì được hưởng thụ thành quả của
cái thiện, cái đúng và cả cái đẹp nữa (hành động đẹp).
Chúng ta có thể nhớ lại, suy nghĩ lại về
tất cả những hành động trong đời mình để nhận thấy sự thật này, một 
hành động bắt đầu bằng động cơ, ý định thiện, thực hiện một cách thiện 
và kết quả là cái thiện được thành tựu thì đó là hạnh phúc cho mình và 
cho người. Hơn thế nữa, cái thiện,cái tốt còn đi liền với cái đúng và 
cái đẹp. Kết quả là hạnh phúc càng lớn rộng hơn, sâu sắc hơn vì chúng ta
đã hưởng thụ một hành động Chân Thiện Mỹ.
Ngược lại, một hành động xấu ác, từ ý 
định cho đến lúc thực hiện được sẽ đưa đến kết quả là khó chịu, phiền 
não khổ đau. Chúng ta khổ đau vì chúng ta đã xâm phạm, hủy hoại chính 
thiện căn trong tâm chúng ta, chính một phần làm nên tâm hồn chúng ta. 
Sự khổ đau ấy càng lớn, càng sâu sắc, kéo dài vì khi xâm phạm cái tốt, 
cái thiện nơi chúng ta, chúng ta cũng đã đồng thời xâm phạm cái đúng và 
cái đẹp nơi chúng ta. Cảm thấy mất mát một cái gì nơi mình đó là một 
phần của sự hối hận, của khổ đau. Phá hoại cái thiện, cái đúng và cái 
đẹp trong chúng ta phải là sự khổ đau, vì ba cái đó là những tiềm năng 
cho tâm chúng ta để có được một đời sống hạnh phúc.
Ở trên chúng ta chỉ mới nói đến quá 
trình tâm lý của chính mình mà không nói đến những luật lệ của xã hội 
như luật pháp và nhất là định luật phổ quát nhân quả. Nhưng chúng ta có 
thể tư duy thêm một chút về luật nhân quả. Luật nhân quả không thể thấy ở
cấp độ giác quan. Ở cấp độ giác quan chúng ta chỉ thấy nhân quả của vật
lý. Nhưng chỉ một ít suy nghĩ, chúng ta có thể thấy rằng nếu không có 
luật nhân quả thì không xã hội nào có thể tồn tại, không có một học 
thuyết nào về con người có thể đứng vững. Chẳng hạn, pháp luật là cái 
giữ gìn trật tự xã hội. Nhưng pháp luật phải y cứ vào luật nhân quả, làm
tốt thiện thì được tưởng thưởng, làm xấu ác thì phải bị trừng phạt. Tôi
gieo nhân gì thì xã hội bắt tôi phải chịu quả ấy. Chẳng lẽ nguyên nhân 
là việc xấu ác phạm tội mà kết quả là được thưởng sao? Pháp luật là sự 
thực thi luật nhân quả ở cấp độ con người xã hội. Sự xét xử cũng y cứ 
vào luật nhân quả. Tìm kiếm nguyên nhân phạm tội, động vơ hay ý định là 
vô tình hay cố ý. Kết quả đã thực hiện nghiêm trọng, tai hại đến mức 
nào. Sự xử tội là việc xem xét một quá trình nhân quả ở tâm và thân 
người phạm tội, mặc dù sự tái lập quá trình đó chỉ giới hạn trong một 
thời gian và không gian hữu hạn, với sự hữu hạn của các giác quan có thể
thấy nghe và ý thức có thể tưởng tượng ra. Tóm lại, mọi thái độ hợp lý 
của con người trong xã hội đều y cứ vào luật nhân quả. Cảm thức về sự 
vận hành của luật nhân quả có vẻ như đã được cài đặt vào số phận con 
người, để nó có thể xây dựng chính mình và xây dựng xã hội.
Có người sinh ra ở thôn quê và họ cũng 
chẳng cực khổ gì, nhưng họ có mặc cảm với hai chữ ‘thôn quê’. Khi ngồi 
với nhau, có ai đó nhắc đến ‘thôn quê’, dù có ca ngợi nó, họ đều cảm 
thấy khó chịu. Họ khổ vì mặc cảm của họ, mặc dù có rất nhiều người lại 
rất hãnh diện vì tuổi nhỏ đã ở thôn quê. Ở Việt Nam hầu hết các người 
nổi tiếng trong thế kỷ 20 đều hãnh diện vì quê hương nông thôn của mình.
Trong báo chí, chúng ta thấy có em học 
sinh, vì tự ái, tức giận, rồi cầm dao đâm bạn. Khi ở cơ quan thẩm vấn, 
em đã không ngờ mình có thể là kẻ giết người. Thậm chí em và những người
chung quanh, chỉ một giờ trước đó, không ai có thể ngờ và nghĩ đến một 
chuyện như vậy. Tự ái, tức giận đã làm cho một học trò phải khổ cả đời.
Chúng ta không thể kể hết những thứ gì 
là nguyên nhân khổ đau dẫn đến kết quả khổ đau. Mặc cảm, tự áí, tức 
giận, đố kỵ, ghen tuông, kiêu căng, tham lam, mê mờ…Tất cả những cái ấy 
chúng ta có thể gồm vào hai chữ phiền não. Phiền não là những cái làm 
tâm chúng ta loạn động, không kiểm soát được, làm khổ sở, đau đớn, làm 
méo mó, bóp thắt và dẫn đến những hành động sai lầm làm cái khổ càng lớn
hơn. Những phiền não ấy thướng núp kín trong tâm, nhưng khi có duyên, 
có hoàn cảnh, chúng bùng lên chiếm đoạt cuộc đời chúng ta,và chúng ta có
khổ đau, từ tâm đến thân. Phiền não là những cái tiêu cực đối với tâm, 
phiền não chính là cái bất thiện. Và ngược lại, tâm không có những phiền
não tiêu cực, độc hại, tâm không có bệnh, đó là thiện, đó là hạnh phúc.
Chúng ta khổ đau vì có quá nhiều phiền 
não, và phiền não là bất thiện, là độc hại. Chúng ta sẽ bớt khổ đau khi 
chúng ta có ít phiền não, có ít những cái bất thiện làm độc hại tâm. 
Trạng thái không có khổ đau, dù hoàn cảnh có như thế nào, là trạng thái 
của tâm hoàn toàn lành mạnh, trạng thái không có cái bất thiện và trạng 
thái không có cái bất thiện này được gọi là cái thiện rốt ráo.
Khi đạo Phật được nói là đạo diệt khổ, 
có nghĩa là đạo Phật là con đường diệt những phiền não, diệt những bất 
thiện. Đó là con đường tích cực để đi đến chỗ hết mọi khổ đau cho mình 
và cho người. Và khi không có khổ đau, đó là cái thiện rốt ráo, cái hạnh
phúc tự tại không do duyên, không do hoàn cảnh để hiện hữu.
Khổ đau không đến từ hoàn cảnh, mà đến từ tâm, đến từ những phiền não, những bất thiện, những vết thương của tâm:
Nếu tay không vết thương
Có thể cầm thuốc độc
Không vết thương, không bị nguy hại
Xấu ác không thể hại người không có lầm lỗi
(Kinh Pháp Cú, phẩm Ác, 9)
Thấy rõ như vậy, chúng ta đi đến một kết
luận cụ thể: bất cứ khi nào cảm thấy khổ, chúng ta biết ngay là trong 
tâm ta đang có cái bất thiện, cái xấu ác đang trỗi dậy do sự kích thích 
của hoàn cảnh bên ngoài. Sự tự chữa lành vết thương này là công việc đối
với chính tâm ta, nếu chúng ta thật sự muốn có hạnh phúc.
Ngay cả những nhân vật điển hình trong 
tiểu thuyết thế giới thế kỷ 20, phần nhiều những nhân vật đó đều khổ 
đau, không lối thoát. Khi thấy họ khổ, chúng ta cũng phải đi đến kết 
luận rằng họ đang có cái xấu ác, cái bất thiện trong tâm. Cái xấu ác, 
cái bất thiện này là tà kiến, ác kiến. Cái tà kiến, ác kiến này chính là
hư vô chủ nghĩa. Chủ nghĩa hư vô đoạn kiến và ngày nay còn được cháy 
bùng thêm bởi sự dư dã vật chất là bi kịch tâm hồn của con người hiện 
đại, không chỉ trong tiểu thuyết, mà ở đời thường, trên khắp thế giới. 
Chúng ta cần nhớ lại điều thiện thứ mười trong Thập thiện là phải xa lìa
tà kiến, ác kiến.
Trong quan kiến về đời sống, khuynh tả 
(đoạn kiến) hay khuynh hữu (thường kiến) là sự khởi đầu cho việc đánh 
mất nền tảng của hạnh phúc.
-  Không khổ đau là hạnh phúc
Nếu phiền não, bất thiện là khổ đau thì 
ngược lại, không phiền não, thiện là hạnh phúc. Một ý tưởng thiện (một 
động cơ, ý định thiện) được phát ra thành hành động qua lời nói thiện 
(khẩu) và qua việc làm thiện (thân), thì dù thành công hay không thành 
công về mặt xã hội (điều này còn tùy thuộc vào công nghiệp xã hội), ít 
nhất nó cũng là một quá trình nhân quả của hạnh phúc cho người có ý, 
khẩu, thân như vậy. Một ý khẩu thân tương tục trong cái thiện đương 
nhiên là một thân tâm tương tục hạnh phúc.
Chữ thiện và những chữ đồng nghĩa với nó được nói đến nhiều trong kinh Pháp Cú. Bất cứ câu nào trong kinh Pháp Cú đều nói về cái thiện này và phương cách để thực hiện cái thiện này, cái thiện của không phiền não, cái thiện của hạnh phúc:
Tâm khó thấy, vi tế
Theo các dục quay cuồng
Người thiện trí hộ tâm
Hộ tâm, hạnh phúc đến.
(phẩm Tâm, 4)
Nay vui, mai sau vui
Hai trạng thái đều vui
Hành thiện, rất hoan hỷ
Hành động đều thanh tịnh
(Song yếu, 16)
Đây hạnh phúc, sau hạnh phúc
Hai trạng thái đều hạnh phúc
Hành thiện có hạnh phúc
Về sau hạnh phúc hơn
(Song yếu, 18)
Đạo Phật là con đường của hạnh phúc. 
Hạnh phúc bằng cách chuyển hóa tâm thức phiền não thành trí huệ không 
phiền não, chuyển hóa tâm bất thiện thành tâm thiện, chuyển hóa khổ đau 
thành an lạc.
Người ta không thể chuyển hóa xã hội mà 
không chuyển hóa con người. Nếu số vốn, tư bản của chúng ta chỉ là phiền
não, bất thiện và khổ đau, sự đầu tư của chúng ta cho một xã hội hạnh 
phúc là điều không thể, dù ở mặt bên ngoài xã hội đó có đầy dẩy của cái.
Nếu trong chúng ta có nhiều vết thương phiền não, bất thiện và khổ đau,
sự cầm nắm của cải lại càng thêm nguy hại vì sự cầm nắm ấy sẽ làm tăng 
thêm vết thương, thêm nhiễm độc. Cái không có gì là độc hại sẽ là độc 
hại đối với một bàn tay có nhiều vết thương. Thật ra không có cái gì là 
độc hại cả, chỉ có vết thương nơi bên trong mình sẵn sàng làm cho nhiễm 
trùng nhiễm độc mới là vấn đề. Một trái cây tốt lành nhất được người 
khác trao tặng mình cũng sẽ trở thành đau đớn, gây nhiễm trùng khi cầm 
lấy, nếu bàn tay mình có vết thương. Để mọi cái không trở thành độc hại 
mà trở thành hạnh phúc vật chất và tinh thần, điều kiện tiên quyết là 
bàn tay chúng ta không có vết thương, nghĩa là tâm chúng ta không có 
phiền não, bất thiện và khổ đau.■