Chính bữa đó, không ít người nêu câu hỏi: "Hôm nay có phải là
lần đầu tiên Hà Nội rước ngọc xá lợi Phật hay không?" Người đáp thế
này, kẻ nói thế nọ, lát sau một vị hòa thượng đã ôn tồn giải đáp:
- Không. Đây không phải là lần đầu tiên. Mà từ xa xưa gần cả
nghìn năm trước, Thăng Long tức Hà Nội ngày nay đã đón xá lợi Phật rồi.
Việc cung nghinh và chiêm bái xá lợi Phật thời ấy bắt nguồn từ phước
duyên của hai vị hoàng đế mở đầu triều Lý...
Vị thứ nhất là Công Uẩn (Lý Thái Tổ) nằm mộng thấy rồng cuộn bay lên
(Thăng Long). Rồng - theo hòa thượng trên - là thị hiện của một trong 8
vị Thiên long bát bộ vốn đã phát nguyện luôn luôn hộ trì Phật pháp, gồm:
1. Thiên (chư thiên trên cõi trời) nguyện nếu xá lợi Phật lập tháp
tôn thờ nơi đâu các ngài sẽ rải mưa hoa xuống nơi đó. 2.
Long (tức rồng) nguyện nếu xá lợi Phật phát quang nơi nào các ngài sẽ
uống ánh sáng (ẩm quang) của nơi đó để soi rõ đường về hạnh phước cho
các sinh linh lạc đường.
3. Dạ xoa (loài quỷ có phép phi hành qua lại trên không trung nhanh
như chớp) nguyện nếu xá lợi Phật cần di chuyển hiến cúng nơi nào các
ngài sẽ hộ trì để việc cung nghinh nhanh đến nơi đó.
4. A-tu-la (có thần lực đưa cả nghìn quyến thuộc vào ẩn trong một
cọng sen) nguyện nếu xá lợi Phật hiện trong bất cứ đóa hoa nào các ngài
sẽ rưới nước thơm để nuôi hoa ấy bất tử.
5. Ca-lâu-la (đại bàng Kim Sí Điểu) nguyện nếu xá lợi Phật thờ ở dòng
suối xa nhất bắt nguồn từ trên nghìn mây đổ xuống thì các ngài cũng sẽ
nghiêng đôi cánh để dòng nước ấy rót về mọi trái tim và để tất cả tắm
mát trong ánh sáng từ thân kim cương Phật tỏa ra.
6. Càn thát bà (thần âm nhạc) nguyện nếu xá lợi Phật ở nơi nào các
ngài sẽ đến nơi ấy tấu nhạc lên cho hoa nở và tỏa hương thơm vào tận chỗ
sâu thẳm nhất của hồn người.
7. Khẩn-na-la (thần ca hát) nguyện nếu xá lợi Phật ở nơi nào các ngài
sẽ đến nơi đó hát lên lời ngợi ca mà gió càng thổi lớn lời ca ấy càng
lan rộng qua ba ngàn thế giới và đầy ắp hư không không có biên bờ.
8. Ma-hầu-la-già (đại mãng xà vương) nguyện nếu xá lợi Phật ở nơi nào
các ngài sẽ cuộn mình quanh nơi ấy để bảo vệ cho người đến lễ lạy và
phun nọc độc trừ diệt tà tâm.
Vậy khi rồng xuất hiện trong mộng của Lý Công Uẩn chính là để báo
trước thời Phật giáo cực thịnh đời Lý với sự có mặt không ngớt của hộ
pháp Thiên long bát bộ, thể hiện ngay khi Công Uẩn còn sống, như ghi
nhận của Nguyễn Lang: "Lúc vừa lên ngôi Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) đã
cho xây 8 ngôi chùa ở quê mình (tức ở phủ Thiên Đức tỉnh Bắc Ninh), cho
dựng chùa Hưng Thiên Ngự ở Thăng Long, lập thêm các chùa Vạn Tuế, Thiên
Quang, Thiên Đức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh
Thọ, tất cả chừng 300 ngôi mới, đồng lúc dựng lại những chùa cũ (bị hư
nát)".
Trước khi mất (1028), vua lập thêm chùa Chân Giáo (1024) và răn dạy
tôn thất phải đời đời quy y tam bảo, thực hành chính pháp và thờ xá lợi
Phật.
Vị thứ hai, là thái tử Phật Mã, lên nối ngôi (tức Lý Thái Tôn), đã
tiếp tục công cuộc hoằng pháp của vua cha để lại, sắc lập 95 ngôi chùa,
sơn mới lại các tượng Phật khắp nơi, rước Đại tạng kinh về thờ. Vua làm
lễ lạc thành 1.000 tượng Phật bằng gỗ, 1.000 bức tranh Phật, 10.000 cờ
phướn, đúc tượng Di Lặc bằng đồng nặng đến 7.560 cân, dựng chùa Diên Hựu
(tức chùa Một Cột)...
Những Phật sự ấy chắc chắn đã tạo phúc duyên lớn đưa đến sự kiện xá
lợi Phật dưới nền chùa Pháp Vân phát sáng hào quang. Người ta theo luồng
ánh sáng ấy đào xuống, phát hiện và lấy lên một cái hòm bằng đá. Mở hòm
đá ra, thấy bên trong có một hòm khác bằng bạc. Trong hòm bạc lại có
một hòm nữa bằng vàng. Mở hòm bằng vàng, lại thấy một bình lưu ly đựng
xá lợi Phật.
Biết chuyện, Phật Mã sai rước xá lợi Phật vào cấm điện của hoàng
thành Thăng Long. Việc cung nghinh xá lợi Phật vào Thăng Long như thế
nào các sử gia theo Nho giáo không mô tả rõ ràng. Song những nét chính
của sự kiện vẫn phải ghi lại qua các cuốn sử lớn như Đại Việt sử ký
toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Theo đó, sau ngày rước về cung điện chiêm
bái, Phật Mã sai đem tôn trí chỗ cũ (trong khuôn viên chùa Pháp Vân)
vào năm 1034. Niên đại ấy xác nhận ngọc xá lợi Phật có mặt tại Thăng
Long - Hà Nội cách đây đã gần 1.000 năm, nếu tính chính xác là đã 975
năm rồi (tức từ 1034 - 2009) chứ không đợi đến bây giờ.
Một điều nữa: Ngọc xá lợi Phật vì sao lại có tại chùa Pháp Vân? Và có
từ bao giờ?
Điều ấy giới nghiên cứu giải thích khá rõ. Chùa Pháp Vân (tức chùa
Dâu) là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nơi thiền sư Pháp Hiền xây tháp để
thờ 1 trong 5 hòm xá lợi đưa từ Trung Quốc sang nước ta hiến cúng khoảng
năm 601 (tức cách đây hơn 1.400 năm) bởi vua Tùy Văn Đế (Dương Kiên).
Dương Kiên là một ông vua rất sùng kính Phật pháp, sai dựng bảo tháp thờ
xá lợi tại hơn 150 chùa ở "ngoài các châu", từng nói với pháp sư Đàm
Thiên là hãy chọn một số vị tăng có đạo hạnh và nổi tiếng ở Trung Quốc
để đưa sang Giao Châu truyền bá đạo Phật, nhưng Đàm Thiên nói đại ý: "Đất
Giao Châu xưa nay có đường thông với Thiên Trúc (Ấn Độ) nên Phật pháp
đã truyền thẳng đến đó và lúc ở Giang Tả chưa có gì mà trên đất Luy Lâu
của họ (Việt Nam) đã dựng được 20 ngôi chùa, độ tăng đã hơn 500 vị, kinh
tiếng Phạn đưa tới cũng dịch trọn 15 cuốn rồi.
Nay lại đang xuất hiện thượng sĩ Pháp Hiền là vị đã đắc pháp với
ngài Tì-ni-đa-lưu-chi (đại đệ tử của Tam tổ Tăng Xán) và đang lưu chuyển
mạng mạch thiền tông trên đất ấy, có không dưới 300 người dự mỗi lần mở
pháp hội, xem thế chẳng khác quy mô truyền pháp ở Trung Quốc chút nào.
Vậy nhà vua không cần đưa cao tăng Trung Quốc đến, mà chỉ cần dùng lời
tùy thuận để khuyến phát, hoặc gởi cúng hiến ngọc xá lợi để trang nghiêm
pháp giới của họ".
Dương Kiên nghe theo, nên đã "sai sứ ban 5 hòm xá lợi Phật kèm sắc
điệp" gửi sang nước ta để thiền sư Pháp Hiền dựng tháp cúng dường từ đầu
thế kỷ thứ 7. Đến thế kỷ 14, sử sách còn ghi nhận sự tồn tại các xá lợi
ấy trước khi bị thất tán.
Nay các nhà nghiên cứu đứng trước câu hỏi đáng suy ngẫm: phải chăng
ngọc xá lợi Phật đã từng được cung nghinh về hoàng thành Thăng Long từ
gần 1.000 năm trước vẫn đang còn ẩn đâu đó dưới lòng đất của nền chùa
Pháp Vân? (Còn tiếp)
Theo: Thanh Niên Online