(Mong được độc giả đọc các phần làm đậm chữ trước khi đọc
toàn bài, để có thể góp phần khêu gợi một cái nhìn nhất quán.
Ngày nay có nhiều nhà khoa học xiển dương các giá trị của tôn giáo,
vì thế tôi xin trích dẫn một số quan điểm của vài vị. Ngoài ra, còn có
một số trích dẫn khác. Các trích dẫn chỉ nhằm mở rộng tham khảo)
1. Vũ trụ là biểu hiện của tâm (tinh thần); tìm hiểu về minh triết tâm linh là việc làm vô cùng cần thiết để nâng cao chất- lượng-thực của cuộc sống.
Tôi tin rằng vũ trụ là biểu hiện của tâm (“Tam giới duy tâm”- Kinh Lăng Già). Một số nhà khoa học đương đại cũng tin như vậy.
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây
giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các
thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó.” (Deepak
Chopra - tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100
anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. “Sự sống sau cái chết-gánh nặng
chứng minh”; dịch giả: Trần Quang Hưng).
“Tôi tuyệt đối tin
rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách hồn cô đặc
dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những phân
tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống, không vững
vàng, xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan niệm vật lí học và hoá học
hiện đại.” (E-rơ-nơ Mun-đa-sép – giáo sư tiến sĩ y học, nhà bác học tên tuổi quốc tế. “Chúng ta thoát thai từ đâu”; dịch giả: Hoàng Giang).
2. Nên hiểu về Thượng Đế theo quan niệm: Thượng Đế là chân lí tuyệt đối, là bản thể vũ trụ, là Viên Giác.
“Chúng ta có thể xem Pháp thân (Dharmakàya) tương ứng với ý niệm của Thiên Chúa giáo về đức Chúa Cha. (Daizets Teitaro Suzuki - thiền sư học giả. “Nghiên cứu Kinh Lăng Già”; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
“Trên phương diện thực hành tâm linh,
niềm tin vào Thượng Đế, đối với một số người, có thể tạo ra một số tình
cảm thân thiện với người sáng tạo ra chúng ta và kích thích chúng ta
nuôi dưỡng tình yêu và lòng vị tha, để thể hiện lòng biết ơn của mình và
để tham gia vào tình yêu của Thượng Đế đối với mọi chúng sinh. Theo một
số người khác, sự hiểu biết sâu sắc về sự phụ thuộc lẫn nhau và về các
quy luật nhân quả, cũng như mong muốn đạt đến Giác ngộ để có thể giúp đỡ
người khác hiệu quả hơn, là những nguồn cảm hứng mạnh mẽ để phát triển
tình yêu và lòng trắc ẩn.” (Mathieu Ricard - tiến sĩ sinh học, tu sĩ
Phật giáo. “Cái vô hạn trong lòng bàn tay”; đồng tác giả: Trịnh Xuân
Thuận; dịch giả: Phạm Văn Thiều, Ngô Vũ).
3. Mỗi một chúng ta là một sinh mệnh tâm linh; tâm linh vừa mang tính chất cá thể, vừa mang tính chất tổng thể.
Về vấn đề này, chúng ta tham khảo quan điểm của nhà bác học Nga, E-rơ-nơ Mun-đa-sep (ở tác phẩm đã nêu):
“Dần dà trong quá
trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ - là khối năng
lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh
cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành
giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin
toàn thể, tức Cõi kia(…).
Liệu con người
trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia không? Sau khi tạo bộ
gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh đẻ đứa trẻ)
trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu. (…).
Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể thanh bai)
cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở
thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là con
người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của
thế giới tế vi, là sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể
và thế giới tế vi.”
4. Tất cả chúng ta đều lưu
lạc từ một quê hương tâm linh chung, và quên mất đường về từ nhiều kiếp
sống; càng xa quê hương tâm linh thì càng vô minh, bất thiện, gặp nhiều
đau khổ phiền não, trói buộc trong nghiệp chướng.
Theo nhiều nhà khoa học, quê hương tâm linh của chúng ta chính là Trường ý thức.
“Trường ý thức là cơ
sở của mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi
electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống
chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy
thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một
thể xác.” (Deepak Chopra – “Sự sống sau cái chết”).
Trong tôn giáo, có nhiều cách nói về quê hương tâm linh gợi cảm hơn.
5. Cái chết của thân xác
không làm chấm dứt dòng sinh mệnh tâm linh; sinh mệnh tâm linh vô minh
vẫn tiếp tục trong vòng sinh hoá luân hồi theo nhân quả (nghiệp báo).
Một viện sĩ khoa học
Liên Xô (cũ), ông M.A.Mikhiher phát biểu về vấn đề này như sau (Báo
Giáo dục & Thời đại CN 9/3/1997): Mỗi con người là một năng lượng
tinh thần trong một vỏ vật chất. Chết chỉ là băng hoại vỏ vật chất, còn
năng lượng tinh thần thì tiếp tục luân hồi, tiếp tục vòng phát triển
mới.
Trong “Chúng ta thoát thai từ đâu”
(E.Mun-đa-sep) có nói rằng:”Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma
(nghiệp), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ.
Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng
có thể thoái hoá.”
Tham khảo thêm D.Chopra (theo sách đã
dẫn): “Tiến sĩ Lommel, người lãnh đạo chương trình kinh nghiệm cận tử
(…) thẩm tra 344 người bệnh loạn tim trong bệnh viện (tim đáng lẽ đập
bình thường thì lại co thắt hỗn loạn). Tiến sĩ Lommel nói chuyện với họ
trong vòng vài ngày trong khi họ sống lại và phát hiện ra việc gây mê và
các loại thuốc không gây ảnh hưởng kinh nghiệm của họ. Tuy nhiên ông
kinh ngạc hơn cả với các báo cáo về ý thức trong khi não không hoạt
động. Nhiều năm sau nghịch lí này vẫn khiến ông sợ hãi: “Vào thời điểm
đó những người này không chỉ có ý thức; ý thức của họ thậm chí bao quát
hơn lúc nào hết. Họ có thể tư duy hết sức sáng suốt, có trí nhớ về tuổi
thơ xa nhất và thể nghiệm sự liên kết chặt chẽ với mọi người, mọi vật
xung quanh. Và bộ não hoàn toàn không có một chút biểu hiện hoạt động
nào”. (…) Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng
gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ đại nhất thế
giới. (…) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn
tại của các thế giới vô hình. Hoàn toàn ngược lại.”
6. Sau cái chết của thân xác,
nếu linh hồn còn luẩn quẩn ở nơi thờ cúng và chốn mồ mả thì đó là những
kiếp sống của linh hồn ngạ quỷ (quỷ đói).
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói rõ điều này.
Bà Phan Thị Bích Hằng, một nhà ngoại
cảm nổi tiếng, cũng có đề cập và khuyên thân nhân nên tổ chức tụng kinh,
cầu nguyện trợ lực cho các linh hồn cõi khổ được siêu thăng.
Trong “Sự sống sau cái chết” (D
Chopra) có nói rằng: “Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai thế giới,
và nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau
khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp tục xốn
xang.”
7. Sự sống của chúng sinh là một diễn trình gieo nhân-gặt quả của hành vi thân khẩu ý (diễn trình của nghiệp), trong đó tính chất tâm ý là trọng tâm.
“Có thể nói rằng
gien nghiệp là cái do chính mỗi người tự tạo cho mình. Khi một người
chết đi, thân thể vật lí của người ấy tan hoại, nhưng cái nghiệp ấy vẫn
tiếp tục di truyền qua nhiều đời sống của người ấy”. (Nguyễn Chung Tú – giáo sư tiến sĩ vật lí. “NS Giác ngộ số 17/1997”).
Tham khảo thêm một đoạn trong “Sự sống sau cái chết” (Chopra):
“Tiếp theo, như
người chết đuối nhìn thấy cả cuộc đời mình trôi qua trước mắt, nghiệp
của một người bung ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc đời
này diễu ngược lại qua màn ảnh của tâm trí. Bạn thể nghiệm lại tất cả
các thời điểm trọng đại từ khi sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh
động và rõ ràng khiến bạn nhìn thấy chính xác từng thời điểm có nghĩa
gì. Cái đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng, không có sự tha thứ hay
những giải thích duy lí. Bạn chịu trách nhiệm cho mọi điều đã làm.”
8. Con người cần biết học tập
(có thể tự học) ở các tôn giáo thánh thiện và các minh triết tâm linh
để tu chỉnh tâm ý; cần biết hướng về quê hương tâm linh (có thể có nhiều
tên gọi khác nhau) để giảm bớt nghiệp chướng phiền não, tăng trưởng trí
tuệ tâm linh (trí tuệ siêu việt).
Einstein, một tên tuổi bác học hàng đầu, từng nói rằng: Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng.
Qua phát biểu đó, cho thấy ông nhận thức được giá trị minh triết và nhân văn lớn lao của các tôn giáo thánh thiện.
Nhà bác học Nga nói trong “Chúng ta
thoát thai từ đâu”: “Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng
thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hi
vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai
tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại
về địa ngục và thiên đường có cơ sở.” Và : “Nền khoa học hiện đại đã đạt
tới tầm mức nhận thức được tôn giáo và hiểu rằng, học thuyết con người
phát sinh từ con khỉ của Đác-uyn quá thô thiển, còn tôn giáo chẳng là
cái gì khác ngoài một cách trình bày phóng dụ tri thức của các nền văn
minh cổ đại.”
9. Giác ngộ là soi sáng cái
“tôi” và chuyển hoá thành trạng thái vô ngã, nhất thể; giác ngộ là từng
bước trở về với sự sống vĩnh hằng bất sinh bất diệt; tuỳ cường độ giác
ngộ mà có các phẩm chất tâm linh mang năng lượng tự lợi-lợi tha khác nhau.
“Mặc dù các trường
phái đạo học phương Đông khác nhau về nhiều chi tiết, nhưng tất cả đều
nhấn mạnh đến tính nhất thể của vũ trụ, đó là điểm trung tâm của mọi
giáo pháp. Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo - không kể Ấn Độ giáo, Phật
giáo hay Lão giáo - là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối
tương quan của mọi pháp, vượt lên khái niệm về một cái ngã độc lập, và
tự hoà mình vào “thực tại cuối cùng” đó. Sự tỉnh giác này - có khi gọi
là “giác ngộ” - không phải chỉ là một tiến trình hiểu biết mà là một
kinh nghiệm tự nếm trải, kinh nghiệm này chiếm toàn bộ thân tâm hành giả
và vì thế có tính chất tôn giáo.” (Fritjof Capra – giáo sư vật lí ở các đại học danh tiếng Anh, Mĩ. “Đạo của vật lí”; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
“Đâu là miếng đất
thuần nhất bất nhị (non-dualism) để ta được nghỉ yên trong vui tươi và
hạnh phúc? Xin dẫn lại lời Eckhart: “Có lắm người tưởng rằng ta phải
thấy Chúa y như Chúa đứng bên này, còn ta đứng bên kia. Đâu phải vậy.
Chúa với tôi chỉ là một trong động tác thấy Chúa của tôi”. Chính trong
cái “chỉ là một” tuyệt đối ấy Thiền đặt căn bản cho đạo pháp. Khái niệm
“chỉ là một” không thuộc độc quyền của Thiền; nhiều tôn giáo, triết học
khác cũng giảng chung giáo lí ấy.” (Daizets Teitaro Suzuki. “Thiền luận-quyển thượng”; dịch giả: Trúc Thiên).
10. Để góp phần cải thiện sức khoẻ, hạnh phúc và nâng cao mọi chất lượng tâm linh-cuộc sống, để góp phần vào sự chứng ngộ Chân Tâm vô ngã, xin giới thiệu bài Hơi Thở Minh Triết (của tác giả).
HƠI THỞ MINH TRIẾT
(Bài vè thực hành)
Thở vào, cảm nhận hơi vào
Thở ra, cảm nhận hơi ra
Chú tâm lắng nghe hơi thở
Vọng tâm vọng tưởng dần xa
Toạ thiền hoặc không toạ thiền
Miễn sao ngồi thật an nhiên
Thở đều, hơi dài và nhẹ
Vơi bao nghiệp chướng ưu phiền
An định: dễ thấy cái “tôi”
Cái khuôn tâm não tháo lơi
Tự tri là gốc minh triết
Tỉnh thức vô ngã chiếu soi
Thở vào, cảm nhận hơi vào
Thở ra, cảm nhận hơi ra
Chú tâm lắng nghe hơi thở
Trí tuệ tâm linh thăng hoa
Y học có nhiều chứng minh
Công năng của hơi-thở-thiền
Nhân điện điều hoà cơ thể
Năng lượng vũ trụ diệu huyền
Vật lí có nhiều chứng minh
Tâm năng của hơi-thở-thiền
Lan toả duyên lành vô tận
Thiện ích khắp nẻo chúng sinh
Thở vào, lắng nghe hơi vào
Thở ra, lắng nghe hơi ra
Dần dần biết nghe vọng tưởng
Chân Tâm cực lạc khai hoa…
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí
của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng
lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh
chung của tất cả”.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình”.
(Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn); Docx.vn).
11. Thiền định, tự tri, hơi-thở-thiền,
mọi sự tu tập thăng hoa trí tuệ tâm linh, sự cầu nguyện chân chính, đó
là những hành động tích cực của tâm linh, mang năng lượng cải thiện sức
khoẻ tổng quát, thiện ích cho mình và tha nhân.
“Không còn hoài nghi
gì nữa về ảnh hưởng to lớn của năng lượng tâm thần tới cơ thể con
người; mà có được trạng thái xô-ma-chi chính là nhờ tham thiền đấy
thôi.” (E. Mun-đa-sep).
“Các nhà khoa học cũng đang quay lại
và hướng sự tập trung vào việc tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái
của chúng ta thực sự ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và xung
quanh chúng ta. (…) Những phát hiện này có thể chứng minh cho tuyên bố
từ lâu của những người luyện thiền và những người tập luyện yoga, rằng
những sự rèn luyện này thực sự làm tăng sinh khí cho chúng ta và tiếp
thêm năng lượng cho ta.(…) Nhiều nghiên cứu khoa học đã khiến cho
melatonin ngày càng được biết đến với giá trị như một phân tử chống ung
thư. (…) Thú vị là việc luyện thiền được coi là một hành động kích thích
tuyến tùng và giúp tạo ra được đủ lượng melatonin cần thiết.” (Karen Nesbitt Shanor - tiến sĩ sinh học. “Trí tuệ nổi trội”; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
Tác giả trên viết chung với John
Spencer, tiến sĩ y học danh tiếng: “Các phương pháp thiền khuyến khích
sự thở sâu từ cơ hoành, được biết đến với chức năng nuôi dưỡng các cơ
quan cần thiết và làm tăng các mức độ năng lượng, tăng tỉ lệ trao đổi
chất và tái sinh các khu vực trì trệ của cơ thể.”
Đặc biệt, hai tác giả này viết trong
tác phẩm “Trí tuệ nổi trội”: “Một nghiên cứu xuất sắc đánh giá vai trò
của sự cầu nguyện (cho người khác) trong việc chữa bệnh do bác sĩ chuyên
khoa tim Randolph Byrd tiến hành đã khích lệ rất nhiều các nghiên cứu
sau đó. (…) Các nhóm tôn giáo khác nhau được cử đến để cầu nguyện cho
các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện (bệnh nhân không biết). (…)
Các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện ở một số khu vực so sánh với
những người trong nhóm không cầu nguyện: Họ dùng thuốc kháng sinh ít hơn
năm lần; họ ít bị mắc chứng phù ở phổi hơn ba lần; không ai trong số họ
cần đến ống thở (…); và có rất ít bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện
bị chết.”
Để dễ hiểu vấn đề hơn, chúng ta đọc
thêm một đoạn, trong tác phẩm đã nêu, của D.Chopra: “Những người nghi
ngờ khả năng tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô số những nghiên cứu cho
thấy ý nghĩ thông thường có thể thực sự tác động đến thế giới. Điều này
đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.”
12. Thiền là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, là siêu vượt khái niệm-tướng trạng, là tự do tinh thần, là sống với ý-thức-mở; ý thức mở là tâm giải thoát, là vô sư trí, là điều kiện để cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp cuộc sống, để Chân-Thiện-Mĩ hiện tiền trong cuộc sống của ta.
“Tự tri là thấy
mình, nhìn thấy tâm trí mình từ giây phút này đến giây phút khác trong
lăng kính của tương giao tương hệ của mình đối với tài sản, đối với
những sự việc, đối với con người, đối với những ý tưởng… (…) Đây là việc
chính yếu: khi mà tôi chưa hiểu được mình, tôi không thể có được căn
bản để suy tư, và tất cả sự tìm kiếm của tôi chỉ là vô vọng hão huyền.
(…) Chính sự kiện ý thức trực tiếp về hiện thể (cái đang là) là chân lí
rồi. (…) Đừng phân tích tâm thức để tâm trí tĩnh lặng.” (Jiddu Krishnamurti – danh nhân giác ngộ. “Tự do đầu tiên và cuối cùng”; dịch giả: Phạm Công Thiện).
“Ngộ là ngộ bằng trí
tuệ, và trí tuệ phát ra từ ý chí – ý chí muốn tự tri tự giác, và tự
thực hiện trong chính nó. (…) Ta nên ghi nhận, cái bị huỷ diệt ở đây là
cái già và cái chết, chứ không phải cái sống; vì chính xuyên qua giác
ngộ cái sống ấy, lần đầu tiên, khôi phục lại tinh thần tự do và tinh lực
sáng tạo nguyên thuỷ.” (Daizets Teitaro Suzuki. “Thiền luận-quyển thượng”; dịch giả: Trúc Thiên).
“Theo Đạo học Đông Phương, tâm là một
bản thể tĩnh lặng. Tâm như bầu trời là một khoảng trống mênh mông,
không màu sắc, không tiếng động, không quá khứ, không tương lai. Trong
khi đó tư tưởng như những đám mây vần vũ, luôn luôn di chuyển, thay hình
đổi dạng, và che khuất bầu trời. Người chứa đầy tư tưởng trong trí óc
cũng như bầu trời bị mây phủ dầy đặc. Như vậy tâm vốn an tịnh, mọi rắc
rối đều bởi trí óc mà ra. Chúng là tiến trình của những chuỗi tư tưởng
đến rồi đi. Do đó tư tưởng chỉ là cái nhất thời. Chúng không phải là ta,
nhưng là những kẻ bên ngoài tới rồi đi như những vị khách. Ta đón nhận
chúng, khách tốt lẫn khách xấu, nhưng không thay đổi vị thế chủ nhà của
mình. Có nghĩa là trí biến dịch nhưng ta vẫn tồn tại ở đây với tâm thanh
khiết và đơn thuần. Vén mây để nhìn vào bầu trời, đặc ngữ thiền gọi là
“quán tâm” (nhìn vào nội tâm). Nhìn ra sự thanh khiết của bầu trời (tâm)
gọi là “ngộ” (trực giác biết không qua trí thức). Muốn nhìn vào bên
trong tâm, đơn giản chỉ là ngồi im lặng gạt bỏ mọi tạp niệm, tức ngồi
thiền. Thiền là đẩy những đám mây mù đặc để bầu trời (tâm) yên tĩnh hiện
ra.” (Đỗ Trân Duy – nhà nghiên cứu Kitô giáo. “Thiền Kitô giáo”).
“Nhược ngộ tịch vi lạc / Thử sinh nhàn hữu dư.” (Nếu ngộ tịch là lạc / Đời này nhàn có dư). (Vương Duy - thiền thi sĩ).
13. Tu tập thăng hoa trí tuệ
tâm linh mang năng lượng tích cực; thiện ích cho tất cả chúng sinh, cho
toàn vũ trụ, cho sự nghiệp giác ngộ chung.
E.Mun-đa-sep
(“Chúng ta thoát thai từ đâu”) cho chúng ta có ý niệm về vấn đề này. Nhà
bác học này viết: “Thế giới vi tế tức thế giới năng lượng tâm thần (thế
giới tần số siêu cao) phải có sự chuyển đổi qua lại, và có mối quan hệ
tương hỗ với thế giới vật thể theo kiểu năng lượng sóng chuyển sang dạng
vật chất và ngược lại. Nói một cách khác, phải có vật chất hoá ý nghĩ
và phi vật chất hoá vật thể thành ý nghĩ. Các nhà vật lí thường nhấn
mạnh ý nghĩ có tính vật chất, và hình như điều đó đúng.”
Ông viết tiếp:
“Trước mắt, nền văn minh của chúng ta còn chưa biết sử dụng năng lượng
vũ trụ. Mà năng lượng đó lại rất to lớn. Một số nhà vật lí học hiện đại
cho rằng, một mét khối Tuyệt đối có tiềm lực năng lượng bằng công suất
40.000 tỉ quả bom hạt nhân.(…) Mà chỉ có con người mới nắm được năng
lượng này, bởi con người chính là tiểu vũ trụ của đại vũ trụ. (…) Để nắm
được năng lượng vũ trụ, người Lê-mu-ri đã sử dụng các phương pháp vốn
có ở Cõi kia. Cơ sở của các phương pháp đó (thời nay nghe thật lạ tai)
là các khái niệm giản đơn: “thiện” và “yêu thương”.
Tác giả “Trí tuệ nổi trội” nói: “Các
nghiên cứu tại trường Đại học Stanford đã chỉ ra rằng thông qua suy
nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh hưởng tới huyết áp và nhịp tim của một
người ở cách xa chúng ta. Còn các nhà khoa học tại trường Đại học
Princeton đã chứng minh được quá trình trao đổi thông tin giữa hai người
ở cách xa nhau hàng nghìn dặm.”
Những hiện tượng
được trình bày ở trên không khó hiểu, bởi vì cơ học lượng tử đã cho thấy
rằng: “Thế nên thuyết lượng tử trình bày cho thấy thể thống nhất của vũ
trụ. Nó cho ta thấy rằng không thể chia chẻ thế giới ra từng hạt nhỏ
rời rạc độc lập với nhau. Khi nghiên cứu sâu về vật chất, ta sẽ biết
thiên nhiên không cho thấy những “hạt cơ bản” riêng lẻ, mà nó xuất hiện
như một tấm lưới phức tạp chứa toàn những mối liên hệ của những phần tử
trong một toàn thể. Những mối liên hệ này gồm luôn cả người quan sát.
Con người quan sát chính là mắt xích cuối cùng của một chuỗi quá trình
quan sát, và tính chất của một vật thể nguyên tử chỉ có thể hiểu được
trong mối quan hệ giữa vật được quan sát và người quan sát. Điều đó có
nghĩa là hình dung cổ điển về một sự mô tả khách quan thế giới tự nhiên
không còn giá trị nữa.” (Đạo của vật lí; F.Capra).
14. Tự tri là soi sáng, là
thấy biết cái “tôi”; thiền định tự tri là hành động tích cực để giải
thoát khỏi trạng thái bị khuôn đúc của trí não, để giải thoát khỏi tình
trạng kiến chấp vô minh.
Để rõ hơn về tình
trạng vô minh của trí não, xin nêu một phát biểu trong Vật Lí Lượng Tử
Và Ý Thức (tác phẩm Trí Tuệ Nổi Trội). Phát biểu của ngài Deepak Chopra,
tiến sĩ y khoa, từng giảng dạy ở Đại học Boston (Mĩ):
“Một vài năm trước đây, một thí nghiệm
với các con mèo con đã được các nhà khoa học tại Trường y khoa Harward
thực hiện. Ngay từ khi sinh ra, người ta đã nuôi một số mèo trong một
khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân kích thích thị
giác trong môi trường của chúng đều nằm ngang. Một nhóm khác được nuôi
trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất cả những gì mà
chúng có thể nhìn thấy. Khi những con mèo này lớn lên, trở thành những
con mèo già khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với những vạch
ngang thì chỉ nhìn thấy thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng vào
những chân đồ đạc như thể những cái chân này không có ở đó. Những con
mèo được nuôi dưỡng trong thế giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự
với thế giới ngang. Lẽ đương nhiên những điều này không có gì liên quan
đến hệ thống lòng tin ở những con mèo này. Khi người ta nghiên cứu trí
não của chúng, một nhóm mèo sẽ không có sự nối kết liên thần kinh để
nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm kia cũng không có sự nối kết liên
thần kinh để nhìn thấy thế giới thẳng đứng. Sự trải nghiệm giác quan ban
đầu của những chú mèo này và cách thức chúng hiểu sự trải nghiệm đó
theo nhận thức của chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi thị lực của
chúng phát triển, đã thực sự hình thành sự phân tách hệ thần kinh của
chúng. Rốt cục, những chú mèo này chỉ nhận biết được những gì mà người
ta đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết được lập tức.
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ
rất thú vị về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam kết nhận thức sớm”.
Sớm là vì chúng ta tiến hành việc này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống
của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân tách hệ thần kinh mà
chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế giới. Và sự cam kết là vì nó cam
kết với chúng ta một thực tế nhất định. Một số nhà khoa học có thể nói
với bạn rằng ngay lúc này hệ thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận
dưới một phần tỉ của các tác nhân kích thích hiện hữu. Các tác nhân kích
thích mà hệ thần kinh của bạn tiếp nhận được là những tác nhân tăng
cường sự vận động, ý tưởng, cách hiểu của bạn về những gì mà bạn nghĩ là
tồn tại ngoài kia. Nếu bạn đã có cam kết với thực tế thì những thứ mà
tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của bạn loại ra, hệ
thần kinh mà bạn sử dụng để tạo ra sự quan sát. Tuỳ thuộc vào loại cơ
quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình các sự quan sát mà bạn
muốn tạo ra và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra những quan sát
này, tuỳ thuộc vào tất cả những điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn
nhất định của thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của con người chỉ có thể
tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ 400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta
ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát từ các giác quan của chúng ta và sự
lí giải cho những quan sát này, thì chúng ta đã tạo ra một khuôn khổ cho
những lí giải mà chúng ta thống nhất.
Chúng tôi gọi phương pháp này là
“khoa học”. Chúng tôi thường coi khoa học như là một phương pháp khám
phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa học - như cách nó được kết cấu và
hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải là một phương pháp để
khám phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phá khung
khái niệm hiện tại của chúng ta về những gì chúng ta cho là sự thật.
(…)”.
Qua phát biểu trên, có thể tin hiểu
thêm về tình trạng vô minh của tâm trí. Càng vọng tưởng thì càng củng cố
kiến chấp vô minh.
Ngày nay nhiều công trình khoa học đã
phát hiện rằng, thiền định và các phương pháp tu tập chân chính làm
thay đổi cấu trúc não theo chiều hướng tốt.
15. Sự chứng ngộ xuất sinh từ khát vọng giác ngộ vì tự lợi-lợi
tha tối thượng; chứng ngộ là sự đột chuyển (chuyển y) ở tâm thức: ánh
sáng tâm phi thời gian (tâm thấy biết vô niệm vô ngôn) hiện tiền và soi
sáng mọi tạo tác, mọi sáng tạo.
Đọc trong Pháp Bảo Đàn Kinh (Lục tổ Huệ Năng; dịch giả: Thích Thanh Từ):
“Ngài Pháp Hải bạch rằng: Hoà Thượng để lại giáo pháp gì khiến cho những người mê đời sau được thấy Phật tánh?
Tổ bảo: Các ông lắng nghe, những
người mê đời sau nếu biết chúng sinh tức là Phật tánh, nếu chẳng biết
chúng sinh muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông: biết tự
tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tánh. Muốn cầu thấy Phật, chỉ biết
chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê Phật, chẳng phải Phật mê chúng sinh. Tự
tánh nếu ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê Phật là chúng sinh; tự
tánh bình đẳng chúng sinh là Phật, tự tánh tà hiểm Phật là chúng sinh.
(…)”.
16. Nguyện hạnh Đại thừa xuất sinh năng lực gia trì cho tha nhân; năng lực gia trì mang công năng ý giáo nhiệm mầu.
Một trích dẫn về năng lực gia trì:
“Được gia trợ bởi
năng lực của chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha-tát đang ở cấp độ thứ nhất của
mình (sơ địa) sẽ đạt đến Bồ-tát Tam-ma-địa gọi là Ánh sáng đại thừa
(phát quang địa), thuộc về chư Bồ-tát Ma-ha-tát.” (Kinh Lăng Già).
17. Hiện thực giác ngộ mang phẩm tính “tam thân nhất thể” (pháp thân-báo thân-hoá thân); vì thế chứng ngộ Tánh Không không phải là ở trong trạng thái của sự trống rỗng vô dụng, mà chính là Tâm Không-diệu dụng (Chân Không-diệu hữu).
Chúng ta thưởng thức một đoạn trong Thiền Luận (quyển hạ):
“Khi quan niệm về “Hoá thân” đó trải
qua một cuộc biến thái nữa, Bồ tát đích thực là láng giềng của chúng ta.
Ngài Bồ tát ông hay Bồ tát bà cũng đi chợ mua đồ, ngài bửa củi, ngài
chép kinh, ngài làm việc trong công xưởng, ngài làm thư kí trong văn
phòng; thời xưa bà Bồ tát thậm chí còn làm kĩ nữ.
Diễn tả theo cách khác, điều này có
nghĩa rằng Phật tính (Buddhata) có trong mỗi người chúng ta, trong mọi
chúng sinh. Chỉ khi nào nhìn thấy, chúng ta trực nhận Bồ tát trong một
hoá thân nào đó của ngài. Khi một Văn Thù, hay một Phổ Hiền, hay một
Quan Thế Âm hiện thân trong đẳng cấp xã hội của chúng ta theo kiểu đó,
chúng ta gặp ngài Bồ tát ông hay ngài Bồ tát bà mỗi ngày và mỗi nơi
trong mỗi bước đường thường nhật của đời sống. (…) Điều cần thiết để ý
thức được sự kiện đó, để thấy phải thực hiện ra sao, chính là việc mở ra
con mắt Bát Nhã của riêng chúng ta.” (D.T.Susuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
18. Giác ngộ (ở kiếp này hoặc
vào các kiếp sau) là trở về với quê hương tâm linh (tức là trở về với tự
tánh nhiệm mầu, ngộ nhập pháp giới); gặp lại vô số bạn lữ giác ngộ;
tiếp tục con đường sự nghiệp tối thượng tự lợi-lợi tha.
Trích dẫn sau đây
không phải là nêu lên đúng đắn nội dung giác ngộ, cũng không phải nhằm
mục đích nuôi dưỡng vọng tưởng siêu hình, nhưng để có chút cảm hứng giải
thoát bớt trạng thái tâm chấp thân-chấp cảnh kiên cố. Đây là trích dẫn
về một hiện tượng tâm linh kì bí mà Eduard Sagalayev, một nhà khoa học
lớn của Nga, đã trải nghiệm:
“… Và đột nhiên, trong một khoảnh
khắc không ngờ, tôi thấy chính bản thân mình từ một góc độ bên ngoài
(như nhìn một người khác). Tôi thấy tôi đang ngồi ở ghế và nghe nhạc.
Sau đó, tôi bắt đầu thấy rộng ra. Thấy rõ ràng tất cả những gì xảy ra
trong các căn phòng khác, ở các căn hộ khác của toà nhà chung cư ấy, rồi
thấy rõ tất cả mọi thứ trên một đường phố gần đó. Tôi nhận thấy mình ở
một kích thước hoàn toàn khác của thực tại. (…)
(…) Tôi vẫn tiếp tục “bay đi”. Tâm trí
của tôi đã mở rộng ra rất nhiều và tôi cảm thấy mình không chỉ trong một
số không gian đa chiều, mà hiện hữu trong một thế giới đặc biệt – nơi
mà thiên hà của chúng ta trở nên ít bụi tinh vân hơn nhiều, so với các
vùng khác. Tôi cảm thấy cõi đó rất tốt, thật ấm áp và chính tại nơi đó,
tôi đã gặp lại người mẹ quá cố từ lâu của mình. Tôi không nhìn thấy rõ
khuôn mặt của bà, nhưng chúng tôi đã nói chuyện với nhau – không phải
bằng những từ ngữ, mà bằng thông điệp trong tim. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm
thấy rõ rệt cùng lúc có hai nơi: trong căn hộ của người bạn và đồng
thời, trong một thế giới chứa đầy năng lượng tốt lành và tràn ngập các
thông tin – nơi có hàng tỉ linh hồn con người đang bình an cư trú. Tới
lúc chợt nhận ra mình đã “Trở về bản thân mình” thì thời gian ước tính
đã qua mười lăm phút… Sau sự kiện đó tôi đã từ bỏ thói hư tật xấu không
chút khó khăn mà nếu như trước kia, tôi vẫn không đủ nghị lực để từ bỏ.
(…)” (T/c Tài Hoa Trẻ số 616/2010; Hoa Cương dịch theo Pravda).
19. Khi không ý thức cái
“tôi”, khi vô minh và ảo tưởng ngã chấp còn làm chủ hoàn toàn tâm trí,
thì không thể có nhãn quan minh triết và đạo đức nhân văn đích thực.
“Muốn chuyển hoá thế
giới, chuyển hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự
phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải
chuyển hoá chính bản thân mình. Cuộc cách mạng phải bắt đầu được nhóm
dậy trong chính tâm tư mình, chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín
ngưỡng hay ý thức hệ nào (…)”. (J.Krishnamurti; “Tự do đầu tiên và cuối cùng”).
20. Không có người nào không chất chứa phiền não, không có người nào không có tâm xấu ác, vì thế rất cần có Ngày quốc tế “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” để định hướng cho văn hoá-giáo dục, để đánh thức tâm trí con người, để xây dựng mẫu số chung cho ý nghĩa cuộc sống.
Tham khảo tác phẩm
danh tiếng Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu: “Thầy Đa-ram nói: Năng lượng linh
hồn là năng lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh
mẽ vô cùng, nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của
nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng tiêu
cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu
hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi
vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất,
rơi thiên thạch…
(…) Chúng ta cần nhớ rằng, lòng thiện và
tri thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện thực hoá dự báo tích cực về sự
phát triển của loài người; còn cái ác và thói hám quyền có thể dẫn đến
thảm hoạ toàn cầu trong tương lai, kể cả ngày tận thế, hoặc tạo điều
kiện phát triển yếu tố thụt lùi, dẫn đến hoá hoang.
(…) Tôi tin rằng, trong tương lai, những
lực lượng tích cực trên Trái đất sẽ áp đảo lực lượng tiêu cực và sẽ
không có thảm hoạ toàn cầu.” (E.Mun-đa-sép).
4
/7/2012