LỄ TỰ TỨ (PAVĀRAṆĀ)
Ngày tự tứ là ngày chư Tỳ-kheo mãn an cư mùa mưa (ra hạ), rằm tháng 9
âl, ngày ấy chư Tỳ-kheo không làm lễ bố-tát tụng giới mà phải làm lễ tự
tứ (pavāraṇā) .
Lễ tự tứ có 3 là:
1. Tăng tự tứ (saṅghappavāraṇā), nơi có từ 5 vị tỳ-kheo trở lên làm lễ tự tứ, gọi là saṅghappa-vāraṇā.
2. Nhóm tự tứ (gaṇappavāraṇā), nơi chỉ có hai, ba, hoặc bốn vị Tỳ-kheo làm lễ tự tứ, gọi là gaṇappavāraṇā.
3. Cá nhân tự tứ (puggalappavāraṇā) chỉ có một vị Tỳ-kheo đơn thân làm lễ tự tứ, gọi là pugga-lappavāraṇā.
CÁCH THỨC TĂNG TỰ TỨ (SAṄGHAPPAVĀRAṆA).
Khi
bắt đầu vào lễ Tự tứ. Tăng phải cử ra hai vị rành mạch để hỏi đáp luật;
cũng giống như trường hợp hành lễ Bố-tát, chỉ có một vài điểm đổi khác.
Lời vấn đáp luật như sau:
Vấn:
Namo tassa bhagavato arahato sam-māsambuddhassa. Suṇātu me bhante
saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ āyasmantaṃ itthan-nāmaṃ vinayaṃ
puccheyyaṃ.
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch
Ðại Ðức Tăng, xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin hỏi
luật Tôn-giả tên vậy.
Ðáp: Namo tassa bhagavato arahato
sam-māsambuddhassa. Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ
ahaṃ āyasmatā itthannāme-na vinayaṃ puṭṭho vissajjeyyaṃ.
Kính lễ
Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch Ðại Ðức Tăng, xin hãy nghe
tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi sẽ đáp luật do Tôn-giả tên vậy đã
hỏi.
Vấn: Sammajjanī padīpo ca udakaṃ āsanena ca pavāranāya etāni pubbakaraṇan' ti vuccati. Ukāsa sammajjanī?
Sự quét dọn, đèn đuốc, nước nôi và chỗ ngồi, các việc đó là tiền sự của ngày tự tứ. Vậy sự quét dọn là gì?
Ðáp: Sammajjanakaraṇañca
Là việc lau quét sạch sẽ chỗ làm lễ.
Vấn: Padīpo ca?
Sao là đèn đuốc?
Ðáp: padīpa-ujjalanañca. Idāni suriyālokassa natthitāya padīpakiccaṃ atthi.
(Hoặc là ... Idāni suriyālokassa atthitāya pa-dīpakiccaṃ natthi).
Là việc thắp sáng đèn đuốc. Bây giờ cần đốt đèn vì không có ánh sáng mặt trời.
(Hoặc là ... bây giờ không cần đốt đèn vì có ánh sáng mặt trời) .
Vấn: Udakaṃ āsanena ca?
Nước và chỗ ngồi là sao?
Ðáp: āsanena saha pānīyabhojanīya-udakaṭ-ṭhapanañca.
Là sự sắp đặt nước uống nước rửa cùng với tấm trải ngồi nơi làm lễ.
Vấn: Pavāraṇāya etāni pubbakaraṇan'ti vuc-cati?
Nói rằng đó là tiền sự trong ngày tự tứ, là sao?
Ðáp:
Etāni cattāri vattāni sammajjanakara-ṇādīni saṅghasannipātato paṭhamaṃ
kattabbattā pavāraṇāya pavāraṇākammassa pubbakaranan'ti vuc-cati
pubbakaraṇānī' ti akkhātāni.
Gọi là tiền sự của ngày tự tứ, tức
là bốn việc đó như quét dọn, v.v... cần phải làm trước khi Tăng tụ họp.
Những việc đó được gọi là những tiền sự vậy.
Vấn: Chandappavāraṇā utukkhānaṃ bhik-khugaṇanā ca ovādo pavāranāya etāni pubbakiccan' ti vuccati. Chandappavāraṇā?
Trình
lời thỏa hiệp, cùng lời tự tứ, kể mùa tiết, đếm tăng số, ban giáo giới,
những việc đó gọi là tiền phận sự của lễ tự tứ. Việc trình lời thoả
hiệp cùng lời tự tứ là sao?
Ðáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ chan-dappavāraṇāharanañca. Idha natthi. (Idha natthi).
Tức là đem lời thoả hiệp và lời tự tứ của các vị Tỳ-kheo đáng gởi lời. Hôm nay không có. (Hôm nay có việc ấy) [1]
Vấn: Utukkhānaṃ?
Việc kể mùa tiết?
Ðáp:
Hemantādīnaṃ tinnaṃ utūnaṃ etta-kaṃ atikkantaṃ ettakaṃ avasiṭṭhan' ti
evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnī' dha pana sāsane hemantagimha-vassānānaṃ
vasena tīni honti. Ayaṃ vassāna-utu asmiṃ utumhi satta ca uposathā ekā
ca pavāraṇā; (nếu làm tự tứ rằm tháng 9). Iminā pakkhena pavāra-ṇādivaso
sampatto pañca uposathā atikkantā dve uposathā avasiṭṭhā. (nếu là ngày
cuối tháng 9). Iminā pakkhena pavāraṇādivaso sampatto cha uposathā
atikkantā eko uposatho avasiṭṭho. (nếu là ngày rằm tháng 10) Iminā
pakkhena pavaraṇādivaso sampatto satta uposathā atikkantā satta ca
uposathā ekā ca pavāra-ṇā paripuṇṇā.
Sự kể mùa tiết là như vầy,
nói rằng "trong ba mùa như mùa lạnh v.v... đã trải qua mấy kỳ, còn lại
mấy kỳ". Trong phật giáo có ba mùa là mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa. Nay
là mùa mưa, trong mùa này có bảy kỳ bố-tát và một kỳ tự tứ; (Rằm tháng
9) kỳ này là ngày tự tứ, đã trải qua năm kỳ bố-tát, còn lại hai kỳ
bố-tát nữa. (cuối tháng 9) kỳ này là ngày tự tứ, đã trải qua sáu kỳ
bố-tát, còn lại một kỳ bố tát nữa. (Rằmtháng/ 10) kỳ này là ngày tự tứ,
đã trải qua bảy kỳ bố-tát, bảy kỳ bố-tát và một kỳ tự tứ tròn đủ rồi.
Vấn: Bhikkhugaṇanā ca?
Việc đếm số lượng Tỳ-kheo?
Ðáp: Imasmiṃ pavāraṇagge sannipatitānaṃ bhikkhūnaṃ gaṇanā "pañca" [2] bhikkhū honti.
Tại tự tứ phòng này, số lượng Tỳ-kheo cu hội là "năm" vị Tỳ-kheo.
Vấn: Ovādo?
Việc giáo giới?
Ðáp: Bhikkhunīnaṃ ovādo dātabbo. Idāni pana tāsaṃ natthitāya so ca ovādo idha natthi.
Là việc phải ban giáo huấn đối với Tỳ-kheo ni. Bây giờ không còn Tỳ-kheo ni nên ở đây không có việc giáo giới ấy.
Vấn: Pavāraṇāya etāni pubbakiccan'ti vuccati?
Nói rằng, những việc đó là tiền phận sự của lễ tự tứ, là sao?
Ðáp:
Etāni pañca kammāni chandappavāra-ṇādīni ñattiyā ṭhapanato paṭhamaṃ
kattabbattā pa-vāraṇāya pāvāraṇākammassa pubbakiccan'ti vucca-ti
pubbakiccānī' ti akkhātāni.
Gọi là tiền phận sự của lễ tự tứ, tức
là nói những việc phải làm trước; trong ngày tự tứ có năm việc cần làm
trước khi sắp đặt tuyên ngôn, như là đưa lời thỏa hiệp, lời tự tứ v.v...
Vấn:
Pavāraṇā yāvatikā ca bhikkhū kam-mappattā sabhāgāpattiyo ca na vijjanti
vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti pattakallan'ti vuccati. Pa-varaṇā?
Ðúng
ngày tự tứ, có đủ số Tỳ-kheo tác thành tăng sự, không có phạm đồng tội,
trong tăng hội không có những hạng người phải tránh, đó được gọi là đã
đúng thời. Ngày tự tứ là gì?
Ðáp: Dvisu pavāraṇādivasesu catuddasīpaṇ-ṇarasīsu. Ajja pavāraṇā "paṇṇarasī".
Làm lễ trong hai ngày tự tứ, là ngày 14 âl hoặc ngày rằm. Hôm nay lễ tự tứ "ngày rằm". [3]
Vấn: Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā?
Ðủ số Tỳ-kheo tác thành tăng sự, là sao?
Ðáp:
Yattakā bhikkhū tassa pavāraṇā-kam-massa pattāyuttā anurūpā
sabbantimena paricche-dena pañca bhikkhū pakatattā saṅghena anukkhittā
te ca kho hatthapāsaṃ avijjahitvā ekasīmāyaṃ ṭhitā.
Tối đa bao
nhiêu vị Tỳ-kheo cũng phải lẽ, thích hợp, tác thành tăng sự tự tứ ấy cả;
nhưng giới hạn tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo trong sạch không
bị Tăng nghi tội, và các vị ấy đồng trụ trong cùng sīmā không cách biệt
khoảng hắc tay .
Vấn: Sabhāgāpattiyo ca na vijjanti?
Không có phạm đồng tội là sao?
Ðáp: Vikālabhojanādivatthusabhāgāpattiyo ca na vijjanti.
Là không có các tội bị phạm giống nhau như là đồng phạm tội ăn phi thời chẳng hạn.
Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti?
Trong chúng không có hạng người cần tránh, là sao?
Ðáp: Gahaṭṭhapaṇḍakādayo ekavīsati vajja-nīyapuggalā hatthapāsato bahikaraṇavasena vajje-tabbā tasmiṃ na honti.
Là
trong chỗ tăng hội ấy không có 21 hạng người phải cách ly, chẳng hạn
như người thế tục, người bộ nấp v.v... nên cách xa ngoài hắc tay.
Vấn: Pattakallan'ti vuccati?
Sao gọi là hợp thời?
Ðáp: Saṅghassa pavāraṇākammaṃ imehi catūhi lakkhaṇehi saṅgahitaṃ pattakallan' ti vuccati pattakālavantan' ti akkhātaṃ.
Gọi là hợp thời tức là nói đến tăng sự đúng thời điểm để làm, như việc tự tứ của tăng đã hội đủ bốn yếu tố này vậy.
*
Khi hỏi luật xong, vị vấn phải bạch thỉnh tụng tuyên ngôn tự tứ như sau:
Pubbakaraṇapubbakiccāni samāpetvā desitā-pattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā ñattiṃ ṭhapetuṃ ajjhesanaṃ karomi.
Khi
đã hoàn tất các tiền sự và tiền phận sự, theo sự chấp nhận của Tăng
Tỳ-kheo đã sám hối tội và hòa hợp rồi, tôi xin thỉnh cầu Ngài đọc tuyên
ngôn.
TUYÊN NGÔN TỰ TỨ
Phần vấn đáp luật vừa xong,
tiếp theo vị luật sư xướng tuyên ngôn tự tứ. Tùy theo hoàn cảnh cho phép
mà xướng tuyên ngôn cáo bạch; có 4 trường hợp:
a) Rộng thời gian
và không có điều chi trở ngại, thì mỗi vị Tỳ-kheo phải tác bạch ba lời
tự tự (Tevācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ajjappavāraṇā paṇ-ṇarasī. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho tevaci-kaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ, nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ ba lời.
b)
Hoàn cảnh gấp rút vì có điều trở ngại xảy ra, như có hiểm nạn phạm hạnh
v.v... cần làm tăng sự nhanh chóng thì cáo bạch cho Tăng biết chỉ nên
mỗi vị tự tứ hai lời (dvevācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như
sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ brahmaca-riyantarāyo [4] sace
saṅgho tevācikaṃ pavāressati appavārito va saṅgho bhavissati. Yadi
saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho dvevācikaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức
Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự
tứ ba lời, e Tăng chúng sẽ không được tự tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với
Tăng, Tăng phải nên tự tứ hai lời.
c) Hoàn cảnh khẩn cấp nữa,
không đủ thời gian để mỗi vị tự tứ hai ba lời, thì nên đề nghị mỗi vị
chỉ tự tứ một lời (ekavācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như
sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ brahmaca-riyantarāyo sace
saṅgho tevācikaṃ pavāressati ap-pavārito va saṅgho bhavissati yadi
saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho ekavācikaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức
Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự
tứ ba lời, e Tăng chúng sẽ không được tự tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với
Tăng, Tăng phải nên tự tứ một lời.
d) Hoàn cảnh thúc bách hơn,
không đủ thời gian để mỗi vị tự tứ một, hai, ba lời, thì nên đề nghị chư
Tăng các vị đồng hạ cùng tự tứ một lượt (samānavassikā pavāraṇā),
trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ
brahmaca-riyantarāyo sace saṅgho tevācikaṃ pavāressati appa-vārito va
saṅgho bhavissati yadi saṅghassa pattakal-laṃ saṅgho samānavassikaṃ
pavāreyya.
Bạch Ðại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở
ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự tứ ba lời, e tăng chúng sẽ không được tự
tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ đồng hạ lạp.
*
Còn
một trường hợp khác, dù không có xảy ra điều tai hại chi, nhưng trong
tăng hội có các vị niên cao lạp lớn sức khỏe kém không thể ngồi lâu để
nghe từng vị tự tứ, vậy phải đề nghị Tăng tự tứ theo đồng hạ lạp, bằng
cách khác (aññathā pavā-raṇā), trường hợp này sẽ tuyên ngôn như sau:
Suṇātu
me bhante saṅgho, ajjappavāraṇā paṇṇarasī ayaṃ ca bhikkhusaṅgho
bahutaro hoti sace ekeko bhikkhu paccekaṃ pavāressati saṅghassa
pavāraṇākammaṃ aticiraṃ pavattissati mahallakā ca mahātherā ciraṃ
nisīdituṃ na sakkhissanti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho
samānavassikaṃ pavāreyya.
Bạch Ðại đức Tăng, hãy nghe tôi, hôm
nay ngày rằm là ngày tự tứ, Tỳ-kheo tăng này quá đông nếu mỗi vị Tỳ-kheo
tự tứ riêng biệt thì việc tự tứ sẽ diễn ra rất lâu, các vị đại lão già
cả không thể ngồi lâu được, vậy nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên
tự tứ theo đồng hạ lạp.
*
Sau tuyên ngôn là đến lúc các Tỳ-kheo tự tứ lần lượt. Lời tự tứ, tỏ với Tăng như vầy:
Saṅghaṃ bhante pavāremi diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā vadantu maṃ āyasmanto anukam-paṃ upādāya passanto paṭikarissāmi.
Bạch
quí Ngài, Tôi xin yêu cầu Tăng chúng, quí Ngài hãy vì lòng thương tưởng
mà nhắc nhở tôi nếu thấy hoặc nghe hoặc nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi
sẽ sám hối.
Có thể yêu cầu ba lần, hoặc hai, hoặc một, tùy theo hoàn cảnh thời gian mà trong tuyên ngôn vị luật sư đã đề nghị.
Lại
nữa trong lời tự tứ tỏ với tăng ấy, nếu đối với vị cao hạ nhất trong
tăng hội thì vị ấy sẽ nói āvuso (các hiền giả) thay vì bhante (quí
ngài).
DỨT CÁCH THỨC TĂNG TỰ TỨ.
-ooOoo-
CÁCH THỨC NHÓM TỰ TỨ
(GAṆAPPAVĀRAṆĀ)
Nhóm (gaṇa) là chỉ 2 hoặc 3 hoặc 4 vị Tỳ-kheo. không gọi là tăng tự
tứ vì nếu có 2 vị thì một tự tứ với một, nếu có 3 vị thì một tự tứ với
hai, nếu có 4 vị Tỳ-kheo một tự tứ với ba, như vậy không thành tự tứ với
tăng (4 vị Tỳ khưu).
Tự tứ với Nhóm, không cần vấn đáp luật, chỉ
cần có tuyên ngôn cáo bạch, rồi lần lượt mỗi vị tự tứ. Một vị Tỳ-kheo
thông hiểu hãy tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āyasmanto ajjappavāraṇā paṇ-ṇarasī. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ aññamaññaṃ tevācikaṃ pavāreyyāma.
Thưa
chư Tôn giả, xin hãy nghe tôi, hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ. Nếu đã
hợp thời với chư Tôn giả, chúng ta nên tự tứ với nhau ba lần.
Tiếp đến các vị Tỳ-kheo sẽ lần lượt nói lời tự tứ, như sau:
Ahaṃ
bhante [5] āyasmante pavāremi diṭṭhe-na vā sutena vā parisaṅkāya vā
vadantu maṃ āyas-manto anukampaṃ upādāya passanto paṭikarissāmi.
Dutiyampi ahaṃ .. pe .. Tatiyampi ahaṃ .. pe ..
Bạch quí Ngài,
tôi xin yêu cầu quí Ngài, quí Ngài hãy vì lòng thương tưởng mà nhắc nhở
tôi do đã thấy, đã nghe hoặc nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi sẽ sám hối.
Lần thứ nhì ... Lần thứ ba.
Trường hợp có 2 vị tự tứ với nhau, không cần phải vấn đáp cũng khỏi tuyên ngôn (ñatti), chỉ tỏ lời tự tứ là đủ, nói như sau:
Ahaṃ
bhante āyasmantaṃ pavāremi diṭṭhe-na vā sutena vā parisaṅkāya vā vadatu
maṃ āyasmā anukampaṃ upādāya passanto paṭikarissāmi. Dutiyampi... pe.
Tatiyampi ahaṃ... pe.
Bạch Tôn giả, tôi xin yêu cầu Ngài, xin
Ngài hãy vì thương tưởng mà nhắc nhở tôi do đã thấy, đã nghe, hoặc đã
nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi sẽ sám hối. Lần thứ nhì ... lần thứ ba.
DỨT CÁCH NHÓM TỰ TỨ.
-ooOoo-
CÁCH THỨC CÁ NHÂN TỰ TỨ
(PUGGALAPPAVĀRAṆĀ).
Ðến ngày tự tứ, Tỳ-kheo chỉ có một mình tại trú xứ nhập hạ, phải chú nguyện ngày tự tứ như sau:
Ajja me pavāraṇā paṇṇarasī.
Hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ của ta.
DỨT CÁCH CÁ NHÂN TỰ TỨ.
-ooOoo-
PHÉP DỜI NGÀY TỰ TỨ
(Pavāranāsaṅgahitakaraṇa)
Trong ngày mãn hạ, tức là ngày rằm tháng Kattika (9 âl), nếu chư
tăng ở tại chùa đó có duyên cớ chi đặc biệt nên không thể làm lễ Tự tứ
cùng nhau được thì hãy dời lại vào ngày khác, còn ngày ấy thì làm bố-tát
(uposatha).
Nên cho một vị Tỳ-kheo nào thông hiểu đứng ra tuyên ngôn cáo bạch trình tăng như sau:
Suṇātu
me bhante saṅgho avāsiko. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho idāni
uposathaṃ kareyya pāṭimokkhaṃ uddiseyya āgame kāle pavāreyya.
Bạch
đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Tăng không ở yên, nếu đã hợp thời với
Tăng, bây giờ tăng phải nên làm bố-tát thuyết giới bổn, lúc sau hãy tự
tứ.
Trường hợp tuyên ngôn trình nhóm vài vị Tỳ-kheo thì đọc như sau:
Suṇantu
me āyasmantā avāsikā. Yad'āyas-mantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ idāni
uposathaṃ ka-reyyāma pāṭimokkhaṃ uddiseyyāma āgame kāle pavāreyyāma.
Thưa
chư Tôn giả, xin hãy nghe tôi, các vị không ở yên. Nếu đã hợp thời với
các Tôn giả, thì bây giờ chúng ta chỉ nên làm bố-tát tụng giới bổn, lúc
sau hãy tự tứ.
Ngày tự tứ có thể dời lại ngày sau, tức là trong
hai kỳ bố-tát cuối mùa mưa, cuối tháng chín âl hoặc rằm tháng mười âl,
Nhưng không thể quá mùa mưa.
DỨT LỄ TỰ TỨ.
-ooOoo-
TĂNG SỰ GIAO Y KAṬHINA
(KAṬHINADĀNA)
Sau khi mãn hạ, thời gian từ 16 tháng 9 âl đến rằm tháng10, tháng
cuối của mùa mưa, nếu có thí chủ cúng dường vải may y đến chư Tỳ-kheo,
vị Tỳ-kheo đước phép thọ lảnh để làm y Kaṭhina.
Tại một chùa hay
một trú xứ an cư chư Tỳ-kheo chỉ được phép lãnh y Kaṭhina một lần, một
dịp sau khi ra hạ; chư tăng sẽ chọn giao y Kaṭhina cho một vị Tỳ-kheo
nào đó, vị ấy thọ lãnh (atthataṃ) và các vị khác trong chùa sẽ tùy hỷ
(anumodanā), và như thế tất cả Tỳ-kheo ở đó sẽ được hưởng năm lợi ích
(anisaṃsa) đồng nhau; tức là suốt thời gian từ ngày thọ y đến hết mùa
nắng (gimha-utu) vị Tỳ-kheo lìa tam y cách đêm không phạm tội ưng xả đối
trị, cất giữ y dư quá mười ngày không phạm tội ưng xả đối trị, rủ nhau
thành nhóm thọ thực biết trước món ăn không phạm tội ưng đối trị, đi vào
xóm chưa kiếu từ vị sư bạn cũng không phạm ưng đối trị, và được hưởng
chia bất cứ lợi lộc nào phát sanh tại đấy. Ðó là năm lợi ích cho vị lãnh
và vị tùy hỷ y Kaṭhina .
CÁCH THỨC TÁC THÀNH Y KAṬHINA:
Tăng
sự giao y Kaṭhina túc số tăng tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo, 4
vị giao cho một vị, phải cử hành trong phạm vi Sīmā (ngoại trừ việc
nguyện thọ y và tùy hỷ y, có thể làm ngoài Sīmā).
Vị Tỳ-kheo được
chọn để giao thọ y Kaṭhina phải là vị đã nhập hạ tròn đủ (không đứt hạ,
không phải hậu thời an cư rằm tháng bảy), vị ấy có y cũ rách, thông
hiểu cách thức làm Kaṭhina.
Khi giao y cho vị Tỳ-kheo thọ lãnh Kaṭhina cần phải làm tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidu-tiyakammavācā) như sau:
Suṇātu
me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Yadi saṅghassa
patta-kallaṃ saṅgho imaṃ Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya
Kaṭhinaṃ attharituṃ. Esā ñatti. Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa
Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Saṅgho imaṃ Kaṭhina-dussaṃ Itthannāmassa
bhikkhuno deti Kaṭhinaṃ at-tharituṃ. Yass' āyasmato khamati imassa
Kaṭhina-dussassa Itthannāmassa bhikkhuno dānaṃ kaṭhi-naṃ attharituṃ so
tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnaṃ idaṃ saṅghena
Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno Kaṭhinaṃ attharituṃ. Khamati
saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi.
Bạch đại đức Tăng,
xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Nếu đã hợp thời
với tăng, chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để
làm y Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe
tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Chúng tăng nên giao vải
Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y kaỉhina; sự giao vải Kaṭhina
nầy cho Tỳ-kheo tên vậy làm y Kaṭhina, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì vị
ấy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nói ra.
Vải Kaṭhina
này đã được tăng giao cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina, Tăng chấp
nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
*
Sau
khi tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo được tăng giao vải Kaṭhina phải nhanh chóng
làm cho xong y trong ngày, tuần tự công việc là đo, cắt, lược, may,
giặt, nhuộm, và làm dấu hoại sắc.
Làm dấu hoại sắc, là dùng mực
màu xanh hoặc đen hoặc xám, khuyên tròn bốn góc y, dấu khuyên cỡ bằng
tròng mắt gà, lúc đang làm dấu phải tác ý:
Imaṃ bindukappaṃ karomi,
Ta làm dấu này.
Ngày
nay thí chủ thường dâng Kaṭhina với y may sẳn nên vị Tỳ-kheo không bận
việc may nhuộm nữa, chỉ còn công việc là làm dấu y (bindukappa) thôi.
Làm
dấu y mới xong, phải xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới. Vải Kaṭhina đã
may thành một y nào trong tam y, thì xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới
phải theo thứ đó; chẳng hạn may y Kaṭhina là y Tăng-già-lê (saṅghāṭi),
thì xả bỏ y Tăng-già-lê cũ, và nguyện tên y Tăng-già-lê mới.
Lời xả tên y cũ (paccuddhara) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ [6] paccuddharāmi.
Ta xả bỏ y tăng-già-lê này.
Lời nguyện tên y mới (adhiṭṭhāna) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ adhiṭṭhāmi.
Ta chú nguyện y tăng-già-lê này.
Khi
vị Tỳ-kheo ấy đã hoàn tất y, may làm dấu, chú nguyện, và đắp mặc rồi
hãy đến trước Tăng chúng mà tuyên bố sự thành tựu y Kaṭhina, như sau:
Imāya saṅghaṭiyā [7] Kaṭhinaṃ attharāmi.
Tôi thọ Kaṭhina với y Tăng-già-lê nầy.
Nếu
trong chùa đó có nhiều vị Tỳ-kheo đã cùng nhập hạ thì vị thọ lãnh y
Kaṭhina ấy tiếp theo đó phải kêu gọi các vị trong chùa tùy hỷ Kaṭhina
với mình, hãy nói như sau:
Atthataṃ bhante [8] saṅghassa Kaṭhinaṃ dhammiko Kaṭhinatthāro anumodatha [9].
Bạch quí Ngài, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành, sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp xin quí Ngài hãy tùy hỷ.
Các vị trong chùa ấy đồng nói lời tùy hỷ, như sau:
Atthataṃ āvuso saṅghassa Kaṭhinaṃ dham-miko Kaṭhinatthāro anumodāma.[10]
Hiền giả, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp, chúng tôi xin tùy hỷ.
*
Trong
thời gian hưởng quyền lợi do hiệu lực Kaṭhina, vị Tỳ-kheo đã thọ hoặc
tùy hỷ không nên rời khỏi trú xứ ấy với ý nghĩ là ta sẽ không trở lại
chỗ này; vì hai điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina là y chưa thành
(cīvarapalibodha) và chỗ an cư (āvāsa-palibodha); nay y đã Kaṭhina hoàn
thành rồi, chỉ còn một điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina tức là vương vấn
chỗ an cư.
Tuy nhiên, hiệu lực Kaṭhina vẫn có một lý do khác làm hoại mất, ấy là chư tăng trong chùa đồng lòng xả bỏ hiệu lực.
Khi
có duyên cớ phải xả hiệu lực Kaṭhina, như có thí chủ yêu cầu để cúng
dường lợi lộc đến khách tăng chẳng hạn, thì chư tăng trong chùa nếu xét
hợp lý hãy họp tăng, và làm tăng sự hủy hiệu lực Kaṭhina
(Kaṭhinuddhara). Một vị thông thạo luật sẽ tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Kaṭhinaṃ uddha-reyya. Esā ñatti.
Suṇātu
me bhante saṅgho. Saṅgho Kaṭhinaṃ uddharati. Yass' āyasmato khamati
Kaṭhinassa uddharo so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Ubbhataṃ
saṅghena Kaṭhinaṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī . Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch Ðại đức tăng,xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, thì tăng phải xả bỏ Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch
Ðại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Tăng xả bỏ Kaṭhina Ṣự xả bỏ Kaṭhina,
Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, bằng như vị nào không đồng ý
phải nói ra. Hiệu lực kaỉhina đã được tăng xả bỏ rồi; Tăng chấp nhận nên
mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi Tăng đã
đồng lòng xả bỏ hiệu lực Kaṭhina bằng tăng sự nhị bạch tuyên ngôn như
thế thì hiệu lực Kaṭhina không còn nữa, dù có một vị Tỳ-kheo nào trong
chùa bận vắng mặt không dự tăng sự nhưng cũng hết quả báo (anisaṃsa)
cùng lúc với các vị ở chùa.
DỨT SỰ GIAO Y KAṬHINA
-ooOoo-
TĂNG SỰ KẾT GIỚI SĪMĀ
Sīmā là ranh giới, biên giới, lằn kẽ phân địa hạt. Ðịa phận mà được
ấn định làm ranh nơi tăng hòa hợp giải quyết tăng sự, bằng cách đánh dấu
cột mốc chung quanh, địa phận ấy gọi là vùng Sīmā.
Sīmā hay cương giới có hai loại là:
1. Sīmā có đánh dấu (baddhasīmā) tức là cương giới có đặt cột mốc (nimitta) làm dấu ranh.
2.
Sīmā không đánh dấu (abaddhasīmā) tức là cương giới được giới hạn mơ
hồ, không có đặt cột mốc làm dấu ranh, chẳng hạn như tạm thời ấn định
phạm vi một làng v.v...
Ðề cập đến baddhasīmā (cương giới đặt cột mốc). Loại sīma nầy kiên cố, đảm bảo cho sự hòa hợp tăng hành tăng sự.
Ðiều kiện tác thành cương giới Sīmā là:
a) Hợp lý về dấu ranh (nimittasampatti)
b) Hợp lý về tăng hội thực hiện (parisāsam-patti)
c) Hợp lý về tuyên ngôn tăng sự (kammavā-cāsampatti).
Hợp
lý về dấu ranh, nghĩa là cột mốc (nimitta) phải là vật đúng qui cách
luật cho phép; có 8 thứ là ngọn núi (pabbata), đá tảng (pāsāna), khu
rừng già (vana),cội cây (rukkha), đường lộ (mag-ga), gò mối (vammika),
dòng sông (nadī), vũng nước (udaka). Tám thứ ấy khi lấy làm móc ranh vị
luật sư phải xem xét kỹ chọn cho đúng qui cách, thí dụ lấy đá tảng phải
chọn kích cỡ không lớn quá con bò, trọng lượng nặng trên 64 cân ta (=
38,4 kg) v.v...
Mặt khác, vật ranh ấy phải đặt theo các hướng của
địa bàn, tối thiểu cũng 3 điểm hướng thành hình tam giác, nếu 4 điểm
hướng thành hình tứ giác v.v... không nên chỉ hai hướng hoặc một hướng,
vì không thành hình thức mặt bằng.
Thêm nữa, khi đi xác minh cột
mốc ranh hướng, vị Luật sư phải xác minh theo từng hướng thứ tự và vòng
qua hướng khởi điểm, như thế mới gọi là ranh bao bọc, thí dụ: Ðông - Nam
- Tây - Bắc - Ðông.
Ðiều kiện thứ hai, hợp lý về tăng hội thực
hiện, nghĩa là hội chúng (parisā) Tỳ-kheo phải có túc số tối thiểu từ 4
vị đến nhiều hơn; các vị trong tăng hội phải thanh tịnh, hòa hợp, đứng
hoặc ngồi không cách khoảng nhau quá hắc tay (hatthapāsa) .
Mặt
khác khi tăng thực hiện kết giới phải đứng trong vòng ranh mà ấn định;
không nên đứng phía ngoài vòng ranh mà ấn định Sīmā vì đứng bên ngoài
thực hiện sẽ bất thành Sīmā.
Ðiều kiện thứ ba, hợp lý về tuyên
ngôn tăng sự. Tuyên ngôn (kammavācā) thực hiện kết giới Sīmā phải là
hình thức nhị bạch tuyên ngôn (ñatti-dutiyakammavācā), không thể làm
khác; và phải tùy ý nghĩa loại Sīmā mà lập tuyên ngôn. Có 3 loại hình
Sīmā:
a) Samānasaṃvāsasīmā, cương giới ấn định chỗ cộng trú hòa hợp tăng. Loại sīmā này nhất định phải hình thành trong mọi địa bàn.
b)
Ticīvarāvippavāsasīmā, cương giới ấn định thành nơi cho phép lìa xa tam
y. Loại sīmā này không nhất thiết phải ấn định, có thể hình thành tùy
địa bàn; tức là nơi mà có Samānasaṃvāsasīmā bao trùm cả những trú xứ của
chư Tỳ-kheo, thì Ðức Phật cho phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā
để để các vị Tỳ-kheo khỏi phạm tội do xa lìa tam y cách đêm; tuy nhiên,
nếu mahāsīmā đó tọa lạc trong làng xóm hoặc quá cận làng (gāmañca
gāmū-pacārañca) vẫn không được phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā.
c)
Khaṇḍasīmā, cương giới nhỏ hay cương giới ấn định thành bố-tát đường
(uposathāgārasam-mati). Nếu Mahāsīmā tức samānasaṃvāsasīmā có phạm vi
quá rộng bao gồm cả tăng xá, giảng đường, phòng ăn, nhà xí ... thì để
thuận tiện cho việc họp Tăng làm bố-tát, tự tứ ... Ðức Phật cho phép
Tăng ấn định một ngôi nhà làm bố-tát đường hay chánh điện. Theo đây thấy
rằng, nếu samānasaṃvāsasīma đã ấn định chỉ nội phạm vi chánh điện thì
không cần làm thêm khaṇḍasīmā cũng được; mà làm để đặt tên chùa cũng
được.
Cách thức xác định cột mốc ranh giới.
Nếu không tiện
cho tất cả Tăng đi xem xét cột mốc ranh giới thì nên cử 4 vị Tỳ-kheo
thông hiểu, đi ra xác minh mốc ranh ở các hướng rồi trình lại chư tăng
cũng được.
Xác minh bắt đầu từ hướng Ðông rồi sang hướng Nam,
hướng Tây, hướng Bắc; cũng có thể mốc ranh nằm ở hướng phụ như Ðông nam,
Tây nam, Tây bắc, Ðông bắc ... vị Luật sư phải xác định.
Khi xác
minh mốc ranh, vị luật sư phải hỏi, và một người nào đó đứng gần phải
đáp, rồi vị Luật Sư xác nhận. Cứ thế theo mỗi hướng.
- Hỏi: Puratthimāya disāya kiṃ nimittaṃ?
Ở hướng đông có gì là mốc ranh?
- Ðáp: Pāsāno bhante!
Bạch Ngài, có đá tảng!
- Xác nhận: Eso pāsāmo nimittaṃ.
Mốc ranh là tảng đá đó.
Hướng Ðông nam: puratthimāya anudisāya...
Hướng Nam: dakkhināya disāya ...
Hướng Tây nam: dakkhināya anudisāya ...
Hướng Tây: pacchimāya disāya ...
Hướng Tây bắc: pacchimāya anudisāya ...
Hướng Bắc: uttarāya disāya ...
Hướng Ðông bắc: uttarāya anudisāya ...
Xác minh xong các hướng phải xác minh lại một lần nữa ở hướng khởi điểm:
- Hỏi: Puratthimāya disāya kiṃ nimit-taṃ.
- Ðáp: Pāsāno bhante!
- Xác nhận: Eso pāsāno nimittaṃ.
Cách thức tuyên ngôn kết giới.
Sau
khi đã xác minh mốc ranh chung quanh địa bàn rồi, chư tăng tập trung
một nơi, vị Luật sư hãy trình bày cho Tăng biết các mốc ranh theo phương
hướng; Nếu tất cả Tỳ-kheo nơi ấy đã cùng đi xác minh mốc ranh rồi thì
khỏi phải trình nữa. Tiếp theo đó hãy tuyên ngôn trình tăng ấn định
cương giới Sīmā.
Tuyên ngôn Samānasaṃvāsasīmā:
Suṇātu me
bhante saṅgho yāvatā samantā nimittā kittitā. Yadi saṅghassa pattakallaṃ
saṅgho etehi nimittehi sīmaṃ sammanneyya samānasaṃ-vāsaṃ ekuposathaṃ.
Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yāvatā samantā ni-mittā
kittitā. Saṅgho etehi nimittehi sīmaṃ sam-mannati samānasaṃvāsaṃ
ekuposathaṃ. Yass' āyas-mato khamati etehi nimittehi sīmāya sammati
samāṇasaṃvāsāya ekuposathāya so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya.
Sammatā sīmā saṅghena etehi nimittehi samānasaṃvāsā ekuposathā.
Kha-mati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhā-rayāmi.
Bạch đại đức
Tăng, xin hãy nghe tôi, các mốc ranh đã xác định giới hạn chung quanh.
Nếu đã hợp thời với tăng, Tăng nên ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng
bố-tát, theo các mốc ranh đó. Ðây là lời bố cáo .
Bạch đại đức
Tăng, xin hãy nghe tôi, các mốc ranh đã xác định giới hạn chung quanh.
Tăng ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát, theo các mốc ranh đó.
Sự ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát vị nào chấp nhận thì im
lặng, vị nào không chấp nhận phải nói ra. Cương giới chỗ cộng trú đồng
bố-tát đã được tăng ấn định theo các mốc ranh đó, Tăng chấp nhận nên mới
im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn Ticīvaravippavāsasīmā:
Ticīvarāvippavāsasīmā
là địa phận mà tăng ấn định theo vùng samānasaṃvāsasīmā, có tác dụng để
cho phép khi cư ngụ trong địa phận ấy được phép để rời tam y cách đêm
mà không phạm tội ưng xả đối trị. Loại sīmā này được kết giới phải có đủ
hai điều kiện: nơi mà cách biệt xóm làng, và là nơi đã kết
Samānasaṃvāsasīmā rộng bao trùm các liêu cốc trú xứ. Do đó loại
Ticīvāravippavāsasīmā không nhất thiết nơi nào cũng làm được. Nếu có
làm, đọc tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho yā sā
saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Yadi saṅghassa
pattakallaṃ saṅgho taṃ sīmaṃ ticīvarena avippavāsaṃ sammanneyya ṭhapetvā
gāmañca gāmū-pacārañca. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yā sā
saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Saṅgho taṃ sīmaṃ
ticīvarena avippavāsaṃ sammannati ṭhapetvā gāmañca gāmūpacārañca. Yass'
āyasmato khamati etissā sīmāya ticīvarena avippavāsāya sammati ṭhapetvā
gāmañca gāmūpacārañca so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya.
Sammatā sā sīmā saṅghena ticīvarena avippavāsā ṭhapetvā gāmañca
gāmūpacārañca. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch
đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā nào Tăng đã ấn định là chỗ cộng
trú đồng bố-tát. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên ấn định Sīmā ấy là
nơi lìa xa tam y, ngoại trừ làng và cận làng. Ðó là lời bố cáo.
Bạch
đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā nào Tăng đã ấn định là chỗ cộng
trú đồng bố-tát, bây giờ Tăng ấn định Sīmā ấy thành nơi được xa lìa tam y
ngoại trừ làng và cận làng. Sự ấn định Sīmā ấy thành nơi được xa lìa
tam y ngoại trừ làng và cận làng, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im
lặng, như vị nào không chấp nhận phải nói ra. Sīmā ấy đã được tăng ấn
định thành nơi được xa lìa tam y trừ làng và cận làng, tăng chúng đã
chấp nhận nên mới im lặng, tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn Khaṇḍasīmā:
Khaṇdasīmā
là khu vực nhỏ mà tăng ấn định trên vùng samānasaṃvāsasīmā, vì vùng
Sīmā nầy quá rộng không tiện để họp tăng sự nên phải ấn định một khu vực
nhất là nơi chánh điện, làm tụ điểm. khaṇḍasīmā cũng còn gọi là
uposathāgāra-sammatisīmā. Tuyên ngôn để kết giới khaṇḍasīmā như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ [11] vihāraṃ uposa-thāgāraṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu
me bhante saṅgho. Saṅgho itthan-nāmaṃ vihāraṃ uposathāgāraṃ sammannati.
Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa vihārassa uposa-thāgārassa sammati
so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya sammato saṅghena itthannāmo
vihāro uposathāgāraṃ. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ
dhārayāmi".
Bạch đại đức tăng, xin nghe tôi, nếu đã hợp thời với
tăng, tăng nên ấn định chánh điện "tên vậy" là bố-tát đường. Ðó là lời
bố cáo.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi tăng chúng ấn định
chánh điện "tên vậy" là bố-tát đường. Sự ấn định chánh điện "tên vậy" là
bố-tát đường nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì hãy im lặng, như vị nào
không chấp nhận thì hãy nói ra. Chánh điện "tên này" đã được tăng ấn
định là bố-tát đường, tăng chúng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận
việc đó như vậy.
Cách thức hủy bỏ cương giới Sīmā.
Nơi
nào là phạm vi cương giới Sīmā, nếu tăng không cần sử dụng nữa, hoặc để
dời đi nơi khác, hoặc để làm Sīmā mới hẹp hơn hay rộng hơn, chư tăng
phải hủy bỏ hiệu lực Sīmā cũ đó.
Nếu không hủy bỏ Sīmā cũ mà làm
Sīmā mới đè lên thì Sīmā mới không thành tựu. Ngày nay khi làm Sīmā ở
các chùa đều phải tụng xả Sīmā cũ trước vì lý do ngừa sự bất thành Sīmā
do không biết đã có Sīmā từ xưa rồi làm đè lên nền cũ.
Tụng tuyên
ngôn hủy bỏ Sīmā phải thứ lớp, tức là xả Ticīvaravippavāsasīmā trước,
tụng xả Sa-mānasaṃvāsasīmā sau, vì khi kết giới sīmā làm
Samānasaṃvāsasīmā trước mới làm Ticīvarāvippa-vāsasīmā.
Tuyên ngôn hủy bỏ Ticīvarāvippavāsasīma:
"Suṇātu
me bhante saṅgho yo so saṅghena ticīvarena avippavāso sammato. Yadi
saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho taṃ ticīvarena avippavāsaṃ samū-haneyya.
Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yo so saṅghena ticīvarena
avippavāso sammato. Saṅgho taṃ ticīva-rena avippavāsaṃ samūhanati. Yass'
āyasmato kha-mati etassa ticīvarena avippavāsassa samugghāto so tuṇh'
assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Samūhato so saṅghena ticīvarena
avippavāso. Khamati saṅ-ghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch
đại đức tăng, hãy nghe tôi, cương giới xa lìa tam y mà Tăng đã ấn định,
nếu đã hợp thời với tăng, tăng phải hủy bỏ cương giới xa lìa tam y ấy.
Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, cương giới
xa lìa tam y mà Tăng đã ấn định, tăng hủy bỏ cương giới xa lìa tam y
ấy. Sự hủy bỏ cương giới xa lìa tam y đó, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận
thì im lặng như vị nào không chấp nhận phải nói ra. Cương giới xa lìa
tam y ấy đã được tăng hủy bỏ, tăng chúng chấp nhận nên mới im lặng. tôi
ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn hủy bỏ Samānasaṃvāsasīmā:
Suṇātu
me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā.
Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho taṃ sīmaṃ samūha-neyya. Esā ñatti.
Suṇātu
me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā.
Saṅgho taṃ sīmaṃ samūhanati. Yass'āyasmato khamati etissā sīmāya
samānasaṃvāsāya ekuposathāya sa-mugghāto so tuṇh' assa yassa nakkhamati
so bhā-seyya. Samūhatā sā sīmā saṅghena samānasaṃvāsā ekuposathā.
Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Eva-metaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức
tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā cộng trú đồng bố-tát mà tăng đã ấn định,
nếu đã hợp thời với tăng, tăng nên hủy bỏ Sīmā ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch
đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā cộng trú đồng bố-tát mà tăng đã ấn
định, tăng hủy bỏ Sīmā ấy. Sự hủy bỏ Sīmā cộng trú đồng bố-tát, vị nào
chấp nhận thì im lặng, vị nào không chấp nhận phải nói ra. Sīmā cộng trú
đồng bố-tát ấy đã được tăng hủy bỏ, tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi
ghi nhận việc đó như vậy.
DỨT KẾT GIỚI SĪMĀ
-ooOoo-
[1] Trong ngày tự tứ, nếu ở chùa có vị Tỳ-kheo hữu sự bệnh duyên
không vào tăng hội được thì phải gởi lời chanda và lời pavāraṇā của
mình, nhờ vị khác trình lại Tăng. Nếu có thì vị lảnh lời ấy phải trình
tăng trước khi làm lễ; nếu không thì nói không có.
[2] Phải nói thực tế, hiện có bao nhiêu vị thì nói bấy nhiêu.
[3]
Ngày tự tứ thường là ngày rằm tháng 9 âl, ngày mãn hạ, nhưng tăng có
thể dời lại trể hơn cuối tháng 9 hoặc rằm tháng10; nếu cuối tháng 9 mà
thiếu ngày thì nói catuddasi.
[4] Thay đổi tùy theo điều trở ngại (antarāya) trong 10 điều. Xem trong lễ bố-tát, tụng giới tóm tắt.
[5] Khi vị cao hạ nhất trong chúng, vị ấy phải nói āvuso thay vì bhante.
[6] Nếu là y vai trái thì là uttarasaṅgaṃ, nếu là y nội thì là antaravāsakaṃ.
[7] Với y vai trái thì nói iminā uttarasaṅgena ...; với y nội thì nói iminā antaravāsakena ...
[8] Vị thọ Kaṭhina lớn hạ nhất trong chùa thì nói āvuso.
[9] Kêu gọi 1 vị nhỏ hạ, tùy hỷ với mình, thì nói anumodāhi .
[10] Một mình nói tùy hỷ, thì nói là anumodāmi.
[11] Phải nêu tên chùa đó bằng tiếng Pāli.