Như đã biết, Duy-ma-cật sở thuyết còn có
một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Ðó là tên kinh mà cũng là
tông chỉ của kinh. Chúng ta có thể đi sâu vào tông chỉ của kinh qua hai
phạm trù: tông thể và tông dụng. Tông thể là cơ sở tư tưởng để từ trên
đó Bồ tát triển khai thực tiễn hành đạo của mình. Tông dụng là mục tiêu
và cũng là thực tiễn hành đạo của Bồ tát. Nhu vậy, cơ sở tư tưởng của
Duy-ma-cật là bất tư nghị giải thoát, mà thực tiễn hành đạo của
Duy-ma-cật cũng là bất tư nghị giải thoát. Nói cách khác, ở đây tông
thể của kinh là "nhập bất nhị pháp môn" và tông dụng của kinh là "tịnh
Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh."
Từ quan điểm triết học mà
nhìn, chủ điểm mà kinh lấy làm nền tảng và triển khai nhận thức về thực
tại là nguyên lý bất nhị (advaita). Ðể nhận thức được thực tại chân
tực, bồ tát cần đi qua cánh cửa bất nhị.
Nguyên lý bất nhị
hướng dẫn nhận thức khởi đi từ những thực tại sai biệt mà khám phá ra
thực tại tối hậu là Tuyệt đối thể ngay trong các tồn tại sai biệt ấy.
Tức siêu việt những mặt đối lập của thực tại vốn chỉ tồn tại trong thế
giới danh ngôn và khái niệm, như sinh và diệt, nhiễm và tịnh, sinh tử
và niết bàn. Trước hết, hiện thực được phơi bày với bản tính mâu thuẫn
nội tại của nó. Các khái niệm mâu thuẫn nhau, loại trừ lẫn nhau, cùng
tồn tại như là yếu tính của tồn tại, khiến cho hiện thực xuất hiện
trước nhận thức như là thực tại hư huyễn, và như vậy nhận thức không có
nội dung, trống rỗng.
Thế nhưng, thựïc tại tối hậu, mà nhận
thức đạt được ở đây như là Tuyệt đối thể, nguyên lai là chỉnh thể thống
nhất của hai thái cực mâu thuẫn biện chứng.
Tuyệt đối thể đó
là kết luận của quá trình tư biện, là giới hạn của tri thức duy lý. Nó
tồn tại như khái niệm vô hạn hay vô cực trong toán học. Bản thân của
khái niệm vô hạn là một nghịch lý toán học. Không một phép toán nào khả
dĩ chứng minh tồn tại hiện thực của một thực thể vô hạn. Nhưng nếu loại
bỏ khái niệm vô hạn, thì không một phép tóan nào khả dĩ được thực hiện
trong toán học. Cũng vậy, Tuyệt đối thể là một khái niệm nghịch lý
trong triết học. Nguyên lý bất nhị không thủ tiêu các mặt đối lập và
mâu thuẫn của hiện thực để cho nhận thức đối diện một thế giới trống
rỗng, hư vô. Nguyên lý bất nhị dung hợp các mặt đối lập và mâu thuẫn
của hiện thực thành một Tuyệt đối thể. Nhưng Tuyệt đối thể không được
nhận thức trong từng hiện thực sai biệt; vả lại, ngoài hiện thực sai
biệt cũng không thể nhận thức được Tuyệt đối thể. Nguyên lý bất nhị đẩy
nhận thức diễn qua nhiều đợt khủng hoảng, để rồi cuối cùng đặt nhận
thức trước, hay trong, một thực tại vô ngôn, hoàn toàn im lặng.
Nguyên
lý bất nhị, mà cũng là thực tại bất nhị, là giải thoát bất tư nghị, như
vậy là cánh cửa giao thông cho Bồ tát qua lại giữa niết bàn và sinh tử.
Nếu không được trang bị bằng nguyên lý bất nhị, Bồ tát sẽ không đủ nghị
lực và dũng mãnh để trụ vững trên bồ đề tâm, dù chưa đoạn tận phiền
não. Do đã thấu triệt nguyên lý bất nhị mà thiên nữ, hiện thân như là
thị nữ của Duy-ma-cật, đã đề xuất một tiền đề khiến cho ngài Xá Lợi
Phất phải sửng sốt: đam mê dục vọng, thù hận, và vô minh, chính là chân
tính của giải thoát.