Tra trong Tục-Tạng, chúng tôi thấy có hai bản dịch
khác, thứ nhứt của “Kì-Tân quốc Tam-Tạng Bát-Nhã Cộng Lợi-Ngôn Đẳng Dịch”, thứ
nhì của “Ma-Kiệt-Đề Quốc Tam Tạng Sa-Môn Pháp-Nguyệt Trùng Dịch”.
Người dịch đã khác, đến tên cũng khác. Nếu bản thứ
nhứt đề “Bát-Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh” y như bản của Huyền Trang, bản thứ nhì
lại để là “Phổ Biến Trí Tạng Ba La Mật Đa Tâm Kinh”.
Về nội dung, bản thứ nhứt gần y hệch bản của Ngài
Huyền-Trang ở đoạn giữa, còn bản thứ nhì thì dài hơn và có nhiều chi tiết rất
hữu ích cho ai muốn hiểu sâu bài Kinh rất ngắn nhưng rất hàm súc mà nam nữ đều
tụng đều thuộc.
*
* *
Phần 1 (đăng
trong tạp chí Từ Quang số 189, tháng 5 năm 1968)
Xét về bản thứ nhứt do Ngài Bát-Nhã, Lợi-Ngôn,
v.v.... đời Nhà Đường (Trung-Hoa) dịch.
Đoạn đầu của Kinh như sau:
“Như thị ngã văn: Nhứt thời Phật tại Vương-Xá
thành, Kỳ-Xá-Quật sơn trung, dữ đại ty-khưu chúng cập bồ-tát chúng câu. Thời
Phật Thế-Tôn tức nhập tam-muội danh quảng đại thậm thâm.
Nhĩ thời, chúng trung hữu bồ-tát ma-ha-tát danh
Quán-Tự-tại, hành thâm bát-nhã ba-la-mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, ly chư khổ ách. Tức thời, Xá-Lợi-Phất thừa Phật oai lực, hiệp chưởng
cung kính bạch Quán-Tự-Tại bồ-tát ma-ha-tát ngôn: “Thiện nam tử, nhược hữu dục
học thậm thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành giả, vân hà tu hành?”.
Như thị vấn dĩ, nhĩ thời Quán-Tự-Tại bồ-tát
ma-ha-tát cáo cụ thọ Xá-Lợi-Phất ngôn:
– Xá-Lợi-Tử, nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn,
hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành thời, ưng quán ngũ uẩn tánh không.
Xá-Lợi-Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc”.
Từ đây cho đến hết câu chú “Yết đế, Yết đế. . .”,
hàng hàng chữ chữ, không có gì khác với bản Huyền-Trang. Chính đây là đoạn mà
chúng tôi gọi là đoạn giữa, vì bản dịch của Bát-Nhã và Lợi-Ngôn còn một đoạn
nữa là đoạn chót như sau:
“Như thị, Xá-Lợi-Phất, chư bồ-tát ma-ha-tát, ư thậm
thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành, ưng như thị hành.
Như thị thuyết dĩ, tức thời Thế-Tôn tùng quảng đại
thậm thâm tam-ma-địa khởi tán Quán-Tự-Tại bồ-tát ma-ha-tát ngôn:
– Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, như thị, như
thị, như nhữ sở thuyết, thậm thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành ưng như thị hành.
Như thị hành thời, nhứt thiết Như-Lai giai tất tùy hỉ.
Nhĩ thời, Thế-Tôn thuyết thị ngữ dĩ, cụ thọ
Xá-Lợi-Phất đại hỉ sung biến.
Quán-Tự-Tại bồ-tát ma-ha-tát diệc đại hoan hỉ. Thời
bỉ chúng hội, thiên, nhơn, a-tu-la, càn-thát-bà đẳng, văn Phật sở thuyết giai
đại hoan hỉ, tín thọ phụng hành.”
Nhờ bản dịch này, chúng ta học thêm được những điều
sau đây:
Bài Tâm Kinh được thuyết lúc Phật ở tại thành
Vương-Xá, núi Kỳ-Xà-Quật.
Những lời trong Kinh, không phải của Phật nói mà
của Bồ-tát Quán-Tự-Tại, để trả lời câu hỏi của “cụ thọ Xá-Lợi-Phất”. Cụ thọ có
nghĩa là tuổi thọ đầy đủ, là cụ già, mà có Kinh khác dịch là “Trưởng lão”.
Theo bản của Huyền-Trang, chính Bồ-tát Quán-Tự-Tại
“kiến ngũ uẩn giai không” (thấy năm uẩn đều không). Theo bản của Bát-Nhã và
Lợi-Ngôn thì Bồ-tát Quán-Tự-Tại kêu Xá-Lợi-Phất nói: “... nếu có trai lành, gái
tín nào đi sâu vào Trí sáng tột bựt (bát-nhã) thì trong lúc đi sâu vào ấy, nên
quán sát cái tánh “không” của năm uẩn”.
Như vậy, tác giả “Tâm Kinh Việt giải”–đạo hữu Chánh
Trí–đã có lý khi đạo hữu nói chẳng riêng gì Quán-Tự-Tại Bồ-tát mà tất cả những
những ai hành thâm bát-nhã được thì tất “kiến ngũ uẩn giai không”.
Huyền-Trang và hai ngài Bát-Nhã, Lợ-Ngôn, đều dịch
Kinh dưới thời nhà Đường. Ai dịch trước, ai dịch sau? Chưa có tài liệu nào cho
phép đáp lại câu hỏi này. Tuy nhiên, khi đọc lên hai bản dịch, người vô tư ắt
cảm nghĩ rằng ngài Huyền-Trang có lẽ đi sau và đã tóm tắt lại bản của Bát-Nhã
và Lợi-Ngôn. Thành thật xét nét, dầu có bỏ đoạn đầu “Như thị ngã văn...” và
đoạn chót đã chép lại phía trước, không có gì hại cho nghĩa Kinh. Nhưng rút
ngắn đoạn giữa đến mực “nhổ râu ông này cậm càm bà kia”, thiết tưởng là một lỗi
lầm lớn cần phải hiệu chính.
Để bạn đọc nhận thức rõ phần bị ngài Huyền-Trang bỏ
mất để rút ngắn bài Kinh, chúng tôi xin chép lại nguyên văn bản dịch của hai
ngài Bát-Nhã, Lợi-Ngôn, bằng hai thứ chữ. Chữ đậm chỉ phần ngài Huyền-Trang lấy
dùng, chữ nhỏ chỉ phần bị ngài tướt lượt. Và đây là đoạn được đề cập:
“Nhĩ thời, chúng trung hữu bồ-tát ma-ha-tát danh
Quán-Tự-tại, hành thâm bát-nhã ba-la-mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai
không, ly chư khổ ách. Tức thời, Xá-Lợi-Phất thừa Phật oai lực, hiệp chưởng
cung kỉnh bạch Quán-Tự-Tại bồ-tát ma-ha-tát ngôn: “Thiện nam tử, nhược hữu dục
học thậm thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành giả, vân hà tu hành?”.
Như thị vấn dĩ, nhĩ thời Quán-Tự-Tại bồ-tát
ma-ha-tát cáo cụ thọ Xá-Lợi-Phất ngôn:
– Xá-Lợi-Tử, nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn,
hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa hành thời, ưng quán ngũ uẩn tánh không.
Xá-Lợi-Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc...”.
Thế thì trong 135 chữ của đoạn này, ngài
Huyền-Trang chỉ lấy có 31 chữ, thêm vào hai chữ bồ-tát sau Quán-Tự-Tại và thay
hai chữ ly chư bằng những chữ độ nhứt thiết.
Bớt bỏ như thế có lợi mà cũng có hại. Có lợi ở chỗ
làm cho bài Kinh gọn gãy, dễ học dễ nhớ. Hại ở hai điểm: một là làm tối nghĩa
chữ “không”, hai là gần như xuyên tạc lời dạy của Bồ-tát Quán-Tự-Tại.
Còn một điểm nữa không kém phần quan trọng. Đọc bản
của Huyền-Trang, người ta không biết được những lời trong Kinh là của ai. Nhờ
hai ngài Bát-Nhã và Lợi-Ngôn, nay ta biết là lời của Quán-Tự-Tại. Nhưng lời này
có đúng Chánh-Pháp không? Thật ra, từ xưa đến nay, chưa có ai dám bài bác một
chữ, một câu nào của bản Huyền-Trang, nhưng nếu có người nghi ngờ, người ấy rất
có quyền. Nay thì không được nghi ngờ nữa, vì Phật đã ấn chứng, đã “thị-thực”
lời nói của Bồ-tát Quán-Tự-Tại, như chúng ta thấy trong bản của Bát-Nhã và
Lợi-Ngôn.
Kỳ tới, chúng ta sẽ nghiên cứu bản dịch của ngài
Pháp-Nguyệt.
Phần 2 ((đăng
trong tạp chí Từ Quang số 189, tháng 5 năm 1968)
Kỳ rồi, chúng ta đã xét qua bản dịch Tâm Kinh của
các Ngài Bát-Nhã, Lợi-Ngôn, v.v... Hôm nay, chúng ta sẽ kê cứu bản dịch của
Ngài Pháp-Nguyệt. Bản này đề là “trùng dịch” nghĩa là dịch lần thứ hai, hay
dịch lại?
Ở đây, chúng ta sẽ thấy, như trong bản Bát-Nhã và
Lợi-Ngôn, phần nội dung y hệch như bản của Huyền-Trang, còn phần đầu và phần
cuối khác nhiều.
Nói là trùng dịch, nhưng trùng dịch đối với bản
nào? Đối với bản của Bát-Nhã và Lợi-Ngôn, hay đối luôn với cả bản của
Huyền-Trang? Thật khó mà trả lời. Tuy nhiên, so sánh thì thấy bản Huyền-Trang
gói ghém hơn, và như vậy, trùng dịch là đối với bản của Bát-Nhã và Lợi-Ngôn.
Tựa của Kinh cũng khác hai bản nói trên.
Và dưới đây là bản dịch của Pháp-Nguyệt.
*
* *
Phổ biến Trí-tạng Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
(Tục Tạng Kinh, Quyển I,
trang 353)
Ma-Kiệt-Đề Quốc Tam Tạng Sa Môn Pháp-Nguyệt trùng
dịch.
Như thị ngã văn: Nhứt thời Phật tại Vương-Xá đại
thành, Linh Thứu sơn trung, dữ đại Tỳ-khưu chúng mãn bách thiên nhơn, bồ-tát
ma-ha-tát thất vạn thất thiên nhơn câu. Kỳ danh viết Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn
Thù Sư Lợi Bồ-tát, Di Lặc Bồ-tát đẳng, dĩ vi thượng thủ, giai đắc tam-muội tổng
trì, trụ bất tư-nghì giải thoát.
Nhĩ thời, Quán Tự Tại Bồ-tát ma-ha-tát tại bỉ phu
tọa, ư kỳ chúng trung tức tùng tòa khởi, nghệ Thế Tôn sở, diện hướng hiệp
chưởng khúc cung cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan nhi bạch Phật ngôn:
– Thế Tôn! Ngã dục ư thử hộu trung thuyết chư
Bồ-tát phổ biến trí tạng bát-nhã ba-la-mật-đa tâm, duy nguyện Thế-Tôn thích ngã sở thuyết, vị chư Bồ-tát
tuyên bí pháp yếu.
Nhĩ thời, Thế-Tôn dĩ diệu Phâm âm cáo Quán Tự Tại
Bồ-Tát ma-ha-tát ngôn:
– Thiện tai! Thiện tai! Cụ đại bi giả, thính nhữ sở
thuyết, dữ chư chúng sanh tác đại quang minh.
Ư thị, Quán Tự Tại Bồ-Tát ma-ha-tát mông Phật thính
hứa, Phật sở hộ niệm, nhập ư huệ quang tam-muội chánh thọ. Nhập thử định dĩ, dĩ
tam-muội lực hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn tự tánh
giai không. Bỉ liễu tri ngũ uẩn tự tánh giai không, tùng bỉ tam-muội an tường nhi
khởi, tức cáo huệ mạng Xá Lợi Phất ngôn:
– Thiện nam tử! Bồ-tát hữu bát-nhã ba-la-mật-đa
tâm, danh phổ biến trí tạng, nhữ kim đế thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị
nhữ phân biệt giải thuyết.
Tác thị ngữ dĩ, Huệ mạng Xá Lợi Phất bạch Quán Tự
Tại Bồ-tát ma-ha-tát ngôn:
– Duy Đại Tịnh giả, nguyệt vi thuyết chi, kim chánh
thị thời.
Ư tư, cáo Xá Lợi Phất:
– Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị học: sắc tánh
thị Không, Không tánh thị sắc; sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; sắc tức thị
Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Thức tánh thị Không, Không tánh thị thức. Thức bất
dị Không, Không bất dị thức; thức tức thị Không, Không tức thị thức.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh bất
diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ
tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp,
vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô-minh diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô
lão tử diệc vô lão tử tận. Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở
đắc cố, Bồ-đề tát-đóa y bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư
Phật y bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri bát-nhã
ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng
đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thực bất hư. Cố thuyết bát-nhã
ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế,
bồ đề tát bà ha”.
Phật thuyết thị kinh dĩ, chư tỳ-khưu cập Bồ-tát
chúng, nhứt thiết thế gian thiên, nhơn, a-tu-la, càn-thát-bà đẳng... văn Phật
sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
*
* *
Những đoạn in chữ đậm chỉ phần nội dung giống nhau
giữa ba bản.
Để bạn đọc so sánh phần đầu và phần cuối của bản
Bát-Nhã Lợi-Ngôn và bản Pháp-Nguyệt, chúng tôi dịch ra Việt văn như sau bản của
Pháp-Nguyệt:
“Tôi nghe như vầy: Một lúc nọ, Phật ở tại thành lớn
Vương-Xá, trong núi Linh Thứu, với cả trăm ngàn đại tỳ-khưu và bảy mươi bảy
ngàn bồ-tát ma-ha-tát, có tên là Quán Thế Âm, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc,v.v... Đây
là những bậc trên trước, đều được chánh định và đứng vững trong chỗ giải thoát
không thể nghĩ bàn.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Quán-Tự-Tại, từ nơi chỗ ngồi,
trong giữa đám đông, đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn, ngước mặt chấp tay, cúi đầu
cung kính, ngẫng trông lên Phật, mà bạch nói rằng:
– Thế Tôn! Con muốn, trong đám đông này, nói về tâm
bát-nhã ba-la-mật-đa, gọi là “phổ biến trí tạng”, kính xin Thế Tôn nghe con,
con sẽ vì các Bồ-tát mà tuyên bố cốt yếu của phép sâu kín.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn cất tiếng Phạm Thiên huyền
diệu, bảo Bồ-tát Quán-Tự-Tại:
– Tốt lắm! Tốt lắm! Này bậc đầy đủ đại bi, hãy nói
đi, ta nghe đây, để làm ánh sáng soi đường cho chúng sanh.
Ngay đấy, Bồ-tát Quán-Tự-Tại, đội ơn Phật hứa nghe
và được Phật hộ niệm, nhập vào ánh sáng của chánh định. Nhập vào chánh định
rồi, Bồ-tát dùng sức mạnh của chánh định đi sâu vào bát-nhã ba-la-mật-đa và
chính lúc ấy, soi thấy tự tánh của năm uẩn đều là không. Đã biết rõ ràng tự tánh
của năm uẩn là không, Bồ-tát bèn từ nơi chánh định an lành phát khởi, kêu ông
thông minh Xá-Lợi-Phất nói:
– Này thiện nam tử! Bồ-tát có tâm bát-nhã
ba-la-mật-đa, gọi là phổ biến trí tạng, ông nay nên nghe kỹ và khéo suy gẫm
chính chắn, tôi sẽ vì ông mà phân giải rành mạch.
Mấy lời ấy nói xong, ông thông minh Xá-Lợi-Phất
bạch Bồ-tát Quán-Tự-Tại:
– Xin đấng Đại Tịnh nói đi, nay thật là đúng lúc.
Ngay lúc ấy, Quán-Tự-Tại bảo Xá-Lợi-Phất:
– Các đại Bồ-tát nên học như sau: tánh của sắc là
Không, tánh Không là sắc; sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc; sắc là
Không, Không là sắc; thọ, tưởng, hành, thức, cũng như vậy.
Tánh của thức là Không, tánh Không là thức. Thức
chẳng khác Không, Không chẳng khác thức; thức là Không, Không là thức.”
*
* *
Từ đây đến hết bài chú “Yết đế, ...” trọn đoạn này
giống y như bản của Huyền-Trang, chúng tôi nghĩ không cần dịch tiếp. Còn câu
chót thì gần như câu chấm dứt của các Kinh khác:
“Phật nói kinh này xong, các tỳ-khưu cùng các
Bồ-tát, tất cả trời, người, a-tu-la, càn-thát-bà,v.v... ở thế gian, nghe lời
Phật nói đều hết sức vui mừng, tin lãnh tuân hành.”
Nếu bản của Bát-Nhã Lợi Ngôn đã giúp chúng ta soi
sáng nhiều điểm trước kia còn mờ mịt, bản của Pháp-Nguyệt cũng cho chúng ta
nhiều chi tiết đáng kể.
Trước hết, từ nay chúng ta không còn phân vân về
nghĩa của cái tựa “Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh” mà nhiều nhà biên chú đã giải
ít nhứt bằng hai lối:
Kinh nói về trung tâm của Phật pháp là Bát-nhã
ba-la-mật-đa.
Bài Kinh nằm lòng về Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Nhờ bản dịch của Pháp-Nguyệt, chúng ta thấy hai lối
giải trên đều sai. Cứ theo lời của Bồ-tát Quán-Tự-Tại nói với Xá-Lợi-Phất thì
tựa ấy chỉ có nghĩa là: Kinh nói về Tâm bát-nhã ba-la-mật đa.
Nhưng Tâm bát-nhã. . . là gì? Là “Phổ biến Trí
tạng”. Và “Phổ biến Trí tạng” có nghĩa là: Kho Trí soi sáng khắp cùng. Đây là
nghĩa dịch của danh từ Phạn ngữ Bát-nhã ba-la-mật-đa (Prajna paramita).
Điểm thứ ba mà chúng ta học thêm được là: Tâm là
Trí, Trí là Tâm. Hoặc đúng hơn, nên nói: Trí phổ biến là tên gọi khác của Tâm
bát-nhã ba-la-mật-đa, tức là của Tâm đã sáng suốt triệt để. Tâm ấy là Tâm chánh
định, là Tâm hoàn toàn thanh tịnh, bởi lẽ có hoàn toàn thanh tịnh mới có chánh
định, và có chánh định thì trở nên sáng suốt lạ thường, nên gọi là Trí.
*
* *
Để rộng đường khảo cứu, kể từ kỳ tới chúng tôi sẽ
lần lượt dịch và chú giải bộ Kinh ba quyển tựa đề: Phật thuyết khai giác
Tự-Tánh bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhứt định bộ Kinh này sẽ rọi thêm nhiều ánh sáng
về chữ Không./.