Tăng Chi Bộ Kinh thành cuốn sách có xuất xứ quan trọng về đạo
đức và tâm lý Phật giáo, cung cấp một bản tóm tắt có liệt kê của tất cả
các đặc trưng tinh yếu liên quan đến lý thuyết và thực hành pháp.
Bộ sưu tập những bài kinh này, Tăng Chi Bộ Kinh chứa 9.557 bài kinh ngắn được chia thành mười một chương được gọi (Nipāta). Mỗi chương được chia lại thành nhiều nhóm được gọi là phẩm (vagga)
thường có mười bài kinh. Những bài kinh được sắp theo pháp số thứ tự
lớn dần, mỗi chương gồm nhiều bài kinh có Pháp số, bắt đầu với pháp số
một lên đến pháp số mười một trong mỗi kinh của chương cuối cùng. Từ đó
tên là Tăng Chi nghĩa là ‘tăng lên từng pháp số’. Chương đầu tiên cho
trong mỗi bài kinh mỗi pháp gọi là pháp số một; chương thứ hai trong mỗi
bài kinh chứa hai pháp gọi là pháp số hai và chương cuối được gom từ
những bài kinh có mười một pháp trong mỗi bài kinh gọi là pháp số mười
một.
Tăng Chi Bộ Kinh thành cuốn sách có xuất xứ quan trọng về
đạo đức và tâm lý Phật giáo, cung cấp một bản tóm tắt có liệt kê của tất
cả các đặc trưng tinh yếu liên quan đến lý thuyết và thực hành pháp.
Một phẩm độc nhất vô nhị có tựa đề là phẩm Etadagga của chương Pháp số
một liệt kê danh tánh chư vị đệ tử xuất sắc nhất giữa hàng chư Tỳ khưu,
Tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ, những người đã thành đạt lỗi lạc nhất
trong lãnh vực thành tựu hay làm việc thiện, chẳng hạn đại đức Sāriputta
trong Trí Tuệ ; đại đức Mahā Mogallāna trong Thần Thông; Tỳ kheo ni
Khemā trong lãnh vực Trí Tuệ, Tỳ kheo ni Uppalavaṇṇa trong Thần Thông;
thiện nam Cấp Cô Độc và tín nữ Visākhā trong lãnh vực bố thí; và v.v...
1. CHƯƠNG MỘT PHÁP (Ekaka Nipāta Pāḷi)
Phẩm này chứa một pháp thành chủ đề của các bài kinh được đức Phật
thuyết tại Sāvatthi cho nhiều Tỳ khưu cư ngụ ở đó. Nhưng vài bài kinh
được đại đức Sāriputta hay đại đức Ānanda thuyết.
- Không có sắc, thanh, hương, vị và xúc nào khác hơn sắc, thanh,
hương, vị và xúc của người đàn bà có thể giam cầm và làm xao lãng tâm
trí của người đàn ông; ngược lại không có sắc, thanh, hương, vị và xúc
nào khác hơn sắc, thanh, hương, vị và xúc của người đàn ông có thể giam
cầm và làm xao tâm trí của người đàn bà. (đoạn 1-10)
- Không có gì đem tai hại và bất hạnh quá nhiều như tâm không rèn
luyện và phát triển. Tâm được rèn luyện và phát triển đem lại lợi ích và
hạnh phúc. (đoạn 28-31)
- Không có gì thay đổi nhanh hơn tâm. Bản chất tâm là trong và sáng; nó bị ô nhiễm bởi tham, sân và si. (đoạn 48, 49)
- Nếu Tỳ khưu thực hành thiền tâm từ, và phát triển nó ngay cả trong
thời gian ngắn bằng búng ngón tay, người ấy được xem như hành theo lời
khuyên của đức Phật, làm theo lời ngài chỉ dẫn. Tỳ khưu như thế xứng
đáng độ thực phẩm được dân chúng dâng cúng. (đoạn 53, 54)
- Chỉ có một người duy nhất xuất hiện trong đời đem lại lợi ích và
hạnh phúc cho nhiều người ,đem lại lợi ích cho chư thiên và nhân loại.
Đó chính là Như Lai, bậc Toàn Giác. Thật không thể có hai bậc Toàn Giác
xuất hiện đồng thời trên cùng một hệ thống thế giới. (đoạn 170-174)
- Đối với người có chánh kiến, nghĩa là bậc Nhập Lưu, thật không thể xem các pháp hữu vi là thường, lạc và ta (nicca, sukha, atta).
- Nếu một pháp được phát triển và thường xuyên thực hành, thân được
an tịnh và tâm cũng an tịnh, không còn suy nghĩ lý luận, hết vô minh,
trí tuệ phát sanh, ảo tưởng về ngã được diệt trừ, những khuynh xấu cũng
được trừ diệt, các xiềng xích được loại bỏ. Pháp duy nhất đó là Niệm
Thân. (đoạn 571-576)
2. CHƯƠNG HAI PHÁP (Duka Nipāta Pāḷi)
- Có hai điều ghi nhớ trong tâm là: Không bằng lòng với những gì đã
đạt được trong tiến trình phát triển tâm, nghĩa là ngay cả đắc các tầng
thiền hay cả ánh sáng bên trong (chỉ cho biết ở giai đoạn nào đó của
thiền tuệ), và kiên quyết đấu tranh không mệt mỏi và nỗ lực cho đến khi
chứng ngộ mục đích tối thượng, giải thoát. (đoạn 5)
- Có hai tiềm lực trong con người, làm điều thiện hay làm điều ác.
Thật có thể từ bỏ điều ác; từ bỏ điều ác đem lại lợi ích và hạnh phúc.
Cũng có thể huân tập điều thiện. Huân tập điều thiện cũng mang lại lợi
ích và hạnh phúc. (đoạn 19)
- Hai pháp đưa đến giải thoát trong hai cách: Thiền Định và Thiền
Tuệ. Nếu định phát triển, tâm cũng phát triển và tham ái không còn đưa
đến kết quả tâm giải thoát. Nếu tuệ quán phát triển, trí tuệ phát triển
và vô minh tan biến đưa đến kết quả tuệ giải thoát.
- Có hai ân nhân mà người ta không bao giờ trả được: Mẹ và Cha. Ngay
cả nếu người đó có thể sống một trăm năm để phụng dưỡng cha mẹ chăm sóc
tận tình, thương yêu và phụ giúp mọi điều, người đó cũng không bao giờ
trả hiếu được cho cha mẹ được vì họ đã bảo dưỡng và dìu dắt người đó
trong suốt cuộc đời. Nhưng nếu người đó khiến cha mẹ những người không
có đức tin thành người có đức tin và quy y Phật, Pháp và Tăng; nếu người
ấy làm cho cha mẹ không giữ giới trở nên người thọ trì giới; nếu người
ấy khiến cha mẹ có tính keo kiệt trở nên rộng lượng hầu họ có thể san sẻ
của cải họ cho người nghèo và người cần; nếu người ấy khiến cha mẹ
không biết gì về giáo pháp trở thành người hiểu biết Tứ Diệu Đế, lúc đó
người như thế mới có thể trả hiếu cho cha mẹ và trả nhiều hơn những gì
họ đã cho người ấy. (đoạn 33, 34)
- Có hai loại hạnh phúc: Hạnh phúc trong đời sống gia đình và hạnh
phúc trong đời sống vô gia đình. Hạnh phúc trong đời sống vô gia đình
thù thắng hơn. Hạnh phúc của các dục và hạnh phúc xả ly; hạnh phúc xả ly
thù thắng hơn. Hạnh phúc có cấu uế và hạnh phúc không ô uế;... Hạnh
phúc nhục dục và hạnh phúc không nhục dục... và hạnh phúc thấp hèn và
hạnh phúc cao thượng;.... Hạnh phúc thể xác và hạnh phúc tinh thần; hạnh
phúc tinh thần là thú thắng hơn. (đoạn 65-71)
3. CHƯƠNG BA PHÁP (Tika Nipāta Pāḷi)
* Kẻ ngu có thể được nhận biết qua ba điều, bằng cách cư xử của nó
trong hành động, lời nói và tư tưởng; cũng vậy người trí cũng được biết
qua ba điều, qua cách ứng xử của người đó trong hành động, lời nói và tư
tưởng. (đoạn 3)
* Có ba nơi một vị vua đang trị ví không nên quên: Nơi sinh, nơi đăng
quang và nơi chiến thắng quân thù. Có ba nơi một vị Tỳ khưu không nên
quên: Nơi xuất gia, nơi thành tựu trí tuệ trong Tứ Thánh Đế và nơi đắc
quả vị A-la-hán. (đoạn 12)
* Ai làm việc tích cực hết mình vào buổi sáng, trong ngày và vào
chiều tối, sẽ phát đạt, và trở nên giàu có; vị Tỳ khưu cống hiến hết
mình vào việc phát triển định vào buổi sáng, trong ngày và buổi chiều sẽ
tiến bộ và thăng tiến trong sự nghiệp phát triển tinh thần của vị ấy.
(đoạn 13)
* Trên đời này có ba hạng người được tìm thấy: Một hạng có tâm như
vết thương há miệng; một có tâm như đèn nháy; một hạng có tâm như kim
cương.
Ai là người rất dễ nổi giận và dễ bị kích động, hiện ra sự tức giận,
căm thù và hờn dỗi; người như thế được cho là người có tâm như vết
thương há miệng.
Ai là người hiểu đúng Tứ Diệu Đế được cho là người có tâm như đèn
nháy. Ai là người đã hủy diệt mọi ô nhiễm trong tâm và chứng ngộ sự giải
thoát tâm và giải thoát tuệ được cho là người có tâm như kim cương.
(đoạn 25)
* Trên đời này có ba loại người: Người nói lời có mùi hôi thối khó
chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật. (đoạn
28)
* Có ba nhân căn để của sự phát sanh mọi hành động (nghiệp): Tham,
sân và si. Một hành động được làm bằng tâm tham, sân và si sẽ chín muồi
bất cứ ở cảnh giới nào người ấy tái sanh vào; và bất cứ ở đâu hành động
đó chín muồi, ở đó người ấy gặt quả (vipāka) của hành động đó,ở với nó trong đời này, trong đời sau và trong nhũng vị lai. (đoạn 38)
* Người nào ngăn cản người khác bố thí, tức là ngăn cản và gây chướng
ngại cho ba người. Người ấy gây chướng ngại đến những việc thiện của
thí chủ; người ấy ngăn cản người nhận nhận tặng vật; người ấy phá ngầm
và làm hại tính cách của riêng mình. (đoạn 58)
* Ba nguy hiểm mà người mẹ không thể che chở cho con trai và con trai không thể che chở cho mẹ: Già, bệnh và chết. (đoạn 63)
* Kinh Kesamutti cũng được biết như là kinh Kālāma, xuất hiện như bài
kinh thứ năm trong Đại Phẩm của chương có Pháp Ba Số. Tại Kesamutta,
một thành phố nhỏ trong vương quốc của xứ Kosala, đức Phật đã khuyên nhủ
dân Kālāma ở trong thành phố này: “Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có
tin vì truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống. Chớ có tin vì
được kinh điển truyền tụng, chớ có tin vì lý luận suy diễn, chớ có tin
vì diễn giải tương tự, chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện, chớ
có tin vì phù hợp với định kiến, chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy
quyền, chớ có tin vì sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kālāma, khi nào
tự mình biết như sau: “Các pháp này là sai, bất thiện, thì từ bỏ
chúng; Các pháp này là pháp thiện, các pháp nào đó là đúng, thiện, tốt,
thì chấp nhận chúng, và hành theo chúng”. (đoạn 66)
* Một vị Tỳ khưu tận tụy với đời sống phạm hạnh nên chú tâm quân bình
vào ba yếu tố thay phiên nhau, đó là, định, tinh tấn và xả, và không
chú tâm quá vào duy nhất một pháp nào. Nếu vị ấy thường xuyên chú tâm
vào mỗi pháp nào trong chúng, tâm vị ấy sẽ trở nên mềm dẻo, dễ uốn,
trong sáng và tập trung tốt, sẵn sàng hướng tâm tới bất cứ trạng thái
tâm nào đều có thể nhận thức được nhờ trí tuệ siêu nhiên. (đoạn 103)
* Có ba người hiếm quý nhất trên đời: Như Lai là Bậc Toàn Giác là
hiếm có trên đời; người có thể tuyên thuyết Giáo Pháp và Giới Luật như
đã được đức Phật giảng dạy là hiếm có trên đời này; và người biết ơn và
đền ơn là người hiếm có trên đời này.
* Cho dù Như Lai xuất hiện trên đời này hay không, sự kiện này vẫn
giữ duyên tồn tại một cách vững chắc, không thể thay đổi được rằng tất
cả sự hình thành các pháp hữu vi là vô thường, rằng tất cả sự hình thành
các pháp hữu vi là khổ, rằng tất cả các pháp đều vô ngã. (đoạn 137)
4. CHƯƠNG BỐN PHÁP (Catuka Nipāta Pāḷi)
* Bốn người này được tìm thấy trong đời: Người đi thuận dòng; người
thì đi ngược dòng; người đứng vững vàng, người đã vượt qua bờ kia và
đứng trên đất khô ráo.
Người nào đắm say dục lạc và phạm ác nghiệp là người là người đi
thuận dòng. Người không đắm say dục lạc hay không phạm ác nghiệp, mà
sống đời trong sạch trinh tiết, phấn đấu rất vất vả và khó khăn để làm
được vậy, là người đi ngược dòng. Người đứng vững vàng là người đã tận
diệt năm hạ phần kiết sử sẽ được hóa sanh vào cõi Phạm thiên, từ đó vị
ấy chứng ngộ Niết bàn mà không từng trở lại dục giới. Người đã đến bờ
kia đứng trên đất khô là người đã tận diệt mọi lậu hoặc trong tâm, và ai
đã tự thân chứng ngộ, ngay trong kiếp sống này, tâm giải thoát và tuệ
giải thoát. (đoạn 5)
* Có bốn Chánh Tinh Tấn: (i)Tinh tấn nỗ lực tránh tâm ác và bất thiện
phát sanh; (ii) Tinh tấn nỗ loại bỏ tâm ác, bất thiện đã phát sanh rồi;
(iii) Tinh tấn nỗ lực khới sanh tâm tốt, thiện chưa sanh; (iv) Tinh tấn
nỗ lực phát triển và thực hiện hoàn hảo tâm tốt, thiện đã sanh rồi.
(đoạn 13)
* Như Lai nói như thế nào thì Như Lai làm như vậy; Như Lai làm như
thế nào thì Như Lai nói như vậy. Do đó được gọi là Như Lai. (đoạn 23)
* Có bốn loại đức tin cao nhất: Như Lai, Bậc Toàn Giác và Tối Thượng,
là cao nhất trong tất cả chúng sanh. Trong tất cả các pháp hữu vi, Bát
Chánh Đạo là pháp cao nhất. Trong tất cả các pháp hữu vi và vô vi, Niết
bàn là pháp cao thượng nhất. Trong tất cả các đoàn thể, Tăng đoàn của
Như Lai, Tăng đoàn gồm các bậc cao thượng bốn đôi, tám Bậc Thánh, là cao
nhất. Đối với những ai có đức tin trong những pháp cao nhất, đó là đức
Phật, Con Đường, Niết bàn và Chư Thánh sẽ gặt hái được quả của nghiệp
cao nhất cho họ. (đoạn 34)
* Có bốn cách ứng xử với các câu hỏi (i) Vài câu nên được trả lời
trực tiếp, (ii) Những câu khác nên được trả lời bằng cách phân tích
chúng, (iii) Vài câu nên được trả lời bằng cách hỏi ngược lại, (iv) Cuối
cùng, vài câu hỏi nên chỉ đơn giản dẹp qua một bên. (đoạn 42)
* Có bốn loại xuyên tạc (vipallāsa) trong nhận thức, tư
tưởng và quan niệm. Nghĩ rằng có thường trong vô thường; cho rằng có
hạnh phúc trong khổ; nghĩ rằng có ngã trong vô ngã; cho rằng có tịnh
trong bất tịnh. (đoạn 49)
* Khi Nakulapitā và Nakulamātā bày tỏ mong ước của họ đối với đức
Phật là có tham vọng khác bao lâu đời sống hiện tại còn kéo dài và đời
sống vị lai cũng vậy, đức Phật khuyên chúng cố gắng có cùng một đức tin,
cùng một giới hạnh, cùng bố thí và cùng trí tuệ; rồi họ sẽ đạt được như
nguyện (đoạn 55-56)
* Người bố thí vật thực cho bốn pháp đến người nhận vật thực đó.
Người ấy cho họ trường thọ, sắc đẹp, hạnh phúc và sức mạnh. Chính thí
chủ cũng sẽ được trường thọ, sắc đẹp, an vui và sức mạnh bất cứ nơi nào
người ấy được sinh vào cõi người hay cõi trời. (đoạn 57)
* Có bốn chủ đề không thích hợp với tư tưởng suy đoán (Acinteyyāni). Chúng là: Những phẩm tính đặc biệt của đức Phật (Buddhavisayo); việc đắc thiền của một người; quả của nghiệp và bản chất của thế giới tâm (lokacintā). Những điều không thể nghĩ bàn này là không được nghĩ về; nếu nghĩ về chúng sẽ dẫn người đó bị tâm thần và mất trí. (đoạn 77)
* Có bốn pháp liên quan mà không ai cho dù Sa-môn, Bà-la-môn, chư
thiên, ma vương hay ai khác trong thế gian này có thể bảo đảm được:
- Đó là những gì phải chịu hoại diệt không nên hoại diệt.
- Đó là những gì phải bệnh không nên ngã bệnh.
- Đó là những gì phải chịu chết không nên chết; và
- Đó là không có quả nào đến trước do những ác nghiệp trước kia đã làm. (đoạn 182)
* Có bốn cách qua đó tính cách của một người có thể phán đoán:
Phẩm hạnh của người đó được người thông minh và có trí tuệ biết bằng
cách quan tâm kề cận sau khi sống chung với người đó một thời gian rất
dài. Phẩm chất trung thực của người đó có thể được người thông minh và
có trí tuệ biết bằng cách giao dịch với người đó. Tính can đảm chịu đựng
có thể được người thông minh có trí tuệ biết bằng cách quan sát với sự
chú tâm cận kề trong thời kỳ khốn khổ. Trí tuệ của người đó có thể được
người thông minh và có trí tuệ biết khi nói chuyện với người đó về những
đề tài khác nhau trong một thời gian dài. (đoạn 192)
* Có bốn pháp đưa đến sự phát triển trí tuệ: Thân cận với người tốt;
nghe Pháp hay; duy trì thái độ đúng của tâm và sống hành theo pháp.
(đoạn 248)
5. CHƯƠNG NĂM PHÁP (Pañcaka Nipāta Pāḷi)
* Có năm sức mạnh con người có được trong khi rèn luyện đạt được
thượng trí: Tín, tàm quí, tinh tấn và trí tuệ. Vị ấy tin tưởng vào sự
giác ngộ của đức Phật; vị ấy cảm thấy xấu hổ vì tà hạnh trong việc làm,
lời nói và tư tưởng; vị ấy sợ bất cứ điều xấu và bất thiện; vị ấy sanh
khởi năng lượng để diệt trừ mọi thứ bất thiện và đạt được mọi điều
thiện; vị ấy nhận thức các hiện tượng thường xuyên sanh, diệt và như thế
được tuệ quán trang bị, cuối cùng sẽ dẫn đến Niết bàn, chấm dứt khổ.
(đoạn 2)
* Cũng có năm pháp khác, đó là tín, tấn, niệm, định và tuệ. Sức mạnh
của tín được thấy trong bốn phẩm chất đặc biệt của bậc Thánh Nhập Lưu;
sức mạnh của tấn được thấy trong Chánh Tinh Tấn; sức mạnh của niệm được
thấy trong Tứ Niệm Xứ và sức mạnh của định được thấy trong bốn tầng
thiền; sức mạnh của tuệ được thấy trong sự nhận thức các hiện tượng
thường sanh rồi diệt, tuệ mà cuối cùng dẫn đến Niết bàn. (đoạn 14)
* Các chất ô nhiễm làm hỏng vàng là sắc, thiếc, chì, bạc, và các kim
loại khác. Các chất ô nhiễm làm tâm ô nhiễm là tham dục, sân, hôn trầm
thụy miên, trạo cử hối quá và nghi. (đoạn 23)
* Người bố thí vật thực thù thắng hơn người không bố thí vật thực về
năm phương diện, về tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, danh tiếng và quyền lực,
dù cả hai đều được tái sanh vào cõi trời hay cõi người. Sự khác nhau về
năm phương diện này sẽ tiếp tục mãi cho đến khi giải thoát được đạt. Lúc
đó không có sự phân biệt giữa giải thoát của một người hay người khác
hay giữa một A-la-hán với một A-la-hán khác. (đoạn 31)
* Có năm điều quán tưởng mà mọi người, Tỳ khưu hay cư sĩ, đàn ông hay đàn bà phải thực hiện:
(i) Tôi chắc chắn phải già. Tôi không thể tránh tuổi già.
(ii) Tôi chắc chắn sẽ ốm yếu và bệnh hoạn. Tôi không thể tránh khỏi bệnh tật.
(iii) Tôi chắc chắn phải chết. Tôi không thể tránh cái chết
(iv) Tất cả những thứ yêu và thương sẽ không kéo dài lâu. Chúng sẽ phải chịu sự thay đổi và phân ly.
(v) Nghiệp của tôi (hành động ở quá khứ và hiện tại) là tài sản của
tôi, nghiệp là người thừa kế của tôi, nghiệp là nhân duyên duy nhất của
tôi là, nghiệp là quyến thuộc của tôi, hộ trì duy nhất cho tôi. Bất cứ
những hành động nào tôi làm, tốt hay xấu, tôi sẽ trở thành người thừa kế
của chúng. (đoạn 57)
* Năm tiêu chuẩn được thiết lập cho việc giảng dạy Pháp: Pháp nên
được dạy từ chưa biết đến biết, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó; Pháp
được dạy nên được dạy như những bài kinh có lý luận giỏi; Pháp nên được
dạy vì lòng bi mẫn và cảm thông; pháp không nên được dạy vì danh và lợi
thế gian; Pháp nên được dạy mà không ám chỉ chính mình hay ám chỉ người.
(đoạn 159)
* Có năm cách để thoát khỏi sự uất: Nếu phẫn uất phát sanh đối với
bất cứ người nào, thì vị ấy nên tu tâm từ, bi hay xả đối với người đó.
Hay vị ấy không nên chú ý đến người đó và chớ nghĩ gì về người đó cả.
Hay vị ấy có thể dụng đến ý nghĩ rằng: Hành động của người đó là tài sản
duy nhất của người đó; bất cứ điều gì người đó làm, tốt hay xấu, người
đó sẽ là người thừa kế những hậu quả của hành động đó. Trong cách này,
mọi phẩn phát sanh lên đều có thể tiêu tan. (đoạn 161)
* Cư sĩ không nên sống theo các tà mạng sau đây: Buôn bán súng ống và
các loại vũ khí giết hại; buôn bán chúng sanh sống (nô lệ); buôn bán
thịt; buôn bán rượu và các chất say; buôn bán chất độc. (đoạn 177)
6. CHƯƠNG SÁU PHÁP (Chakka Nipāta Pāḷi)
* Có sáu pháp không thể vượt trội: Những pháp cao thượng nhất được
thấy, những pháp cao thượng nhất được nghe; đạt được pháp cao thượng
nhất, học pháp cao thượng nhất, phục vụ pháp cao thượng nhất, và quán
tưởng pháp cao thượng nhất. Hình ảnh Như Lai và chư vị đệ tử ngài là
pháp cao thượng nhất được thấy. Nghe Pháp từ kim khẩu của Như Lai hay
chư vị đệ tử ngài là pháp cao thượng nhất được nghe. Có đức tin trong
sạch vào Như Lai và chư vị đệ tử ngài là đạt cao thượng nhất. Học giới
thù thắng (adhisīla), phát triển tâm siêu việt (adhicitta) và trí tuệ siêu việt (adhipaññā)
là học cao thượng nhất. Phục vụ Như Lai và chư vị đệ tử ngài là phục vụ
cao thượng nhất. Quán tưởng giới hạnh của Như Lai và chư vị đệ tử ngài
là quán tưởng cao thượng nhất. (đoạn 30)
* Có sáu loại khổ trên đời đối với người đắm say dục lạc: Nghèo khổ,
mang ơn, nợ nần, nợ buộc phải trả, bị cưỡng bức bởi luật vua phép nước,
tù tội.
Tương tự trong giáo pháp của chư vị Thánh, người bị coi là nghèo khổ
và cơ cực là người thiếu đức tin vào những điều thiện, không có tàm quí,
không có tinh tấn và không hiểu pháp nào là tốt, và người cư xử tồi với
chính mình trong hành động, lời nói và tư tưởng. (đoạn 45)
* Có sáu bước để được giải thoát: Thu thúc lục căn cung cấp nền tảng
cơ bản cho giới. Giới cung cấp nền tảng cho Chánh Định. Chánh Định cung
cấp nền tảng cho hiểu thực tướng của các hiện tượng tâm vật lý. Nhờ hiểu
biết bản chất thực của các hiện tượng tâm vật lý đưa đến sự từ bỏ và xả
ly. Ở đâu có từ bỏ và xả ly ở đó phát sanh trí tuệ và tri kiến giải
thoát. (đoạn 50)
* Có sáu pháp được biết: Tham dục, thọ, tưởng, lậu hoặc (āsava),
nghiệp và khổ nên được biết, nhân duyên sanh khởi của chúng nên biết,
sự thay đổi đa dạng của chúng nên biết, hậu quả của chúng nên biết sự
diệt của chúng và con đường dẫn đến sự diệt của chúng nên được biết.
Con đường dẫn đến sự diệt của tất cả các pháp này là Bát Chánh Đạo. (đoạn 63)
* Có sáu pháp xuất hiện rất hiếm trên đời: Hiếm thay có bậc Toàn Giác
xuất hiện trên đời. Hiếm thay có người giảng dạy Giáo Pháp và Giới Luật
như đức Phật đã tuyên thuyết. Hiếm thay được tái sinh trong vùng đất
của chư vị Thánh; hiếm thay có lục căn hoàn hảo; hiếm thay không bị câm
ngọng và ngu dốt; hiếm thay có tâm ham thích làm việc phước thiện. (đoạn
96)
* Có sáu lợi ích khi chứng ngộ quả Nhập Lưu: (i) Tín tâm bất động
trong Pháp; (ii) Không thể rơi trở lại; (iii) Giới hạn khổ trong vòng
luân hồi (chỉ còn bảy kiếp nữa); (iv) Có được trí tuệ siêu nhiên mà
không thể chia xẻ với người đời bình thường; (v) và (vi) Hiểu biết rõ
ràng nhân duyên và các hiện tượng sanh khởi từ đó. (đoạn 97)
7. CHƯƠNG BẢY PHÁP (Sattaka Nipāta Pāḷi)
* Có bảy yếu tố dành được sự tôn trọng và cung kính của chư huynh đệ
đồng đạo: Không tham lợi; không muốn được người cung kính nhưng bàng
quang với chú ý; hổ thẹn làm điều xấu ác (tàm); sợ hãi điều xấu ác; và
ít muốn; và có chánh kiến. (đoạn 1)
* Vị Tỳ khưu trở nên ruộng phước màu mỡ, khi vị ấy biết văn bản của
giáo Pháp, biết nghĩa của giáo Pháp, cũng biết chính mình, biết giới hạn
để nhận vật cúng dường, biết đúng cho nhũng hoạt khác nhau, biết tâm lý
của thính giả, và biết khuynh tâm linh của mỗi người. (đoạn 68)
* Nếu vị Tỳ khưu phát triển tâm trong Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ
Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Bảy Yếu Tố Giác Ngộ, Bát Chánh Đạo, vị ấy sẽ
thoát khởi lậu hoặc, không còn dính mắc gì cả, cho dù vị ấy muốn giải
thoát hay không. (đoạn 71)
* Đời người ngắn ngủi như giọt sương rơi trên đầu ngọn cỏ; như bong
bóng nước khi mưa rơi; như một đường được cái que vạch trên nước; như
thác nước trên núi, như cục nước miếng trên đầu lưỡi; như miếng mỡ được
ném vào trong chảo sắt cực nóng; và như con bò cái bị dẫn đi làm thịt,
mỗi khi cất một bước chân đi, sẽ càng gần đến người đồ tể, càng gần cái
chết hơn. (đoạn 74)
* Những pháp nào dẫn đến từ bỏ, hoàn toàn lánh xa thế tục, xả ly,
diệt và an tịnh, chánh trí, giác ngộ và Niết bàn - những pháp như thế có
thể được xem là Chân Pháp và giới Luật, như giáo Pháp của đức Phật.
(đoạn 83)
8. CHƯƠNG TÁM PHÁP (Aṭṭhaka Nipāta Pāḷi)
* Có tám lợi ích tích lũy từ pháp hành về tâm từ: Hễ ai hành thiền
tâm từ đều được ngủ ngon, thức dậy tươi, khoẻ, không bị ác mộng quấy
rối, được người và phi nhân cung kính tôn trọng, được chư thiên theo hộ
trì, không bị lửa, thuốc độc và khí giới làm hại và khi chết nhất định
được tái sanh vào cõi trời Phạm Thiên. (đoạn 1)
* Có tám ngọn gió đời, sự thăng trầm vần xoay của cuộc đời: Được - mất, thành - bại, khen - chê, vui - khổ. (đoạn 546)
* Có tám lực: Lực của đứa bé nằm trong tiếng khóc; của đàn bà trong
cơn giận; của kẻ cướp trong vũ khí của nó; của ông vua trong vương quyền
của nhà vua, của kẻ thiếu trí trong chỉ trích và chửi rủa; của bậc trí
trong sự suy xét cân nhắc cẩn thận về tiến hay thoái;của người có tri
thức trong sự cẩn trọng; và sức mạnh của vị Tỳ khưu nằm trong sự can đảm
và nhẫn nhục của vị ấy. (đoạn 27)
* Tám đại quán tưởng của đại đức Anurudha về pháp: Pháp này dành cho
người ít muốn (thiểu dục) không phải dành cho người nhiều ham muốn (đa
dục). Pháp này dành cho người biết đủ, không phải dành cho người không
biết đủ.. Pháp này dành cho người thích độc cư, không phải cho người
thích bầu bạn. Pháp này dành cho người có chánh niệm tỉnh giác, không
phải cho người bất cẩn. Pháp này dành cho người có tâm tập trung, không
phải cho tâm tán loạn. Pháp này dành cho người trí, không phải cho người
không có trí thông minh. Pháp này cho người vui thich Niết bàn, không
phải cho người vui thích chuyện đời (ngã mạn, tham ái và tà kiến). (đoạn
30)
* Bậc Thánh có tám cách nói: Không thấy, vị ấy nói không thấy; không
nghe vị ấy nói không nghe; không cảm giác, vị ấy nói không cảm giác;
không biết vị ấy nói không biết. Đã từng thấy, vị ấy nói đã từng thấy;
đã từng nghe, vị ấy nói đã từng nghe; đã từng cảm giác, vị ấy nói đã
từng cảm giác và đã từng biết vị ấy nói đã từng biết. (đoạn 68)
9. CHƯƠNG CHÍN PHÁP (Navaka Nipāta Pāḷi)
* Bậc A-la-hán không tham đắm trong chánh pháp: Bậc A-la-hán không có
ý định sát hại một chúng sanh nào; không lấy với ý định ăn cắp của
không cho; không hành dâm; không nói những gì không thật biết rằng nó
không thật; không hưởng lạc thú; không thành kiến vì ưa thích, vì sân
hận, vì si mê hay vì sợ. (đoạn 7)
* Nơi cư ngụ của người đời có chín đặc điểm mà vị Tỳ khưu không nên
viếng thăm hay ở lại: Nơi vị Tỳ khưu không được chào đón hay được tỏ ra
hoan hỷ hay được mời ngồi; nơi vật thực được cất giấu; nơi ít thì cho đi
mặc dầu nhiều cũng cung cấp được; nơi thực phẩm kém được dâng cúng mặc
dầu có sẵn thực phẩm tốt hơn; nơi vật dâng cúng được làm một cách không
tôn kính; nơi người đời không đến gần tỳ khưu để nghe pháp, và nơi khi
giảng pháp cho thấy ít quan tâm. (đoạn 17)
* Có chín cách trong đó hình thành sự phẫn uất: Nó đã hại ta, nó đang
hại ta, nó sẽ hại ta; nó đã hại người ta thương yêu, nó đang hại người
ta thương yêu, nó sẽ hại người ta thương yêu; nó đã làm điều tốt cho
người ta không thích, nó đang làm điều tốt cho người ta không thích; nó
sẽ làm điều tốt cho người ta không thích. (đoạn 62)
* Có chín pháp nên được diệt trừ để hoàn thành việc chứng ngộ
A-la-hán quả: Tính dục, ác ý, sân hận, phẫn uất, vô ơn, đố kỵ, ghen tị,
keo kiệt. (đoạn 62)
10. CHƯƠNG MƯỜI PHÁP (Dasaka Nipāta Pāḷi)
* An trú trong giới có mười lợi ích: Người an trú trong giới cảm thấy
hài lòng; hài lòng nên cảm thấy vui; vui nên toại nguyện; toại nên cảm
thấy an tịnh, khi an tịnh thì cảm thấy an lạc; khi cảm thấy an lạc thì
tâm vị ấy tập trung; nhờ tâm tập trung, vị ấy thấy pháp như chúng đang
là; thấy pháp như chúng đang là, vị ấy trở nên vỡ mộng và bình thản đối
với tất cả các pháp; khi không còn đam mê hay dính mắc, vị ấy đạt được
tâm giải thoát và tuệ giải thoát. (đoạn 1)
* Có mười kiết sử: Thân kiến, (Sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi,
thực hành lầm lạc chỉ thuần nghi thức và tế lễ như là con đường chân
chánh (giới cấm thủ), tham dục, sân hận, sắc ái và vô sắc ái, ngã mạn,
trạo cử. (đoạn 112)
* Chỉ như người đàn ông hay đàn bà nhìn vào trong gương để tìm ra
liệu có vết bẩn nào trên mặt không, cũng vậy vị tỳ khưu cần thiết thỉnh
thoảng tham gia vào cuộc tự - khảo sát để thấy liệu có tham, sân, hôn
trầm thụy miên sanh trong tâm vị ấy không; liệu có lo lắng và hồi hộp,
và nghi ngờ còn tồn tại không; liệu vị ấy thoát khỏi sân và tâm vị ấy bị
ô nhiễm bởi những tư tưởng bất thiện hay không; liệu thân vị ấy có dễ
chịu không bị trạo cử; liệu vị ấy bị lười biếng hay không; và liệu vị ấy
có tâm định với sự ý thức rõ ràng hay không. (đoạn 51)
* Có mười pháp có được bởi người đã hoàn thành, bậc A-la-hán: Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định, Chánh Tuệ và Chánh Giải Thoát. (đoạn112)
11. CHƯƠNG MƯỜI MỘT PHÁP (Ekādasaka Nipāta Pāḷi)
* Có mười một loại hủy hoại, bất cứ loại nào trong số này đều có khả
năng làm xảy vị Tỳ khưu người chửi rủa chư Tỳ khưu đồng đạo: Vị ấy tinh
tấn nhưng thiếu tiến bộ; suy thoái từ giai đoạn đã thành tựu; vị ấy hiểu
pháp nhưng bị ô nhiễm và cấu uế; bị tính tự kiêu ngã mạn của mình khống
chế; không an lạc trong đời sống phạm hạnh; có khả năng phạm những tội
lỗi trái với giới luật; có khả năng trở lại đời sốnng tại gia, có khả
năng bị khổ sở vì bệnh bất trị; có khả năng bị rối loạn tâm thần; tâm lú
lẫn hỗn loạn khi chết và có khả năng bị đoạ địa ngục. (đoạn 6)
* Có mười một điều lợi ích rút ra từ việc huân tập và phát triển tâm
từ, khi thực hành thường xuyên và an trú vững vàng: Vị ấy ngủ ngon và
thức giấc an lành không có ác mộng; vị ấy được người đời tôn kính, được
phi nhân kính trọng, được chư thiên hộ trì; không bị lửa, thuốc độc và
khí giới làm hại; tâm vị ấy dễ tập trung; nét mặt vị ấy trong sáng; vị
ấy khi chết, tâm sáng suốt, không lú lẫn; nếu vị ấy không đắc quả vị
A-la-hán, vị ấy sẽ tái sanh vào cõi Phạm Thiên. (đoạn 15)
***