Trong lá thư tháng 9 năm 2013 (http://www.bouddhismes.net/node/1659) của
Viện Nghiên Cứu Phật Học Pháp gửi cho các thành viên có giới thiệu một
bài báo nói về Phật Giáo Trung Quốc đã đăng trên trang web Fait-religieux.com (http://www.fait-religieux.com/monde/asie_pacifique/2013/06/16). Xin chuyển ngữ dưới đây.
Một sự đổi mới thật ngoạn mục thế nhưng cần phải hiểu với sự thận trọng
Năm 1980 số nhà sư sót lại trên lãnh thổ Trung Quốc vào khoảng vài
nghìn người. Năm 1994 tông phái Đại Thừa của Phật Giáo Hán gồm có khoảng
40000 sư sãi và những người mới tu; năm 1997 con số này là 70 000
người, và vào giữa các năm 2006-2007 là 100000 người. Nói chung tỷ số
gia tăng là 8% mỗi năm trong khoảng thời gian từ 1994 đến 2006.
Sự đổi mới đó có vẻ thật ngoạn mục, thế nhưng phải cần thận trọng:
trước năm 1949 và trước khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP) nắm chính
quyền, Phật Giáo Hán gồm ít nhất là 500000 nhà sư. Nói cách khác là
trong sáu mươi năm con số các nhà sư tụt xuống còn 1/5, trong khi đó
thì dân số tăng lên gần gấp đôi.
Năm 1980 còn lại khoảng một trăm ngôi chùa Phật Giáo trên lãnh thổ
Trung Quốc, con số này tăng lên 5000 vào năm 1994; 8000 vào năm 1997,
15000 vào năm 2006, và ngày nay vẫn tiếp tục gia tăng. Có nhiều Ngôi nhà Phật (nguyên văn là Maisons de Bouddha, đại khái có nghĩa là chùa chiền không chính thức) và các Ngôi Nhà dùng làm nơi tụng niệm (nguyên văn là Maisons pour la citation des soutra, có thể đây là các Tịnh xá?) mang ít nhiều tính cách tư nhân và không được đưa vào con số thống kê chính thức về chùa chiền.
Trước năm 1949 có 40000 ngôi chùa.
Phật Giáo Hán là tôn giáo được nhà nước ưu đãi
Ký giả phỏng vấn: Patricia Zhou (Patricia Châu)
Zhe Ji (Kiết Tường - ảnh phải) là một vị giảng sư (maître de
conférence / lecturer) của Viện Quốc Gia về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông
Phương INALCO (Institut nationnal des
langues et civilisations orientales / một cơ quan nghiên cứu và giảng
dạy về các ngôn ngữ và văn minh Đông Phương, được thành lập từ thế kỷ
XVII dưới triều đại của vua Louis XIV, cơ quan này trực thuộc Bộ Giáo
Dục Đại Học và Khảo Cứu, trụ sở đặt tại Paris, quận XIII) chuyên ngành về xã hội học và lịch sử tôn
giáo Trung Quốc. Từ năm 2010 Zhe Ji được giao trọng trách hướng dẫn
một chương trình mang tầm vóc quốc tế nhằm nghiên cứu về "Phật Giáo sau
thời kỳ Mao", với sự tài trợ của thành phố Paris trong khuôn khổ một
chương trình lớn hơn mang tên là "Sự Bùng Lên" (Emergence / có thể dịch là sự Xuất Hiện).
Người ta nhận thấy rằng từ thập niên 1980 đã có một sự đổi mới về
tôn giáo trên lãnh thổ nước Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc (People's
Republic of China, PRC). Vậy đối với Phật Giáo thì như thế nào?
Vào thập niên 1980, Phật Giáo vẫn còn trong tình trạng phải gặp nhiều
khó khăn, mặc dù nhà nước ban hành một chính sách mới về tự do tôn
giáo. Các cơ quan chính phủ vẫn tạo nhiều khó khăn trong việc trùng tu
chùa chiền. Hơn nữa các nhà sư lại không có một nguồn tài trợ nào cả.
Những người Phật Giáo Trung Quốc phải nhờ vào sự giúp đỡ tài chính từ
nước ngoài như Hồng Kông, Đài Loan, các nước Đông Nam Á cũng như các
nước Á Châu khác, chẳng hạn như Nhật Bản và Hàn Quốc, trong việc trùng
tu chùa chiền và tu viện.
Vào giữa thập niên 1990 người thế tục mới bắt đầu hoặc trở lại quan
tâm đến Phật Giáo. Nhờ kinh tế phát triển nên sự thu nhập của họ cũng
có phần khả quan hơn. Người Trung Quốc trên lục địa từ đó mới bắt đầu
dần dần tham gia vào việc tài trợ các công trình tùng tu chùa chiền.
Có đúng là chùa chiền và tu viện đã bị tàn phá trong thời kỳ Cách mạng văn hóa hay không?
Không đúng như thế. Không nhất thiết là chùa chiền bị tàn phá, mà chỉ
bị trưng dụng để làm nơi sinh hoạt mang tính cách dân sự. Chùa chiền
trở thành trường học, cơ xưởng hay trụ sở chính quyền... Ngay cả ngày
nay nhiều cảnh chùa vẫn chưa được trả lại cho Phật Giáo.
Có bao nhiêu người theo Phật Giáo ở Trung Quốc?
Theo kết quả các thống kê gần đây nhất có khoảng từ 10% đến 20% dân
chúng Trung Quốc ở tuổi trường thành tự nhận mình là người Phật Giáo.
Thật ra không thể nào biết chính xác được số người theo Phật Giáo, bởi
vì theo Phật Giáo không cần phải qua một nghi lễ chính thức nào cả,
chẳng hạn như trường hợp của Thiên Chúa Giáo, hơn nữa bản tính của
người Trung Quốc không cố chấp về các vấn đề này. Vì thế các con số
thống kể chỉ có tính cách phỏng đoán. Theo kết quả của một cuộc nghiên
cứu gần đây thì vào năm 2003 có 100 triệu người Phật Giáo, và trong số
này có 90.5 triệu người theo Phật Giáo Hán thuộc tông phái Đại Thừa (người Hán là một sắc dân đa số ở Trung Quốc và gồm 92% dân số - ghi chú trong bản gốc)
và 7.6 triệu người theo Phật Giáo Tây Tạng. Ngoài ra cũng có 1,5 triệu
người theo Phật Giáo Theravada, hầu hết thuộc sắc tộc Dai (sắc tộc Thái?) sinh sống ở tỉnh Vân Nam thuộc nam Trung Quốc.
Hiện nay, trong số năm tôn giáo chính thức được công nhận - là Phật Giáo, Lão Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và Hồi Giáo (xin lưu ý là trong số này không có Khổng Giáo)
- Phật Giáo có số tín đồ và những người xuất gia đông đảo hơn cả.
Người ta ước tính số người Phật Giáo Hán thuộc tông phái Đại Thừa là
hơn 100 triệu người, tôi nghĩ rằng con số này không quá đáng.
Chính quyền có chấp nhận sự bành trướng của Phật Giáo hay chăng?
Có. Phật Giáo Hán thuộc tông phái Đại Thừa hiện nay là tôn giáo mà
chính quyền Trung Quốc ưu đãi nhất. Sự kiện này xảy ra là vì nhiều lý
do. Trước hết, Phật Giáo là một tôn giáo toàn cầu và đã tạo được một
hình ảnh đẹp ở Á Châu cũng như trong thế giới Tây Phương, trong khi đó
Lão Giáo chỉ giới hạn trong các xã hội Trung Quốc. Chính quyền dựa vào
các khía cạnh sinh động của Phật Giáo để phô trương cho mọi người biết
là có tự do tôn giáo ở Trung Quốc. Phật Giáo còn là một mối dây liên
kết buộc chặt các xã hội và các dân tộc Á Châu; Bắc Kinh lợi dụng mối
dây liên hệ đó trong chính sách đối ngoại của mình từ những năm 1950.
Một thí dụ điển hình là "Diễn đàn Phật Giáo thế giới" (Forum Mondial du
Bouddhisme) do chính quyền Trung Quốc dàn cảnh từ năm 2006. Diễn đàn
này được tổ chức ba năm một lần và đã lôi kéo được hàng trăm các đại
biểu Phật Giáo trên thế giới, tất nhiên là ngoại trừ những người Phật
Giáo trung thành với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma.
Hơn nữa, các biến cố xảy ra năm 1999 liên quan đến phong trào Pháp
Luân Công cũng đã khiến cho chính quyền ý thức được là phải chú ý đến
nhu cầu tôn giáo trong dân chúng. Ngày 25 tháng 4 năm 1999 Pháp Luân
Công đã huy động được hàng ngàn người kéo nhau đến trước trụ sở trung
ương của chính phủ ở Bắc Kinh để hô hào phản đối. Sau biến cố đó phong
trào này, dù đã quy tụ được ngay từ lúc đầu hàng triệu tín đồ, được xếp
vào các giáo phái cần phải đàn áp. Sau vố đó của Pháp Luân Công (trong nguyên bản là chữ échauder / scald / bị bỏng)
chính quyền Trung Quốc bắt đầu quay sang ủng hộ Phật Giáo Hán nhằm đặt
tôn giáo này dưới sự canh chừng chặt chẽ và sử dụng tín ngưỡng này để
tràn ngập thị trường tôn giáo.
Pháp Luân Công tất nhiên không phải là đối thủ duy nhất của chính
quyền trên mặt tôn giáo. Thật không có một chút nghi ngờ nào cả, tôn
giáo đang phát triển nhanh nhất hiện nay ở Trung Quốc là Tin Lành -
nhất là nhóm Phúc Âm (Evangile / Gospels). Tin Lành tỏ ra rất tích cực
và yêu sách rất mạnh. Những người theo Tin Lành có nhiều mối dây liên
lạc với nước ngoài, họ không ngần ngại nêu lên vấn đề tự do tôn giáo và
nhân quyền. Những người theo Tin Lành tổ chức cả một hệ thống riêng
cho họ, bắt đầu từ trong gia đình cho đến làng mạc, thật hết sức khó để
kiểm soát. Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo cũng gây cho nhà nước Trung Quốc
nhiều khó khăn trên mặt ngoại giao và chính sách sắc tộc. Do đó chính quyền bèn quay sang dùng Phật Giáo như một phương tiện nhằm ngăn chận sự bành trướng của các tôn giáo ấy.
Sau hết là trên phương diện đối nội, chính phủ ủng hộ Phật Giáo cũng
là nhắm vào mục đích kinh tế. Kể từ năm 1990 các cơ quan chính quyền
địa phương rất hăng say trong việc xây dựng và trùng tu chùa chiền nhằm
gia tăng thêm việc buôn bán và thu hút khách du lịch. Chính quyền đang
mong ngôi chùa Xingjiao ở Tây An (Xi'An) thuộc tỉnh Sơn Tây (Shanxi)
sẽ được đưa vào danh sách di sản thế giới của tổ chức Liên Hiệp Quốc
UNESCO (xem hình của hãng thông tấn AFP).
Các cơ quan chính quyền quản lý Phật Giáo bằng cách nào?
Việc kiểm soát trực thuộc Văn Phòng Cục Tôn Giáo (Bureau des Affaires Religieux, BAR)
qua trung gian của tổ chức chính thức là Tổng Hội Phật Giáo. Tuy nhiên
Văn Phòng Tôn Giáo này đôi khi cũng can thiệp trực tiếp: chẳng hạn như
trực tiếp kiểm soát người giữ chức vụ quan trọng, nhất là vị Tổng Thư
Ký của Tổng Hội, bởi vì vị này nằm giữ tất cả quyền hành, trong khi vị
chủ tịch của Tổng Hội thì chỉ giữ trọng trách hành lễ. Vị Tổng Thư Ký
hiện nay của Tổng Hội là một cựu nhân viên của Văn Phòng Cục Tôn Giáo và
đã được chính cơ quan này cử sang làm Tổng Thư Ký cho Tổng Hội Phật
Giáo.
Văn Phòng Cục Tôn Giáo giám sát việc lập danh sách và quản lý các
người tu hành cũng như các nơi thờ phụng. Các tu viện lớn nếu muốn tổ
chức các buổi lễ thụ phong (nghĩa là mở các đại giới đàn truyền giới tỳ kheo, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni) thì phải có sự chấp thuận của Văn Phòng Cục Tôn Giáo và Hội Đồng Nhân Dân (Association Nationale).
Chính quyền cũng đứng ra kết hợp các chức sắc lãnh đạo Phật Giáo nhằm
đưa họ vào hệ thống chính trị của nhà nước, chẳng hạn như cách đặt họ
vào các chức vụ trong Hội Đồng Nhân Dân Quốc Gia (Assemblée Populaire
Nationale, APN / National People's Congress, NPC) hoặc là Hội Nghị Cố
Vấn Chính Trị Nhân Dân Trung Quốc (Conférence Consultative Politique du
Peuple Chinois, CCPPC / Chine People's Political Consultative
Conference, CPPCC). Các biện pháp này là do Mặt Trận Thống Nhất chủ
xướng, một cơ quan trực thuộc Đảng Cộng Sản Trung Quốc (Parti
Communiste Chinois, PCC / Chinese Communist Party, CCP) giữ trọng trách
điều hành các "tập thể xã hội", trong đó gồm có cả các "tập thể tôn
giáo".
Tình trạng tài chính của chùa chiền như thế nào?
Tình trạng tài chính của 15000 chùa chiền nằm trong danh sách chính
thức rất khác biệt nhau. Các ngôi chùa ở những nơi du lịch hoặc trung
tâm các thành phố lớn thường có những nguồn tài chính quan trọng hơn so
với những ngôi chùa nhỏ ở các vùng hẻo lánh.
Tình trạng tài chính của các ngôi chùa nổi tiếng, chẳng hạn như ngôi
chùa Lingyin ở Hàng Châu (Hangzhou), hay các ngôi chùa trong vùng núi
Wutai ở Sơn Tây (Shanxi) rất khả quan, nhờ vào sự cúng dường của Phật
tử. Trường hợp của một ngôi chùa lớn ở Thượng Hải là một thí dụ cho
thấy một ý niệm nào đó về sự kiện trên đây: trong hai tuần lễ liền vào
dịp Tết Nguyên Đán, ngôi chùa này thu được 10 triệu nhân dân tệ tiền
cúng dường (hơn một triệu euros).
Hầu hết các chùa lớn đều có một vị thầy nổi tiếng, và các chùa này
sống nhờ vào tiền cúng dường của các đệ tử các vị ấy. Ngoài ra một số
chùa còn có thêm một nguồn lợi tức khác nữa mang lại bằng cách tổ chức
các nghi lễ (cầu siêu, cầu an...), đảm trách việc cúng dường, nhất là nhờ các dịp ma chay.
Du lịch có phải là một nguồn thu nhập tài chính của các chùa lớn hay không?
Không đúng như thế. Du lịch và vé vào cửa có thể là một nguồn thu
nhập đối với các chùa không được nhiều người biết đến, hoặc không có
các vị thầy nổi tiếng trụ trì. Đối với các chùa lớn và nổi tiếng thì
tiền cúng dường là nguồn tài chính quan trọng nhất.
Tuy nhiên cũng có một trường hợp ngoại lệ là ngôi chùa Thiếu Lâm ở Hà
Nam (Henan), nổi tiếng nhờ vào truyền thống lâu đời về võ thuật. Ngôi
chùa này sống nhờ vào du lịch, các Phật tử không cúng dường nhiều vì họ
cho rằng chùa tận dụng quá đáng các hình thức buôn bán và các phương
tiện truyền thông. Mỗi năm nhờ vào tiền bán vé chùa thu vào hàng nhiều
triệu euros. Thế nhưng 70% thì lại lọt vào ngân quỹ chính quyền địa
phương, phần của chùa chỉ còn 30%, hơn nữa việc chi tiêu 30% ấy còn
phải đặt dưới sự kiểm soát của một kế toán viên do chính quyền địa
phương cử đến.
Hơn thế nữa trước đây vị trụ trì chùa Thiếu Lâm là Shi Yongxin đã
nhiều lần xin phép chính quyền địa phương cho tín đồ và các người du
lịch đến viếng chùa miễn phí nhưng không được chấp thuận, lý do là có
sự tranh giành quyền lợi về tài chính giữa chính quyền địa phương và
chùa, và hơn nữa chính quyền địa phương cũng không muốn sự kiện ấy có
thể làm lu mờ uy thế của mình nơi địa phương. Các nhà sư Thiếu Lâm nổi
tiếng là giỏi võ nghệ (xem hình D.R.).
Ngoài ra chùa chiền còn có các nguồn lợi nào khác nữa hay chăng?
Có. Các xí nghiệp hợp doanh với chính quyền địa phương trong các dự
án xây cất chùa chiền ở các nơi du lịch thì thường sau đó phải thuê các
nhà sư đảm trách cho việc lễ lạc. Các xí nghiệp kinh doanh trong ngành
du lịch hễ thấy nơi nào có di tích văn hóa - chẳng hạn như có chùa
chiền - thì xem đấy là một nơi có nhiều lợi điểm và sẵn sàng đầu tư vào
các nơi này. Nhiều trường hợp xảy ra thật hết sức ngoạn mục, chẳng hạn
như ngôi chùa Nanshan (Nam Sơn) ở Hải Nam (Hainan). Ngược lại các công
trình xây dựng các pho tượng Phật khổng lồ thường thấy tổ chức khắp
nơi chỉ nhờ vào các đóng góp tư nhân. Các công trình này không cần đến
ngay cả sự kêu gọi cúng dường của các vị tu hành.
Ngoài ra cũng có những người Phật Giáo tự thành lập các khu du lịch
nhằm góp phần phát triển kinh tế địa phương. Trong trường hợp này có
thể nêu lên một thí dụ điển hình là ngôi chùa Li Li Gucheng ở tỉnh Cam
Túc (Gansu). Một Phật tử nhờ tiền cúng dường đã xây dựng được một khu
du lịch thật đồ sộ theo kiến trúc La Mã, và trong khu du lịch này nhiều
toà nhà được dành riêng cho việc thiền định.
Các tín đồ Phật Giáo nói chung không
thích trông thấy các hình thức sinh hoạt du lịch như thế, bởi vì theo
họ chùa chiền phải được dành cho việc tu hành và một cuộc sống khắc
khổ. Du lịch chỉ là một hình thức mua bán và trao đổi dịch vụ, khác hẳn
với việc hành hương mang tính cách thiêng liêng, tự nguyện và bất vụ
lợi: người hành hương không bắt buộc phải cúng dường.
Tôn giáo đảm trách vai trò nào trong nền kinh tế Trung Quốc?
Các sinh hoạt trong lãnh vực tôn giáo đã trở thành một yếu tố quan
trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Ngành du lịch tôn giáo, đối với tất
cả các tôn giáo nói chung, giữ một vai trò quan trọng đối với các sinh
hoạt du lịch địa phương, cũng như trong việc phát triển kinh tế ở các
nơi này. Một số chùa chiền được xem là các xí nghiệp và được điều hành
đúng theo cách quản lý của các xí nghiệp.
Khuynh hướng đó được chính thức xem như thuộc vào bối cảnh sinh hoạt
chung của Trung Quốc, thật hết sức rõ ràng đấy là một cách thương mại
hóa xã hội (marchandisation de la société / commercialitisation of the society).
Ngày nay chính các tổ chức chính quyền địa phương cũng được xem như là
các xí nghiệp và phải được quản lý đúng theo nguyên tắc kinh tế thị
trường; các trường học, các đại học cũng như bệnh viện cũng không tránh
khỏi nguyên tắc đó...
Trung Quốc ngày nay được quản lý bởi hai nguyên tắc lô-gic chủ yếu
nhất là: quyền lực (pouvoir / power) và thị trường (marché / market).
Tín ngưỡng có phải là một sức mạnh ngăn chận quyền lực hay không?
Không, hiện nay các chùa chiền quan trọng cũng như các vị lãnh đạo
Phật Giáo Hán nổi tiếng đều cảm thấy thoải mái được nhà nước tin dùng
và đều chấp nhận quy luật thị trường. Họ không hề nghĩ đến việc đi
ngược lại hai nguyên tắc trên đây, cũng không hề đề nghị một giá trị
nào đi ngược lại, và cũng không đủ can đảm tạo áp lực buộc những người
nắm giữ quyền hành chính trị phải tự vấn lương tâm mình trên phương
diện đạo đức, hay nghĩ đến là tự mình phải dấn thân vào các phong trào
xã hội. Dầu sao cũng có vài người Phật Giáo dám làm chuyện ấy với tính
cách cá nhân, và không được một sự hậu thuẫn chính thức nào.
Chùa chiền tổ chức các sinh hoạt từ thiện (philantropy), nhưng lại
không trực tiếp tổ chức các chương trình nhân đạo hay tạo ra bất cứ một
phong trào nào, lý do là bất cứ một sự huy động nào không do chính
quyền giật dây đều bị cấm đoán trên lãnh thổ Trung Quốc. Có một sự cách
biệt hết sức lớn lao giữa giữa Phật Giáo Hán và Phật Giáo dấn thân,
tương tự như ở Đài Loan và Việt Nam, chẳng hạn như do thiền sư Thích
Nhất Hạnh chủ trương. Ở Trung Quốc nếu nói lên lòng từ bi thì được cho
phép, thế nhưng nếu nói đến khổ đau thì lại là một việc cấm kỵ. Nếu nêu
lên vấn đề khổ đau trong xã hội thì sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng sẽ còn
ra gì nữa. Người ta có thể nói đến karma (nghiệp), nhưng không được nói đến công lý!
Thật hết sức đáng tiếc, nếu Phật Giáo Hán từng mang nhiều giá trị
tinh thần thật phong phú và đáng kính thì ngày nay ở nước Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Quốc không còn ai nghe thấy một lời phát biểu đạo đức nào
nhằm cải thiện một xã hội đang biến thành con mồi của những sự khủng
hoảng giá trị sâu xa. Phật Giáo Hán đã trở thành một tôn giáo câm nín
trước những vấn đề công lý và xã hội.
Vài lời ghi chú của người dịch
Phật Giáo Hán vào thời kỳ hưng thịnh và siêu việt nhất dưới thời nhà
Đường, với các vị đại sư như Huyền Trang, Nghĩa Tịnh, Huệ Năng..., ngày
nay đã trở thành một phương tiện kinh tế và một công cụ chính trị với
các nhà sư "hiền lành" hơn nhiều. Người ta cũng hiểu rằng nền văn minh
Trung Quốc từng đạt được mức phát triển cao độ nhất ở thời nhà Đường
vào các thế kỷ thứ VII và VIII, và sau đó đã suy tàn dần cho đến ngày
nay. Chúng ta cũng chỉ biết hy vọng rằng công cụ Phật Giáo Hán và nền
kinh tế thị trường ngày nay rồi cũng sẽ phục hồi được thời vàng son đó
trong quá khứ của nền văn minh Trung Quốc?
Dầu sao đối với một người Phật Giáo chân chính thì phải hiểu rằng
không sao tránh khỏi nghiệp do mình tự tạo ra cho mình. Trong lịch sử
lâu dài của Trung Quốc, không biết bao nhiêu cuộc cách mạng đã xảy ra,
và mỗi lần đều mang lại thật nhiều đau thương. Nếu lịch sử không bao
giờ dừng lại ở một điểm duy nhất, thì nghiệp cũng không bao giờ ngủ yên
một cách vĩnh viễn, dù ở cấp bậc một quốc gia, một dân tộc, một xã hội
hay một cá thể con người.
Vì thế thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta, nếu đã tự nhận mình là
một người tu tập, và dù đã xuất gia nơi chùa chiền hay vẫn còn vướng bận
trong thế tục, thì đôi khi cũng nên nhìn lại lương tâm mình, hành
động của mình xem có phù hợp với Đạo Pháp hay không. Đối với những
người không tự nhận mình là người Phật Giáo và xem giáo lý của tôn giáo
ấy như một công cụ cho mình tha hồ sử dụng, thì chúng ta cũng nên chấp
tay cầu xin cho họ đôi khi cũng biết nhìn lại lương tâm và hành động
của mình, hầu mở rộng con tim mình để nhìn thấy khổ đau đang bàng bạc
trong gia đình, xã hội và quê hương mình.
Bures-Sur-Yvette, 17.09.13
Hoang Phong chuyển ngữ