Phật giáo du nhập vào nước ta trong hoàn cảnh đất nước bị
phong kiến phương Bắc đô hộ, cùng với đó là sự tồn tại của truyền thống
văn hoá của dân tộc và những tín ngưỡng bản địa đã có từ lâu đời.
Giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên là giai
đoạn mà Phật giáo du nhập và bước đầu đi vào đời sống của dân tộc Việt
và dần trở thành nhân tố góp phần làm nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Vì thế, tìm hiểu đặc điểm của Phật giáo Việt Nam giai đoạn này
là việc làm có ý nghĩa trong việc giúp hiểu sâu hơn cội nguồn văn hoá
Việt Nam.
MỞ ĐẦU
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, người sáng lập là Tất Đạt Đa
(Siddhartha), họ Gautama, sinh khoảng năm 563 tr.CN ở kinh thành
Kapilavastu (chân núi Himalaya về phía nam, nay thuộc miền nam nước
Nêpan), là thái tử con vua Tịnh Phạn.
Người đời tôn xưng ngài là Thích Ca Mâu Ni (Sakymuni). Ngài nhập Niết bàn năm 483 trước CN, thọ 80 tuổi.
Đạo Phật truyền ra ngoài biên giới rất sớm, vào năm 300 tr.CN, hoàng
đế A Dục (Asoka) có gửi nhiều phái đoàn truyền giáo ra nước ngoài, trong
đó có Đông Nam Á.
Về phía nam Phật giáo truyền đến Srilanca, Mianma, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Inđônêxia. Người ta gọi là phật Giáo Nam tông và theo dòng
Tiểu thừa.
Về phía bắc phật giáo truyền vào Nê Pan, Trung Quốc, các nước Trung
Á, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Người ta gọi đó là Phật giáo Bắc tông
và theo dòngĐại thừa.
NỘI DUNG
1. Bước đầu du nhập, phát triển của Phật giáo Việt Nam giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên
Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam
thời kỳ đầu Công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên gắn liền với bối
cảnh đất nước đang phải chịu cảnh đô hộ của phong kiến phương Bắc, từ
Nam Việt đến Đường, trải qua trên 1000 năm (từ 179 trc.CN đến 938).
Chính sách đô hộ của chính quyền ngoại bang biểu hiện từng thời kỳ có khác nhau nhưng mục đích thì không thay đổi.
Về chính trị thì đó là âm mưu tìm cách triệt để thủ tiêu nền độc
lập. Về quân sự, đó là quyết tâm đè bẹp mọi sự phản kháng của quần chúng
nhân dân. Về kinh tế đó là chính sách vơ vét của cải và tài nguyên của
đất nước ta. Về văn hóa, đó là từng bước thực hiện mưu đồ đồng hóa dân
tộc.
Chính sách đô hộ của các triều đại phương Bắc hơn một thiên niên kỷ
đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển về mọi mặt của đất nước và dân tộc
ta.
Song không cam tâm làm nô lệ, nhân dân ta đã liên tục và không ngừng vùng lên đấu tranh để giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc.
Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (vào khoảng năm 40 –
43), cuộc khởi nghĩa Lý Bí thành lập nhà nước Vạn Xuân (542), cuộc khởi
nghĩa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ (905), cuộc kháng chiến của
Dương Đình Nghệ khôi phục quyền tự chủ (931) và chiến thắng Bạch Đằng
của Ngô Quyền (938) chấm dứt nền đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Trong giai đoạn từ đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên, mặc
dù chính quyền đô hộ ra sức đồng hóa nhằm Hán hóa Việt tộc và nền văn
hóa Việt, song trong các xóm làng người Việt, nhân dân ta vẫn giữ vững
và không ngừng phát triển nền văn hóa bản địa.
Chính quyền đô hộ đã thực thi nhiều chính sách và biện pháp để đồng hóa nhưng không thể hủy diệt tiếng nói của dân tộc.
Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp thời Văn Lang – Âu Lạc vẫn được
giữ gìn như tục nhuộm răng, ăn trầu, bơi chải, đấu vật, chọi trâu, đá
cầu, đánh đu, đánh phết, ném còn, đề cao các anh hùng dân tộc, người
già, phụ nữ.
Trong các lễ hội hàng năm như hội làng, hội mùa xuân mặc dù có biến
đổi ít nhiều trong các nghi lễ nhưng tính chất cơ bản vốn có từ thời Văn
Lang – Âu Lạc vẫn được bảo lưu.
Trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp để bảo vệ di sản truyền thống
dân tộc, nhân dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa
ngoại nhập phù hợp với đặc tính, tâm hồn người Việt Nam để làm phong
phú thêm nền văn hóa truyền thống.
Phật giáo truyền vào Việt Nam, được nhân dân tiếp nhận một cách nhanh
chóng, nó ngày càng được phổ biến, phát triển mạnh mẽ và tạo dựng được
chỗ đứng trong lòng nhân dân và đồng thời nó cũng tiếp thêm sức mạnh cho
dân ta đấu tranh chống Hán hóa, góp phần bảo vệ nền văn hóa cổ truyền.
Năm 273 vua Asoka lên ngôi ở Ấn Độ, ông đã cử nhiều phái đoàn ra
nước ngoài truyền đạo đến các nước phương Tây, phương Đông cũng như các
nước Đông Nam Á. Nó mở đầu cho sự du nhập Phật giáo vào nước ta.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thành Nê Lê nơi có bảo tháp của Asoka
là nơi tiếp nhận đầu tiên. Như vậy Phật giáo vào nước ta khoảng cuối
thế kỉ III đầu thế kỷ II tr.CN.
Phật giáo du nhập vào nước ta bằng nhiều con đường nhưng
chủ yếu là bằng đường biển, các nhà sư theo các thuyền buôn sang
truyền đạo ở nước ta. Xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã
ba Srilanca, Inđônêxia, Việt Nam những người thương nhân Ấn đã tới vùng
này để buôn bán bằng những con thuyền buồm.
Trong các chuyến viễn dương này, họ thường thỉnh một hay hai vị tăng
để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà truyền bá
đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á.
Đến thế kỷ II sau công nguyên trong ba trung tâm Phật giáo đời
Hán là Luy Lâu, Bành Thành, Lạc Dương thì Luy Lâu trên đất Giao Chỉ
là được hình thành sớm nhất và nó cũng là trung tâm Phật Giáo lớn.
Đây là nơi nghiên cứu và truyền bá Phật giáo, nó có khoảng 20 ngôi
chùa, 500 cao tăng và đã dịch được 15 bộ kinh ra tiếng bản địa.
Đến cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III có nhiều nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam
để truyền đạo như Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực. Đầu thế kỷ III bắt đầu xuất
hiện những nhà sư sinh ra và tu ở Việt Nam như Khương Tăng Hội - người
được coi là ông tổ của phái Thiền Việt Nam.
Từ Trung Quốc sang thì có Mâu Tử (Mâu Bác) tu ở Việt Nam. Mâu Tử
cũng đã viết tác phẩm Phật giáo đầu tiên ở Giao Châu là “Lý hoặc
luận”.
Đến đời Đường thế kỷ VII có Vân Kỳ, Chí Hạnh đã đến Ấn Độ học Phật.
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X Phật giáo Việt Nam còn tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào
Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Thiền Tông trong
thời kỳ này có hai Thiền phái đó là dòng Thiền của Tỳ Ny Đa Lưu Chi và
dòng Thiền cuả Vô Ngôn Thông.
2. Đặc điểm Phật giáo Việt Nam Giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên
Khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi
với lối sống của người Việt. Những quan điểm trong giáo lý, giáo
luật,…của Phật giáo gần với đời sống tâm linh của người Việt, với những
nét văn hoá Việt.
Mặt khác, nếu như Nho giáo đi vào nước ta cùng với quân xâm lược, là
một yếu tố để thực hiện chính sách nô dịch, đồng hoá dân tộc ta thì Phật
giáo được truyền vào Việt Nam bằng phương thức hoà bình đồng thời nó là
tường thành, là động lực giúp người dân Việt chống đồng hoá.
Người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một tín ngưỡng hơn là một lý
luận, hệ tư tưởng, nó kết hợp với các tín ngưỡng bản địa như tục thờ
mẫu, thờ tổ tiên… Nó dễ đi vào đời sống của người dân cùng với khuynh
hướng nhập thế của các nhà sư càng làm cho đạo Phật càng có sức sống
mãnh liệt hơn.
Sự kết hợp với tín ngưỡng, văn hoá bản địa đã tạo nên một sắc thái
riêng của Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy mà Phật giáo khi đến Việt Nam
đã mang những đặc điểm mới khác với Phật giáo nguyên mẫu.
Thứ nhất, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này đã chuyển từ ảnh
hưởng của Phật giáo Ấn Độ sang ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.
Nếu như Phật giáo lúc đầu được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang, mang
những dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ thì trong quá trình phát triển Phật
giáo Việt Nam đã chuyển từ ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ sang
ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.
Vấn đề ảnh hưởng Phật giáo từ Ấn Độ (từ khi du nhập đến khoảng thế
kỷ VI) ở nước ta thể hiện rõ nhất qua truyền thuyết về Khâu Đà La và
Man Nương.
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X Phật giáo Việt Nam tiếp nhận thêm những
đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật giáo
Bắc phương đã chiếm ưu thế và thay chỗ đứng của Phật giáo Nam
phương vốn có từ trước.
Đồng thời sự ảnh hưởng đó còn được thể hiện ở việc ba tông phái
chính của Trung Hoa cũng được truyền vào Việt Nam đó là Thiền Tông, Mật
Tông, Tịnh Độ Tông và qua một số tập tục như: tập tục đốt vàng mã, tập
tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, xin xăm, bói quẻ,…
Thứ hai, Phật giáo Việt Nam phát triển theo khuynh hướng Thiền.
Trong hoàn cảnh văn hoá giao lưu phức tạp, mâu thuẫn xung đột ở thời
kỳ này, vấn đề chi phối tinh thần giới trí thức lãnh đạo là phải tìm
cách giải quyết làm sao vượt được lên trên mâu thuẫn xung đột để đạt tới
cái điểm nhất trí trong tinh thần, trong tư tưởng.
Vì vậy mà Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ này cũng phát triển theo
khuynh hướng Thiền. Ở hoàn cảnh địa lý, xã hội ấy, Giao Châu ấy Mâu Tử
tìm các khuynh hướng mâu thuẫn, xung đột của thời đại để có một hệ thống
nhất quán về tư tưởng.
Điều đó được thể hiện trong tác phẩm có giá trị lịch sử của ông là
“Lý hoặc Luận”. Mâu Tử đã tìm ở Phật giáo Giao Châu lấy cái nguyên lý
duy nhất cơ bản khá sâu rộng để có thể tổng hợp nhất quán ba truyền
thống chính yếu trên: xã hội, thiên nhiên và tâm lý như ông đã viết: “Tuy
đọc sách Ngũ Kinh của Nho giáo, ưa thích lấy làm hoà, kìa thành quả
nữa. Rồi đến khi tôi coi đến triết lý ở kinh Phật, xem yếu lý của Lão
Tử, giữ cái đức tính điềm đạm, nghiệm cái hành động vô vi.
Bấy giờ mới ngoảnh lại nhìn sự đời khác nào đứng trên đỉnh trời
cao nom xuống ngòi lạch, trèo lên ngọn núi nhìn xuống gò đống vậy.
Sách Nho Ngũ Kinh cũng như 5 vị ăn, đạo Phật như 5 thứ gạo thóc. Từ khi
tôi được biết đạo Phật đến nay thật như vén mây mù thấy mặt trời
sáng, soi đuốc cháy vào trong nhà tối vậy”.
Cái tinh thần ấy Mâu Tử đã tìm thấy ở tâm linh thực nghiệm của Phật
giáo thích ứng với hoàn cảnh địa lý, xã hội Giao Châu thời Sĩ Nhiếp thực
đã mở đường cho Thiền học Việt Nam. Như vậy có thể nói người khởi xướng
cho Thiền học Việt Nam đó chính là Mâu Tử.
Nhưng theo Nguyễn Lang trong “Việt Nam Phật giáo sử luận” lại cho
Thiền học Việt Nam khởi đầu bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ
III. Không những Khương Tăng Hội là sáng tổ của Thiền học Việt Nam, ông
cũng còn phải được xem là người đầu tiên đem Thiền học phát huy ở
Trung Hoa nữa. Vai trò xướng minh Thiền học của Khương Tăng
Hội ăn sâu cả vào trong truyền thuyết.
Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng Thiền ở Việt Nam trở thành tông
phái bắt đầu từ Tỳ Ny Đa Lưu Chi. Năm 580 Tỳ Ny Đa Lưu Chi sang Giao
Châu trú tại chùa Pháp Vân giảng dạy Phật pháp và dựng nên dòng Thiền
thứ nhất.
Từ đó dòng Thiền bắt đầu nảy nở ở nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ nửa
tối nửa sáng, lẫn lộn lung tung giữa các khuynh hướng tín ngưỡng hỗn tạp
của Phật giáo thần thông với triết lý Duy Thức, của Bà La Môn giáo với
phép tu Yoga, của thần đạo với những Tứ pháp.
Nó nâng mục tiêu của sự tu hành lên khỏi cái đích thực dụng do
tác động của mê tín dị đoan và mở ra một chân trời mới: tu để đến cõi
giác, để tự giải thoát mình và tinh thần mình khỏi điều cố chấp để cho
tâm linh mình hoàn toàn trong sáng mà nhìn thấy chân lý, cũng như hiểu
chân lý và sống cái chân lý ấy.
Thứ ba, với đặc điểm là phần lớn người Việt là mù chữ nên họ không đi
vào kinh điển Phật giáo do đó mà Phật giáo Đại thừa phát triển và chiếm
ưu thế.
Điều này được thể hiện rõ khi ta xét những quan điểm trong sách “Lý
hoặc Luận” của Mâu Tử và trong các kinh mà Khương Tăng Hội đã dịch.
Trong bài tựa kinh “An ban thủ ý” Tăng Hội có viết: “An ban là đại
thừa của chư Phật để tế độ chúng sinh…Ngoài ra ông còn dịch kinh “Tiểu
phẩm bát nhã” (Bát thiên tụng bát nhã) là kinh điển căn bản và xuất hiện
sớm nhất trong văn hệ Bát Nhã thuộc khuynh hướng Đại thừa.”
Phật giáo Đại thừa chủ trương tất cả chúng sinh đều có sẵn Phật tính,
có khả năng giác ngộ, chỉ phải cởi mở che lấp đi là hoàn toàn giải
thoát. Cái che lấp đó là tư dục tự nó không có thật, không tự tính, chỉ
vì ảo hoá mê vọng mà nhận là có thật. Đến khi giác ngộ nó là ảo hoá mê
vọng thì hết mê vọng.
Đến Thượng thừa Kim Cương mới lại tiến lên bước nữa mà cho rằng dục
vọng tự nó không xấu, vì tự nó không có thật. Nó chỉ xấu vì không biết
chân lý đại đầu. Một khi hết chấp vào cái ngã ảo hoá mà giác ngộ bản
tính đại đồng thì tha nhân cũng là ngã nhân, sinh tử cũng là Niết bàn.
Một số tập tục như cúng rằm, mùng một, lễ chùa và tập tục ăn chay,
thờ Phật, phóng sinh và bố thí là ảnh hưởng từ Phật giáo Đại thừa.
Thứ tư, Phật giáo khi được truyền vào Việt Nam đã được tiếp
xúc ngay với tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ, hoà mình
vào các tín ngưỡng này với tư thế là một luồng văn hoá ngoại lai, có xu
hướng bản địa hoá ngày càng rõ rệt.
Qua lăng kính tư tưởng yêu nước, ý thức cộng đồng mà Phật giáo cũng
có sự cải biến. Phật ở giai đoạn này cũng phải là người cứu dân ra khỏi
lầm than khổ cực bằng cách tham gia chống hạn (Phật Mẫu Man Nương), gạt
bỏ những tên quan tham lam tàn bạo (trong tư tưởng của Mâu Tử và Khương
Tăng Hội) và lên án bọn phong kiến phương Bắc bằng quan điểm gieo ác thì
gặp ác, gieo gió sẽ gặp bão.
Phật giáo ở Giao Châu lúc đầu là ông thần có phép lạ khuyến thiện trừ
ác, sau đó trải qua cuộc khủng hoảng ở thế VI qua sáu bức thư, Phật tử
ông thần trên mây được đưa vào tâmvới quan điểm Phật không ngoài tâm,
ngoài tâm không có Phật.
Như vậy là đã thực hiện được một bước chuyển ông Phật với tư cách là
một vị thần lơ lửng có phép lạ vào trong tâm của mỗi người. Ở một khía
cạnh nào đó có thể nói sự chuyển biến của Phật giáo thời Bắc thuộc là từ
Chủ nghĩa duy tâm khách quan đi đến Chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Điều này phản ánh một hiện thực lịch sử là muốn đứng lên giải phóng
dân tộc không thể trông chờ một lực lượng siêu nhiên bên ngoài mà phải
phát huy nội lực vốn có của dân tộc, của mỗi con người. Đó là sự Việt
hoá các nhân vật trong Phật giáo, là sự dung hoà giữa các tông phái,…
Ví dụ vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần trong
tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người dân thoát khỏi
mọi tai hoạ, hay là làm nên mây, mưa, sấm, chớp để mùa màng tốt tươi;
ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự); ban lộc cho người
bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt; cứu độ cho người chết và giúp họ
siêu thoát…
“Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân”
(Ca Dao)
Thứ năm, Phật giáo bước đầu đã có sự hỗn dung với Nho giáo và Đạo giáo.
Trong thời kỳ Việt Nam bị phong kiến phương Bắc thống trị này, một
mặt do sự cưỡng bức văn hoá, mặt khác do sự giao lưu, tiếp
xúc văn hoá và do tác động của tư tưởng dung hoà nên xu hướng
tiếp thu, hội nhập các yếu tố văn hoá Hán và Ấn vào nền văn hoá bản địa
đã hình thành.
Đặc biệt là sự hỗn dung của các tôn giáo, giai đoạn này là mầm mống
để nảy nở tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Nho, Phật, Đạo từ phương
Bắc xuống, Phật giáo từ Ấn Độ sang được tiếp nhận, dung hoà vào nền
văn hoá bản địa và nhanh chóng trở thành các thành tố của văn hoá Việt
Nam.
Một đặc điểm trong đời sống tâm linh truyền thống của Việt Nam
là sự cùng tồn tại hoà bình trong tinh thần khoan dung giữa những tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau. Trên nền tảng tín ngưỡng dân gian bản địa
mang tính đa thần và phiến thần, ba tôn giáo chính đã du nhập vào Việt
Nam là đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho.
Những tôn giáo này một mặt đã thay đổi để thích ứng với thực tiễn
xã hội – tâm linh Việt, một mặt đã đan xen, hỗn dung vào nhau do sự
xúc tác của các tín ngưỡng dân gian. Các tôn giáo ở Việt Nam vì thế mà
mang tính lai ghép và đã khác nhiều so với nguyên mẫu. Nó nhạt đi nhiều ở
phần giáo lý mang tính lý thuyết siêu hình và đậm lên ở phần thực tiễn
lễ thức và ứng xử nhân sinh.
Tín ngưỡng dân gian đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu công nguyên.
Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi
tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để tạo nên Tam giáo đồng nguyên (ba tôn
giáo có cùng nguồn gốc) và Tam giáo đồng quy (cả ba tôn giáo có cùng một
mục đích).
Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy
củ nề nếp; Đạo giáo lo thể xác con người sao cho thư thái, khoẻ mạnh;
Phật giáo lo cứu khổ, lo tâm linh, kiếp sau của con người. Bởi vậy mà
người dân cần đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp chúng theo giới
tính, theo các giai đoạn trong cuộc đời một cách nhuần nhuyễn. Người
Việt Nam, phụ nữ thiên về Phật, đàn ông thiên về Nho.
Phật giáo thiên về xuất thế, chủ trương sống từ bi nên âm
tính hơn; Nho giáo thiên về nhập thế chủ trương tham gia chính sự
nên dương tính hơn. Cùng một người Việt Nam, khi trẻ trung thì học Nho
để ra giúp nước, khi khổ ải trầm luân thì cầu trời khấn Phật phù hộ, khi
ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ đến trừ tà trị bệnh hoặc tập luyện dưỡng
khí an thần.
Thứ sáu, Phật giáo đã tích cực đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống xâm lăng và đồng hoá.
Phật giáo đến Việt Nam khi Việt Nam mất đi nền độc lập đã được tạo
dựng từ ngàn năm và nhân dân đang quằn quại đau thương dưới ách thống
trị của tầng lớp cầm quyền Trung Quốc.
Ở trong hoàn cảnh đó, những quan niệm của Phật giáo như từ, bi, hỷ,
xả hay học thuyết Tứ ân đã góp phần phát huy và nâng cao tinh thần yêu
nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống tri ân và báo ân Tổ quốc đã giúp cho nhiều tăng sĩ mạnh
dạn “Cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Nhiều thế hệ Thiền sư và Phật tử vừa
yêu đạo, vừa yêu nước, kháng cự lại tinh thần sùng ngoại Bắc phương
Trung Quốc.
Tinh thần Tứ ân của đạo Phật đã tạo ra cao trào tự cường dân tộc,
toàn dân yêu nước và đoàn kết vì đại nghĩa quốc gia, nhiều lần đánh bại
giặc Tống và giặc Nguyên từ phương Bắc.
Nhờ tinh thần tự cường và độc lập của Phật giáo, dân tộc Việt Nam đã
tìm ra được hướng đi mới, tách rời khỏi tư tưởng Khổng giáo vốn là đặc
điểm nhận thức của chủ nghĩa đô hộ Trung Quốc đối với Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam đã xoá được mặc cảm bị nô lệ Trung Quốc kéo dài
mười thế kỷ, là nhờ vào tinh thần yêu nước và bình đẳng của Phật giáo.
Tinh thần bình đẳng của nhà Phật khẳng định rằng nếu Trung Quốc có thiên
triều và thiên tử thì Việt Nam cũng có thiên triều và thiên tử là các
vị minh quân.
Tư tưởng này là các yếu tố cần thiết giúp dân tộc Việt Nam giải phóng
khỏi ách nô lệ Trung Hoa to lớn. Nền chính trị độc lập và tự chủ của
thời Lý - Trần, với tinh thần nhập thế của Phật giáo đã mở ra những
triều đại độc lập tự chủ đầu tiên của lịch sử Việt Nam làm cho dòng chảy
đồng hành với dân tộc của Phật giáo Việt Nam trở thành điểm son của văn
hoá, chính trị Việt Nam.
Có thể nói rằng, ngay ở giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau
công nguyên Phật giáo đã thâm nhập vào trong tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống
của dân tộc Việt Nam và đã trở thành một phần bản sắc dân tộc.
Những đặc điểm của Phật giáo càng làm cho nó trở nên độc đáo và trở
thành một thành tố trong nền văn hoá Việt. Theo dòng chảy của lịch
sử, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng vẫn sẽ đồng hành cùng con
người trong quá trình tồn tại và phát triển.
Trong đó, Phật giáo sẽ giúp cho con người không quên cội
nguồn, đồng thời là dùng từ, bi, hỷ, xả để đối xử với nhau dù cho xã hội
có phát triển đến đâu đi nữa. Phật giáo vẫn sẽ gắn bó bền chặt với nền
văn hóa, với con người Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 2, NXB thành
phố Hồ Chí Minh.
[2] PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (2002 - chủ biên), Đại cương lịch sử
tư tưởng triết học Việt Nam tập 1, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.