Khi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa hình thành, các giá trị Tịnh Độ
này chỉ chiếm vai trò chủ đạo chứ không phải vị trí độc tôn. Bởi lẽ lịch
sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam không phải lúc nào cũng thuần nhất một
tông phái.
Đặc biệt ở thế kỷ XVll, các tư tưởng Thiền - Tịnh - Mật đã luôn song
hành. Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa là biểu hiện đầy đủ của các dòng tư tưởng
này.
Thời Lý, tín ngưỡng Tịnh Độ tông đã rất phát triển với sự xuất hiện phổ
biến thức tượng Adiđà. Ba pho tượng Phật Adiđà thời Lý bằng đá còn lại
hiện nay, là tượng chùa Phật Tích, chùa Một Mái (Hà Tây) và tượng Chùa
Ngô Xá (Chương Sơn, Nam Định).
Trong ba pho này thì pho chùa Phật Tích là pho tượng đẹp nhất, tuy có
nhiều người cho rằng, đây không phải là tượng Adiđà. Nhưng pho tượng
chùa Một Mái thì chắc chắn theo sự xác nhận của dòng chữ khác trên bệ
tượng.
Những dòng chữ này ghi chép như sau: Luật sư ở núi Thạch Thất, pháp
hiệu là Trì Bát, nhân tưởng niệm Phật Adiđà ở thế giới Tây phương Cực
lạc nên đã phổ khuyến đạo tục dựng một đạo tràng lớn, muốn tạo tượng mà
chưa thể được mãi đến năm Hội Phong thứ 8 (1099), ông mới làm được tượng
Adiđà ở đây.
Sư Trì Bát được khắc tên trên bệ tượng chùa Một Mái chính là nhà sư
thuộc thế hệ thứ 12 của phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi - là học trò của
thiền sư Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân (Chùa Dâu, Hà Bắc). Điểu này cho thấy
Tịnh Độ Tông có mặt trong cả phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Thời Lý, Thiền phái Vô Ngôn Thông cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó như Thiền Uyển Tập Anh cho
biết: sư Tĩnh Lực (1112- 1175) thuộc thế hệ thứ 10 của Vô Ngôn Thông đã
chủ chương niệm Phật cả tâm lẫn miệng, nghĩa là có sự phối hợp giữa
Thiền với Tịnh.
Tín ngưỡng Adiđà và Tịnh Độ tông còn được nhắc đến trên bia tháp Sùng
Thiện Diên Linh ở chùa Đọi (Hà Nam). Văn bia tháp này có nhắc đến tượng
Adiđà đặt trong hội đèn Quảng Chiếu trước cửa Đoan Môn. ở đó có đoạn cầu
chúc cho Hoàng hậu Linh Nhâm “siêu linh Tịnh Độ” ở văn bia chùa Viên
Quang (dựng năm 1122, do Giác Hải trụ trì) chép đặt Di Đà Giáo Chủ
(Adiđà) một bên là hình Trụ Thế Thượng Nhân (Bồ đề Đạt Ma).
Cùng với tín ngưỡng Adiđà tín ngưỡng thờ Quan âm - vị Bồ Tát dẫn dắt
chúng sinh về cõi Tây phương Cực lạc, cũng được thờ cúng rất phổ biến ở
thời Lý. Điển hình là việc xây dựng chùa Diên Hựu năm 1049 - một trong
những mô hình chùa dạng hoa sen sớm nhất ở Việt Nam.
Cho dù tín ngưỡng thờ Quan âm có thể tách rời việc thờ Adiđà, nhưng
việc thờ hai vị Phật, Bồ Tát này cho thấy Tịnh Độ được biết đến khá phổ
biến trong giai đoạn này. Và chúng ta có thể thêm một lần nữa xác minh
tính chất hòa nhập của những giáo lý Tịnh Độ này với các Thiền phái rất
thịnh hành thời bấy giờ.
Một chi tiết khác cũng góp phần vào giả thuyết này là việc in, chép kinh
Đại Tạng để phổ biến được diễn ra liên tục trong thời Lý khoảng những
năm 1023, 1027, 1036, có sự sao chép, nhân bản phẩm 25 kinh Pháp Hoa:
Quan Thế Âm Bồ Tát (phẩm Phổ Môn).
Phẩm này ca ngợi công đức của Bồ Tát Quan Thế âm, người có những pháp
lực vô biên, có khả năng nghe thấu những tiếng kêu than của chúng sinh
mà kịp thời đến cứu vớt. Hình thức viện cầu đến người chỉ là lòng thành
tâm mà niệm danh hiệu là ứng nghiệm.
Sang đến thời Trần, trước khi Thiền phái Trúc Lâm do Điểu Ngự Trượng Phu
Trần Nhân Tông sáng lập ra vào năm 1299 thì đã có Trần Thái Tông và Tuệ
Trung Thượng sĩ là những người có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của
môn phái này.
Theo sự giải thích của Trần Thái Tông, vấn đề niệm Phật được nêu ra
như sau: Khi niệm Phật, thì thân ngồi thẳng không làm việc tà, nên thoát
khỏi thân nghiệp. Miệng tụng kinh thì không nói điều xằng bậy tránh
được khẩu nghiệp. Ý chăm chú vào tinh tiến thì không sinh tà ý nên tránh
được ý nghiệp.
Đây là cách giải thích về Tam nghiệp mà không cần viện dẫn đến những
lý luận cao siêu. Nhưng điều quan trọng trong tư tưởng của ông là ông
chia người tu đạo làm ba hạng: Thượng trí giả tôm tức thị Phớt, bốt giả
tu thiêm. Niệm tức thị trần, bất dung nhất điểm. Trần niệm bán tịnh, cố
viết như bất động. Phật thân thân tức ngã thân thị, vô hữu nhị tướng;
tướng tướng vô nhị, tịch nhiên thường tồn; tồn nhi bất tri, thị vị họat
Phật. Trung trí giả, tất tá niệm phật, chú ý tinh cần, niệm niệm bất
vong, tự tâm thuần thiện. Thiện niệm ký hiện, ác niệm tiện tiêu. ác niệm
ký tiêu, duy tồn thiện niệm. Dĩ niệm ý niệm, niệm niệm diệt chi. Niệm
diệt chi thời, tốt qui chính đạo. Mệnh chung chi thời đắc Niết bàn lạc.
Thường lạc ngã tịnh Phật chi đạo dã. Hạ trí giả khẩu cần niệm Phật ngữ,
tâm dục kiến Phật tướng, thân nguyện sinh Phật quốc; Hậu đắc chư Phật sở
tuyên chính pháp, chứng đắc Bồ Đề, diệc nhập Phật quả.
Có nghĩa là người thượng trí thức thì tâm tức Phật. Quan điểm này là
của Mã Tổ Đạo Nhất, khái niệm tâm ở đây là tâm trừu tượng. Người này
không cần tu thêm, vì không có niệm, mà niệm là bụi trần. Thân người
thượng trí là thân Phật, tức không có hai tướng, tồn tại vĩnh hằng, đó
là dạng phật sống. Đây cũng là một tư tưởng mới trong lịch sử Thiển học
Phật giáo. Phật sống chỉ tồn tại ở Tây Tạng với lý luận về hóa thân,
trên cơ sở giáo lý Mật giáo.
Do đó khái niệm này xuất hiện trong Thiền đời Trần, chứng tỏ yếu tố
Mật giáo thời Lý đến giai đoạn này vẫn còn khá đậm. Yếu tố Mật Giáo này
còn tiếp tục được lưu giữ một cách vô thức trong các tông phái Phật giáo
giai đoạn sau.
Tuy nhiên, trong quan niệm của Trần Thái Tông có điểm khác là người
thượng trí không phải hiện tượng siêu phàm, cũng không phải là sự thác
sinh của Phật mà là người trí thức phàm trần, và cũng không có việc nhập
Niết bàn.
Tư tưởng của của Trần Thái Tông về vấn đề người thượng trí là một
dạng phát triển tư tưởng quả A La Hán, tức vô học (không học) mà biết
cũng có nghĩa sinh ra đã biết. Tiêu chuẩn này không phải ai cũng đáp ứng
được.
Người trung trí thức, thì phải nhờ niệm Phật, luôn cần tinh tiến, tự tâm
mình thuần thiện. Thiện niệm xuất hiện thì ác niệm tiêu vong rồi niệm
cũng không còn nữa bởi khi còn thiện niệm thì tâm đã thuần thiện, sau
khi chết sẽ vào Niết bàn (Niết bàn tứ đức: thường, lạc, ngã, tịnh).
Người hạ trí phải luôn miệng niệm Phật, lòng muốn thấy Phật, thân cầu
sinh đất Phật, ngày đêm chuyên cần. Sau khi chết được sinh vào đất Phật,
rồi lại nhờ chư Phật dạy dỗ thêm mới được Phật quả. Như vậy người hạ
trí không trực tiếp vào Niết bàn mà sau khi chết đến đất Phật tùy duyên,
được Phật độ thêm lần nữa mới thoát luân hồi để lên cõi Niết bàn.
Theo như tư tưởng này của Trần Thái Tông về ba hạng người tu đạo có thể
đến cõi Phật bằng thiện tâm, thiện tín, thiện niệm thì cũng không khác
bao xa với quan niệm của Tịnh Độ tông sau này khi phân ra các cấp bậc
vãng sinh. Ba hạng người này ứng với ba hạng người của ba phẩm Thượng,
Trung, Hạ. Người sẵn tâm Phật không cần tu thêm tức “Phật sống”. Người
thuộc hạng Trung phải chuyên cần niệm Phật mới có thể chứng quả Bồ Tát.
Còn hạng người thuộc hạng Hạ còn cần phải học thêm nhiều hơn nữa,
chuyên cần tu niệm, nhưng cũng cần phải nhờ đến tha lực bên ngoài tức
được Phật độ thêm lẫn nữa, thì mới đến được cõi Phật vậy.
Tuy nhiên trong Thiền phái Trúc Lâm sau Trần Thái Tông, vấn đề của Tịnh
Độ tông không được nêu ra như một giá trị chính. Nó vẫn chỉ có ý nghĩa
nói lên sự phối hợp của hình thức Tịnh Độ với các dòng Thiền Việt Nam.
Hay nói chính xác là hình thức Thiển Tịnh song tu, như chúng ta đã đề
cập đến trong Phật giáo thời Lý.
Sau thế kỷ XVI tư tưởng Phật giáo Việt Nam mang nhiều tính phức tạp hơn,
tuy không mất đi cái mạch nguồn của nó. ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc
hiện ra rõ nét hơn. Tông phái Trúc Lâm tiếp tục phát triển với vai trò
của nhà sư Chân Nguyên. Nhưng Chân Nguyên không chỉ là tổ truyền thừa
của Trúc Lâm mà còn chịu ảnh hưởng của phái Lâm Tế xâm nhập vào nước ta
khoảng thế kỷ XVII.
Cho dù thực tế thiền phái Trúc Lâm đã chịu ảnh hưởng một phần nào đó
tư tưởng Lâm Tế từ trước, trong tư tưởng của Huyền Quang vị tổ thứ ba
của Trúc Lâm. Lâm Tế chính phái (sau thế kỷ XVII) có quan hệ một cách
chặt chẽ với Chuyết Chuyết, Minh Hành - những nhà sư Trung Quốc.
Học trò người Việt của hai vị sư này là Minh Lương. Minh Lương là
người đã đổi tên cho Chân Nguyên sau khi ông đắc pháp. Sau này, thậm chí
Liên Xã của Trịnh Thập cũng được xếp vào phái Lâm Tế vì ông đã học Chân
Nguyên.
Phái Liên xã của Trịnh Thập còn gắn liền với chùa Liên Phái và tháp
Cửu Phẩm Liên Hoa bằng gạch xây dựng ở trước chùa, thế kỷ XIX. Nó mang
nhiều tính chất biểu tượng hơn là chức năng để tu tập niệm Phật.
Điểm qua các vị chân sư thuộc giai đoạn Phật giáo Phục hưng ở đàng
ngoài, ta có thể nhận ra những mối liên hệ mật thiết của các tòa Cửu
Phẩm Liên Hoa. Thiền sư Chuyết Chuyết, Minh Hành gắn bó với chùa Bút
Tháp, mặc dầu Cửu Phẩm Liên Hoa chùa Bút Tháp hiện tại không ghi người
khởi dựng.
Qua một số thư tịch cổ chép là do Huyền Quang (Tổ thứ 3 dòng thiển
Trúc Lâm Yên Tử xây dựng. Đến thế kỷ XVIII thì được sư Tính Hài dựng
lại. Thiền sư Chân Nguyên là người đã cho dựng cây Cửu Phẩm Liên Hoa
chùa Đồng Ngọ thuộc tỉnh Hải Dương. Ông không chỉ là tác giả của riêng
cây phẩm này mà còn xây thêm 2 cây phẩm ở các chùa khác nữa như chùa
Quỳnh Lâm, chùa Hoa Yên trong hệ thống các chùa thuộc dòng Trúc Lâm Yên
Tử.
Hiện nay trong số chùa miền Bắc thì chỉ còn 3 tháp Cửu Phẩm Liên Hoa còn nguyên vẹn, có niên đại XVII-XVIII.
Sự ra đời và nở rộ của các tháp Cửu Phẩm Liên Hoa trong giai đoạn này
cho thấy không chỉ đơn thuần xuất phát là Tịnh Độ, mà nó còn được cộng
hưởng bởi nhiều yếu tố tư tưởng Phật giáo khác nhau. Tư tưởng chủ yếu
vẫn là Thiền và Tịnh, dù yếu tố Thiền - Tịnh song tu có từ thời Lý -
Trần nhưng đến đây đã mang màu sắc khác. Không loại trừ màu sắc của Mật
tông vốn có trong đạo Phật thời Lý trong các Thiền phái như Tỳ Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông, kể cả Thiển phái Trúc Lâm.
Chúng không được gọi tên một cách biệt lập mà chỉ được coi như một
yếu tố có màu sắc Mật giáo, hay có nguồn gốc từ Mật giáo sau đó bị biến
đổi trong các họat động và thực hành của các Thiển phái mà thôi. Do đó,
trong nghệ thuật tạo hình các yếu tố này cũng liên tục được trộn lẫn với
nhau, để tạo nên một giá trị khá đặc trưng cho văn hóa Phật giáo Việt
Nam.
Như vậy sự hình thành tháp Cửu Phẩm Liên Hoa trong lịch sử kiến trúc
Phật giáo Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục. Chúng là sự
tiếp nối của các mô hình chùa tháp biểu tượng cho Phật hay một vị quân
vương chiếm vị trí trung tâm của ngôi chùa, tháp - chùa hoa sen với
nghĩa biểu tượng là thế giới thanh tịnh của đức Phật và cuối cùng là
tháp Cửu Phẩm Liên Hoa, hình thức tượng trưng cho luận thuyết của Phật
giáo Tịnh Độ và công quả của những kẻ tu hành.
Tuy nhiên chúng không phải là sự thay thế lẫn nhau mà ở mỗi giai đoạn
các hình thức này lại mang những ý nghĩa lịch sử khác nhau. Tháp Cửu
Phẩm Liên Hoa khi đạt đến độ hoàn thiện vào đầu thế kỷ XVIII là sự chứng
thực cho những thay đổi và chuyển biến về tư tưởng Phật giáo Việt Nam
qua các thời đại. Từ Thiền - Tịnh trong Phật giáo Lý - Trần làm nền
tảng, chuyển sang một hình thức mới mẻ rõ nét hơn trong thế kỷ XVII.
Tư tưởng này được hòa trộn rất nhiều các yếu tố khác nhau mà trong
đó: Thiền - Tịnh - Mật chiếm vị trí chủ đạo. Đồng thời các yếu tố mới
này còn mang cả tính chất thực dụng hơn. Người ta cần đến Phật pháp để
mong tìm đến sự bình an trong tâm hồn vào thời loạn và tìm được ý nghĩa
của sự sống mới nơi cõi Cực lạc khi được vãng sinh sau khi chết.
Điều này rất phù hợp với tâm lý xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - XVIII
rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng do chiến tranh nội chiến xảy ra liên
miên.
Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa là một sản phẩm tất yếu của xã hội và Phật
giáo Việt Nam giai đoạn này. Cho dù chúng không có tính phổ biến như
tượng Adiđà hay các thể loại tượng Quan âm đặc biệt phát triển mạnh thời
đó. Nhưng do gần hơn với giáo lý Phật và mang mầu sắc bác học uyên
thâm, nên Cửu Phẩm Liên Hoa lại gắn liền với tên tuổi các bậc chân tu,
chiếm vị trí quan trọng trong các ngôi chùa trung tâm.
Cửu Phẩm Liên Hoa đã tạo nên một dạng thức hết sức độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam.
Tòa Tích Thiên Am, chứa tháp CPLH. Chùa Bút Tháp, Bắc Ninh
Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Bút Tháp
Nhà "Phẩm" chùa Giám, Hải Dương
Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Giám
Nhà "Phẩm" chùa Động Ngọ (chùa Cập Nhất) huyện Thanh Hà, Hải Dương
Tháp Cửu phẩm liên hoa chùa Động Ngọ
Theo: Blog Nguyen Xuan Dien