CẢM HỨNG BẢN THỂ GIẢI THOÁT và CẢM HỨNG
CÕI THIÊN NHIÊN PHẬT NHIỆM MẦU TRONG TÁC PHẨM THI CA CHỮ HÁN – NÔM CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM ĐỜI TRẦN
Thích
Phước Đạt
Khi bàn về cảm
hứng sáng tạo, Võ Gia Trị cho rằng “Suy đến cùng cảm hứng là một dạng năng
lượng của trí tuệ con người, cái sức mạnh được tập trung cao độ đó giúp họ vượt
qua được những khó khăn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, giải phóng họ khỏi
những ràng buộc, đem lại cho người nghệ sĩ cái cảm giác tự do tuyệt vời nhất
trong sáng tạo nghệ thuật.”[1]. Và nếu cảm hứng sáng tạo là
bản chất của người nghệ sĩ trước cái Đẹp, thì cảm hứng chứng ngộ tâm linh là
thuộc tính tất yếu của những con người siêu phóng, ngập tràn niềm tin trong cuộc
hành trì tìm cầu, chứng đạt Chân lý. Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền
phái Trúc Lâm, có thể nêu lên đây những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải
thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu, cảm hứng nhân văn – thế sự và
cảm hứng quê hương đất nước – quê hương Thiền tông thật phong phú, đầy
sáng tạo của các giá trị thẩm mỹ, được bắt nguồn từ sự trực cảm tâm linh của những
tâm hồn nghệ sĩ - thiền gia, thiền sư chứng ngộ. Trong khuôn khổ bài này chỉ
xin trình bày hai cảm hứng Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên
nhiên Phật nhiệm mầu mà thôi.
1. Cảm hứng
bản thể giải thoát trong thơ văn của Thiền phái
Cũng như các
thiền sư đời Lý, tác giả Thiền phái Trúc Lâm đời Trần diễn đạt tiến trình tu tập,
chứng đạt nguyên lý và sự vận hành của vạn pháp, sự lĩnh hội thế giới tự chứng
tự nội qua thơ văn của mình. Điều lý thú là chúng được trình bày bằng những
hình ảnh khá sinh động bóng bẩy, sinh động và giàu sắc thái nghệ thuật. Về khía
cạnh mỹ cảm này, các tác giả Thiền phái hơn hẳn các thiền sư thời Lý. Lê Văn
Siêu trong sách Văn học thời Lý đã nhận xét khá tinh tế “Người thời
Lý đã dùng một loại thơ trầm lặng và trang nghiêm (không vui, không buồn, không
sợ, không đau, không yêu, không ghét)”[2]. Mặc
dù, thỉnh thoảng đó đây, chúng ta cũng bắt gặp các tác giả đời Lý nói về bản thể
giải thoát có hương vị hữu tình, nhưng cũng là những hình ảnh nguyên bản trong
kinh điển Đại thừa của thế giới chân tâm thường trụ, duyên sinh vô ngã, sắc
không, hữu vô… trong nguyên lý vạn vật đồng nhất thể.
Trong khi đó,
các tác giả Thiền phái Trúc Lâm thì rất sở trường trong việc hình tượng hóa vấn
đề bản thể giải thoát luận. Điều này là có cơ sở, bởi vì các nhà mỹ học chỉ ra
rằng chính các trước tác kinh điển là “ngọn nguồn vô tận để khơi gợi cảm hứng
sáng tác”. Mặt khác, “ngoài giá trị gợi ý khuynh hướng sáng tác, các trước
tác kinh điển còn để lại cho văn học đời sau một số hình tượng nghệ thuật trở
thành nguồn thi liệu giúp cho nhà thơ, nhà văn sáng tác.” [3].
Đọc lại tác
phẩm thơ văn của các tác giả của Thiền phái trước tác, chúng ta thấy họ phản
ánh khá sinh động, hấp dẫn về thế giới bản thể giải thoát đối với người đọc. Việc
quy định các thể loại luận thuyết tôn giáo, kệ và ca, thơ Thiền
để họ trước tác cũng phản ánh sự cảm thức sâu lắng trong tiến trình tu tập
giải thoát tâm qua nguyên lý Duyên sinh vô ngã. Chính đức Phật từng nói “Ai
thấy Duyên khởi là người đó thấy pháp, ai thấy pháp là người đó thấy Như Lai” được
ghi lại trong nhiều bản kinh. Do đó, các thiền gia, thiền sư nhìn nhận các
pháp, con người là duyên sinh vô ngã, vô thường, chúng là giả danh, thực tướng
vạn pháp là “không” theo tinh thần Bát bất của Trung Quán luận
mà Long Thọ diễn giải “Bất sinh diệc bất diệt, Bất thường diệc bất đoạn, Bất
nhất diệc bất dị, Bất lai diệc bất khứ.” [4] (Chẳng
sinh cũng chẳng diệt, Chẳng thường cũng chẳng đoạn, Chẳng một cũng chẳng khác,
Chẳng đến cũng chẳng đi.) .
Đề cập vấn đề
này, tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết Quan niệm về bản thể ở bộ phận
“tàng trữ thi ca” trong Thiền uyển tập anh cho rằng “Xem xét bộ phận thơ
ca được tàng trữ trong Thiền uyển tập anh nói riêng – trong toàn bộ triết học
và văn học Phật giáo nói chung – vấn đề “bản thể” thường xuyên được đặt ra và
giữ vị trí trong yếu. Điều này thể hiện trước hết bởi nó liên quan trực tiếp đến
nhận thức, cách hiểu và giải thích thế giới (vật chất, hiện tượng, tâm linh…)
và cuối cùng là chính các biện pháp nghệ thuật, các hình thức thể hiện in đậm sắc
thái thi ca – triết học Phật giáo về vấn đề bản thể.” [5].
Điểm đáng chú
ý nữa là việc họ liễu ngộ các pháp và chứng ngộ giải thoát được giải trình qua
các thể loại sáng tác nói trên không chỉ dành cho các đệ tử xuất gia mà phổ biến
rộng khắp cho các đối tượng tiếp nhận. Việc sử dụng các thể loại như luận thuyết
tôn giáo, kệ, ca, thơ Thiền mang tính chức năng và yếu tố hình tượng hoá triết
lý Thiền - Phật trong sự phản ánh vấn đề bản thể giải thoát của Thiền phái là tất
nhiên và hợp lý.
Từ các điểm
nhìn nói trên, cảm hứng bản thể giải thoát khi đi vào thơ văn của Thiền phái
Trúc Lâm đã trở nên tự nhiên hơn so với thời Lý. Nó như bức tranh hiện thực cuộc
sống có nhiều đường nét chấm phá, với nhiều gam màu lung linh huyền diệu. Do
đó, hành trình trở về bản thể giải thoát được giải trình bằng một ngôn ngữ, giọng
điệu, cách biểu đạt, thi liệu mang tính hiện thực với bút pháp nghệ thuật cao để
hấp dẫn người đọc. Hơn nữa, bản thân các nhà sáng tác thơ văn của Thiền phái là
những người không thuần tuý sống trong cảnh giới Thiền đường u tịch mà thể nhập
cuộc sống bụi trần mà chứng ngộ. Vì thế, nó không còn là cuộc diễn trình độc
thoại giữa thầy và trò “dĩ tâm truyền tâm” nói về hình ảnh bản tâm, chân tâm
thuần tịnh mà thay vào đó là các hình tượng hoá mang sắc thái thi ca nghệ thuật
để phổ cập quần chúng. Rõ ràng, các nhà thơ văn của Thiền phái đã có một sự
thay đổi cách nhìn trong cảm quan Thiền học, tạo ra hướng tư duy thẩm mỹ về bản
thể giải thoát. Khởi đầu là Trần Thái Tông lĩnh thụ tuyên ngôn của Nam Tuyền “Bình
thường tâm thị đạo” trong Niêm tụng kệ 17; Tuệ Trung khởi xướng “Bồ
tát nói pháp, ta nói thực”. Tất cả đã cùng cất lên khúc nhạc với những giai
điệu đa âm, cung bậc thăng trầm khác hẳn cái âm hưởng “kệ thị tịch” thuần
chất Phật pháp của các nhà sư thời Lý vang lên từ cánh cửa Thiền môn thanh tịnh.
Trên bình diện
tổng thể, ta thấy các bài kệ tóm thâu ý Phật pháp hay Thiền học được viết sau
các bài Phổ thuyết và các bài kệ trong Khóa hư lục của Trần Thái
Tông; Thượng sĩ ngữ lục của Tuệ Trung; kệ thị tịch và kệ kết thúc bài Cư
trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Sư đệ vấn đáp của Trần
Nhân Tông; kệ thị tịch và các bài kệ trong Yếu minh học thuật của Pháp
Loa; bài kệ kết thúc Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang, bài nào cũng
hay và khá giàu hình tượng nghệ thuật với việc sử dụng thi liệu từ suối nguồn
kinh điển Đại thừa và thiên nhiên hữu tình. Có bài kệ nếu ta thêm tựa đề vào
thì trở thành bài thơ trữ tình diễn đạt phong vị bản thể giải thoát của Thiền.
Chẳng hạn, bài kệ kết thúc đoạn mở đầu bài Phổ thuyết Tứ sơn để lại dấu ấn
tâm linh cho người đọc trong cuộc hành trình tìm về bản lai diện mục với hình
tượng hóa “lư nhi tam cước đại” (con lừa ba chân) vượt qua “tứ sơn tiểu
bích” (bốn núi cheo leo) [6]. Hay bài kệ thứ sáu
trong phần Tụng cổ của Tuệ Trung cũng thật ấn tượng không kém gì bài kệ
trên đối với người đọc khi diễn đạt Phật tính là bất sinh bất diệt, bất động bất
tĩnh với hình ảnh con giun bị chặt đứt thành hai khúc, mổ bụng con rùa mà tìm
kiếm “Khâu dẫn trảm vi lưỡng đoạn thì, Lưỡng đầu câu động hữu thùy tri. Vấn
lai Phật tính toàn nan đắc, Cô phụ khoa trường tạng lục quy.” [7](Chặt đứt con giun thành
hai khúc, Hai đầu đều động, có ai ngờ. Hỏi rằng tính Phật không hề biết,
Mổ bụng cất rùa uổng phí chưa.).
Khi đi vào
chi tiết cụ thể của từng tác phẩm thơ văn của Thiền phái, hành trình tìm về bản
thể giải thoát càng được thi hoá mang tính nghệ thuật cao qua các hình ảnh sống
động, lung linh huyền ảo và thật gần gũi. Từ hình ảnh ánh trăng soi chiếu dòng
sông, con thuyền lướt sóng, cho đến hạt châu ma ni lấp lánh hay gương soi huyền
diệu… Tất cả như tạo nên dòng mạch cảm hứng mới rọi chiếu bản thể giải thoát,
khiến người đọc dễ nắm bắt và cảm thụ một cách sâu lắng.
Ai từng đọc
kinh nhà Phật thì sẽ thấy hình ảnh ánh trăng bừng sáng như rọi chiếu khắp mọi
không gian bao la của vũ trụ, con người cảm nhận vẻ đẹp của trăng mà hằng sống
với bản tính thanh tịnh huyền diệu của mình “Thế nhân tính tịnh, do như
thanh thiên, Tuệ như nhật, Trí như nguyệt, Trí tuệ thường minh” (Tính của thế
nhân thanh tịnh, như trời quang tịnh, Tuệ như mặt trời, Trí như mặt trăng, Trí
tuệ thường minh). Trăng trở thành hình ảnh biểu trưng cho trí tuệ Bát nhã
thường nhiên của chân tâm người đạt đạo “Trí giả do như nguyệt chiếu thiên.”
[8] (Người trí tự tại, tự do
như ánh trăng trời cao.). Trăng hồn nhiên, lặng lẽ bước vào thế giới thi ca
Thiền phái khiến người đọc có cảm giác như đi giữa không gian ngập tràn ánh
trăng. Trăng xuất hiện đến 18 lần trong toàn thể kệ thơ Thiền phái. Trăng trở
thành suối nguồn của cảm hứng triết lý bản thể giải thoát và cảm hứng ngợi ca bản
thể giải thoát. Trăng gợi lên cái tự tính thường nhiên, tịch tĩnh sáng trong, rọi
chiếu tất cả. Trăng trở thành hình tượng nghệ thuật sinh động, đầy gợi cảm.
Ta hãy chiêm
nghiệm vẻ đẹp ánh trăng bản thể diệu kỳ của thi nhân Thiền: “Tạc dạ nguyệt
minh kim dạ nguyệt” (Trăng sáng đêm qua vẫn là trăng sáng đêm nay) (Đốn tỉnh) [9],
“Kiến nguyệt an năng khổ tâm chỉ” (Thấy mặt trăng rồi sao còn vất vả tìm
ngón tay) (Sinh tử nhàn nhi dĩ) [10].
Có khi “cõi trăng” được tác giả thi hoá thành “cõi vô tâm”: “Bao nhiêu phong
nguyệt, về cõi vô tâm.” (Vịnh Vân Yên tự phú)[11]. Trăng cũng bước
vào cõi thơ Trần Nhân Tông với đẹp diệu kỳ, tự soi mình để hướng tâm nhìn về
hành trình bản thể “Ỷ lan hoành ngọc địch, Minh nguyệt mãn hung khâm.” [12]
(Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc, Ánh trăng sáng chan hoà trước ngực.)
(Đăng Bảo đài sơn) . Trăng không chỉ là vẻ đẹp ngoại cảnh mà còn là thế giới
chân như nhiệm mầu, đầy ắp hoa xuân giữa trần thế “Nhất thiên như thuỷ, nguyệt
như trú, Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.” [13] (Trời trong như
nước, trăng sáng như ban ngày, Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân
triền miên.) .
Hình ảnh con
thuyền Bát nhã hay chiếc bè sang sông trong kinh điển Phật giáo thường được biểu
đạt cho phương tiện chuyên chở người mê cập bến bờ giải thoát. Khi đi vào thơ
văn của Thiền phái, nó trở thành hình ảnh chiếc thuyền con, một khách hải hồ lướt
sóng nước, chân trời mênh mông “Tiễu đĩnh trường giang đãng dạng phù” [14]
(Thuyền nhỏ lênh đênh trên sông dài), hay “Nhất diệp biển chu hồ hải
khách” (Một lá thuyền con, một khách hải hồ)[15] . Rõ ràng, các tác
giả của Thiền phái là những người trần tục gặp nhau giữa bến bờ sinh tử, nhưng
tâm hồn họ luôn khai phóng của người đạt đạo. Đó là những con người lướt trên
sóng gió để an trú tâm giữa cõi “thanh phong minh nguyệt” (trăng thanh gió
mát), nghe được tiếng vi vu của gió trời, tiếng nhạn vừa vụt thoáng qua.
Chính trong những giây phút thanh tịnh của chân tâm mà thiền gia và thi nhân hội
ngộ khắc hoạ những vần thơ mô tả cuộc hành trình về bản thể giải thoát thật tuyệt
đẹp và huyền diệu: “Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma, Quang âm như tiễn hựu như
thoa. Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc, Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.” [16]
(Chí xưa hồ hải chưa từng khuấy, Tên vút, thoi đưa, tháng lại ngày. Gió
mát trăng thanh, sinh nhai đủ, Non xanh nước biếc, thú vui đầy. Giương
buồm, sáng sớm băng mù thẳm, Nâng sáo, chiều hôm giưỡn khói mây. Dấu tích Tạ
Tam nay đã bặt, Thuyền không gối bãi luống còn đây.).
“Hồ hải sơ
tâm” là chân tâm của
con người, cũng là tự tính uyên nguyên của vũ trụ giữa không gian vô cùng, thời
gian vô tận. Và như thế “thuyền Không” là con thuyền vừa thực, vừa hư vẫn tự tại
gương buồm lướt sóng nước, với tiếng sáo vi vu, đi qua những sớm mai chiều hôm
trong cõi “sắc không” nhiệm mầu của trần thế. Vậy là từ chiếc “thuyền con” đến
chiếc “thuyền không”, mà con người an nhiên cập bến bờ giải thoát như lời Nguyễn
Lang nhận định “Không những đứng về phương diện tư tưởng mà đứng về phương
diện văn học, hình ảnh một chiếc thuyền trống không, lặng lẽ vượt biển dưới ánh
trăng tịch tĩnh Lăng Già là một hình ảnh mầu nhiệm” [17].
Sự nhiệm mầu
đó nằm ở ngay cảnh giới thực tại bụi trần để hằng sống với tự tính uyên nguyên
bao la của trời đất. Vì thế, cảm thức giải thoát của thi nhân Thiền phái cứ tiếp
tục trào dâng với những hình ảnh an nhiên tự tại nhưng cũng đầy chất siêu phóng
trào lộng: “Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu, Thùy thính cô viên đề xứ
thâm.” [18] (Người đời chỉ thấy
nghìn non sáng, Tiếng vượn rừng sâu ai biết không?) (Phỏng Tăng Điền đại sư),
hay “Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky.” [19]
(Vượt qua mọi “cái không chi cả”, Cưỡi ngược trâu bùn mặc sức ta.) (Điệu
tiên sư), hoặc “A thùy hội đắc nương sinh diện, Thủy tín nhân thiên tổng
giả danh.” (Khuôn trăng người mẹ ai hay biết, Trời nọ người kia thảy giả
danh.) (Thời tiết an định) [20]... Thực chất đây chỉ là
cách biểu đạt khác nhau về sự cảm hứng bản thể giải thoát mà Tuệ Trung say sưa
biến tấu qua nhiều cung bậc lúc trầm, lúc bỗng theo nhịp đập trái tim con người
trần trục.
Cũng cung bậc ấy,
Trần Thánh Tông có nhiều bài thơ, tứ thơ nói về bản lai diện mục từ khi ông bước
vào làng Thiền như trong bài Tự thuật [21]:
“Tự tòng quán giốc nhập Thiền lưu, (Từ phen để chỏm, nhập
làng Thiền,
Đả ngõa toàn quy một ngoại cầu. Đập ngói dùi rùa dốc
chí bền.
Nhận đắc bản lai chân diện mục, Nhận được khuôn
trăng như nó có,
Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu.” Đến đâu mà chẳng thấy hồn
nhiên.)
Thấy được bản
lai diện mục là thấy được tự tính giác ngộ, là nghe được “Cá trung khúc phá
vô nhân hội, Duy hữu tùng phong họa thử âm.” [22] (Khúc
nhạc trong lòng, không kẻ hiểu, Hòa âm họa có gió thông ngàn.). Đây cũng là
hình tượng “Nương sinh diện” chỉ cho bản thể giải thoát mà trong bài Độc
Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, ông viết “Nhất triêu thức phá nương sinh diện,
Tỷ không nguyên lai một bán biên.” [23] (Một
mai nhìn thấy dung nhan mẹ, Mới biết khuôn trăng khuyết một bên.) . Ý thơ
thật hàm súc, cô đọng, kiệm lời nhưng diễn tả cả thế giới nhị nguyên khi con
người chưa nhìn thấy rõ dung nhan “mẹ” và thế giới chân như tròn đầy của
“mẹ” cùng song hành một lúc trong một câu thơ.
Như vậy, giữa
Phật và chúng sinh, sinh tử và Niết bàn, phiền não và Bồ đề có đối đãi chỉ là
do cái nhìn có vọng kiến khởi lên “Niết bàn sinh tử mạn la lung, Phiền não Bồ
đề nhân đối địch.” [24] (Niết bàn, sinh tử buộc
ràng suông, Phiền não, Bồ đề đối nghịch dối.), thực chất chỉ là thế giới chứng
ngộ diễn bày khi con người khởi lên cái nhìn chánh kiến tuệ giác “Xuân lai tự
thị xuân hoa tiếu, Thu đáo vô phi thu thủy thâm.” [25] (Xuân
đến tự nhiên hoa xuân nở, Thu sang đâu chẳng nước thu trong) (Phật tâm
ca) mà Tuệ Trung muốn bày tỏ. Hay nói cách khác, đó là thế giới thực tại
thường nhiên “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố.”[26] (Sống
như mặc áo, Chết như cởi quần.) để rồi tung hứng hoát nhiên đại ngộ “Bát
tự đả khai phân phó liễu, Cánh vô dư sự khả trình quân.” [27] (Mở toang tám chữ mà
trao, Có đâu dư chuyện ngõ hầu trình anh.) mà Trần Thánh Tông hát khúc ca Sinh
tử trước một ngày giã từ trần thế.
Bát tự là
chính là “Sinh diệt diệc dĩ, tịch diệt vi lạc.” (Sinh diệt là diệt rồi,
thì tịch diệt là vui.) chỉ cho “Tuyết sơn bát tự”. Trong bài Hữu
cú vô cú, Trần Nhân Tông viết: “Bát tự đả khai, Toàn vô ba tị.” [28](Tám
chữ mở ra, Không còn khó nghĩ.). Trong văn cảnh bài thơ này thì “bát tự” có
thể là tám chữ mở đầu bài thơ “Sinh như trước sam, Tử như thoát khố”, nó
không ngoài ý nghĩa trên. Đây chỉ là cách diễn đạt khác về bản thể giải thoát rất
hình tượng và gần gũi người Việt hơn, trên hết là nó đẩy đưa cái hương vị Thiền
của bài thơ đi xa hơn, có thể vào nơi sâu thẳm nhất của tâm thức người đọc.
Rõ ràng, các
tác giả Thiền phái từ trong cuộc sống tùy duyên mà vui với đạo, đã tạo ra những
đoạn văn, bài kệ, bài ca, bài thơ với những cung bậc, tiếng nói “đa thanh”, như
lời nhận định tinh tế của Trần Thị Băng Thanh trong một bài viết Huyền Quang
và những trang đời nhiều huyền thoại, những vần thơ nhiều hàm nghĩa. [29]. Theo chúng tôi, đó là cách
diễn đạt bản thể giải thoát bằng hình tượng, có khi tỏ ra nghiêm cẩn, lúc thì
trầm lặng, hay bay bổng trào lộng, khi thì tự tại, mộc mạc bình dị hết mức có
thể. Nghĩa là cảm thức Thiền học của các nhà trước tác Thiền phái Trúc Lâm có sự
thay đổi cách nhìn với biên độ rộng hơn so với các nhà thơ - thiền sư đời Lý, đồng
thời cuộc sống trần tục mà giải thoát đã tạo cảm hứng sáng tạo trong sáng tác vừa
mang tính triết lý, vừa có tính nghệ thuật của mỹ học Thiền “rất riêng”.
Trần Thái Tông
với cảm hứng sám hối, Tuệ Trung với cảm hứng phóng cuồng, Trần Thánh Tông với cảm
hứng trần thế tùy tục, Trần Nhân Tông với cảm hứng tùy duyên ngộ đạo, Pháp Loa
trung thành cảm hứng Phật ý kinh điển, Huyền Quang với cảm hứng giải thoát
trong trời đất bao đầy thế sự; Tất cả đã tạo ra những áng văn, vần thơ tuyệt
tác đầy hương vị giải thoát, thấy rõ bản tính thường nhiên bằng đôi mắt “kiến
tính” thật nhẹ nhàng thi vị như thúc giục con người hướng về phía trước. Để
rồi Huyền Quang mộng thấy Quan Âm vào trong cỏ, ngủ tít canh ba sẽ thấy chính
mình, ngồi ngắm hoa rụng, ngoảnh nhìn đời bụi bặm như là cuộc hành trình tìm về
bản lai thanh tịnh mà ông thường hát khúc ca quen thuộc “Phản quang trần thế
giới, Khai nhãn túy mang mang.” [30] (Ngoảnh
nhìn đời bụi bặm, Mở mắt dường say sưa.).
2. Cảm hứng
cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu
Theo tác giả sách Văn học Phật giáo Thời Lý - Trần – Diện mạo và đặc
điểm thì: “Đối với những sáng tác văn chương chịu ảnh hưởng Nho giáo, có
thể nói, thiên nhiên là đối tượng để người sáng tác bày tỏ, chia sẻ tâm trạng,
gởi gắm nỗi niềm, thiên nhiên là hình chiếu của tâm trạng vì “Người buồn cảnh vật
có vui bao giờ” (Nguyễn Du), thiên nhiên là bầu bạn tri kỷ tri âm với con người.
Còn những sáng tác văn chương chịu ảnh hưởng Phật giáo thì giữa thiên nhiên với
con người có sự giao cảm, cộng hưởng, hòa nhập, nhất là khi con người đạt đến
cái tâm trong suốt, vắng lặng. Lúc đó, con người thể nhập cái tâm của mình làm
một với cái tâm bản thể chân như vũ trụ, đất trời vạn vật.”[31]. Đây cũng là lý do mà các
nhà nghiên cứu trước đây như Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia Khánh, Lê Trí Viễn, Kiều
Thu Hoạch, Nguyễn Huệ Chi, Thích Mãn Giác, Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Thị Thu Vân,
Thích Phước An… qua các chuyên luận đều phản ánh hình ảnh thiên nhiên mang tính
biểu tượng bởi một cảm quan Phật giáo Thiền tông, hoặc hình ảnh thiên nhiên hiện
thực với vẻ đẹp sinh động ngập tràn thẩm mỹ thông qua cảm quan Thiền học để
rung cảm, phản ánh.
Như vậy, thiên
nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho các thiền gia, thiền sư Thiền phái Trúc Lâm
sáng tác không chỉ để giải bày thế giới tâm thức chứng ngộ nói trên, mà nó còn
phản ánh thế giới thiên nhiên Phật nhiệm mầu qua thế giới tự chứng tự nội,
thực tại bây giờ và tại đây của người chứng đạo. Nghĩa là từ trạng thái thăng
chứng thuần tịnh tuyệt đối của tâm mà con người sinh hoạt với thân khẩu
ý hành cùng nhau tương duyên, tương tác, tỉnh thức mà không hề đối nghịch, cũng
như không hề hủy hoại bản sắc cá biệt của mỗi hiện hữu.
Nói theo ngôn
ngữ của kinh Hoa Nghiêm, đó là trú xứ của những ai mong mỏi bước vào
trong vinh dự của gia tộc Như Lai – một dòng sống với động mạch tâm linh bất diệt.
Và nó không đơn giản chỉ là một thế giới u huyền như người ta lầm tưởng mà trú
xứ ấy vốn hiển hiện trần gian, một trú xứ rất thực mà kinh bảo rằng: “Khi Phật
nhập vào Tam muội (Samàdhi), bỗng phút chốc, cái túp lều Ngài đang ngự đột
nhiên tan biến và trải rộng đến tột cùng bờ mé của vũ trụ; nói khác đi, Phật là
vũ trụ, vũ trụ là Phật. Màu hắc ám của rừng Thệ Đa (Jetanana) nơi trần gian, vẻ
trần tục của đống cỏ khô thiết tòa sư tử mà đức Thế Tôn đang ngự thuyết pháp, một
nhóm khất sĩ lam lũ đang nghe kinh, trong cái thực tại không bản ngã – tất cả đều
hoàn toàn tan biến ở đây.” [32].
Với thực tại
duyên khởi tính mà các nhà trước tác của Thiền phái đã diễn trình thế giới
thiên nhiên chính là cõi Phật nhiệm mầu, xuất phát từ trong thế giới hiện thực “bây
giờ và tại đây” qua cái nhìn duyên khởi từ sự “thăng chứng tâm linh”
mà không phải là sự “tùy thuộc phát sinh” trên lăng kính vật lý. Như thế,
chúng ta có thể giải mã những áng văn, vần thơ của các tác giả Thiền phái từ
nguồn cảm hứng nói trên. Cụ thể, Trần Thái Tông đã viết về thế giới Phật được
chuyển hóa từ thế giới thực tại “… Xứ xứ đại quang minh tạng; cơ cơ bất nhị
pháp môn. Trực nhiên ám khứ minh lai; quản thậm vân già nguyệt tế. Minh châu tại
chưởng, thanh ánh thanh, hoàng ánh hoàng; cổ kính đương đài Hồ hiện Hồ, Hán hiện
Hán. Khởi quang huyễn thể; tận thị pháp thân. [33] (Chốn
chốn là tạng đại quang minh; cơ cơ là pháp môn bất nhị. Mặc sức mờ đi tỏ
lại; ngại chi trăng phủ mây che. Hạt trai sáng ở tay, xanh ánh xanh, vàng ánh
vàng; gương cổ đặt trên đài, Hồ hiện Hồ, Hán hiện Hán; Can chi huyễn thể; thảy
đều pháp thân.). Có thể nói, thiên nhiên Phật được các tác giả của Thiền
phái Phật hóa từ hiện thực cuộc sống qua một tâm thức chứng ngộ. Biện chứng giải
thoát có khả năng lý giải thiên nhiên hữu tình được chuyển hóa thành thế giới
thiên nhiên Phật quốc an tịnh với một trực cảm tâm linh của người đạt ngộ:
“Thanh sơn đê xứ kiến thiên khoát, (Non xanh nơi thấp
trông trời rộng,
Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương.”[34] Sen đỏ mùa hoa nghe nước
thơm.)
Khi không gian
thiên nhiên được chuyển hóa thì tâm thức con người mở rộng, tiếp cận cái vô hạn
bao la của trời đất, cái tĩnh lặng của hư không, thời gian như thể nhập vào
giác tính thường nhiên, bởi con người đã giác ngộ và tâm thức vắng lặng, như Niêm
tụng kệ 38 nói: “Trúc ảnh tảo giai trần bất động, Nguyệt luân xuyên hải
thủy vô ngân.” [35] (Bóng trúc quét thềm, bụi
chẳng động, Vành trăng xuyên biển, nước không nhăn.).
Với tâm thức
khai mở của tuệ giác vô thượng, con người thể nhập vũ trụ bao la, thiên nhiên hữu
tình trong cõi sắc không mà không có một sự giới hạn nào cả. Nó chiếm lĩnh tất
cả các chiều của không gian trong sự hòa điệu không thể tách biệt từ một điểm
nhìn như trong Ngữ lục vấn đáp môn hạ diễn đạt “Thiên giang hữu thủy
thiên giang nguyệt, Vạn lý vô vân vạn lý thiên.”[36]
(Muôn sông có nước trăng muôn sông, Vạn dặm không mây trời vạn dặm.). Thiên
giang, vạn lý là những con số tượng trưng mang tính ước lệ, biểu đạt cho khoảng
cách xa, gần, rộng, dài, trên hết là sự vô cùng tận của không gian đa chiều.
Con người, thiên nhiên, thời gian dường như là một thực thể duy nhất, cứ thế mà
vận hành trong dòng sống tương tục. Và Trần Nhân Tông thường diễn đạt thế giới
thiên nhiên qua cảnh xuân thường tịnh, chứ không phải theo mùa xuân thời tiết.
Trong số 32 bài thơ của ông còn lưu trữ trong Thơ văn Lý - Trần, tập 2
thì có đến 12 bài nói đến cảnh xuân với những cảnh vật thiên nhiên hữu tình được
tâm thức ông chuyển hóa ở những cấp độ thăng chứng tâm linh khác nhau.
Chẳng hạn, lúc
sáng sớm, cảnh vật mùa xuân chẳng khác gì thiên nhiên Phật thường được diễn đạt
trong kinh điển Đại thừa (Nhất song bạch hồ điệp, Phách phách sấn hoa phi.” [37](Kìa
một đôi bướm trắng, Nhằm hoa, phơi phới bay.) (Xuân hiểu); khi đối diện trước
cái chết của chị mình là công chúa Thiên Thụy, Trần Nhân Tông vẫn khát vọng
chuyển hóa thế giới mùa xuân cỏ cây hoa bướm hữu tình trong cõi sắc không thành
cõi Phật: “Ma cung hồn quản thậm, Phật quốc bất thắng xuân.” [38]
(Cung ma nếu quản chặt, Cõi Phật xuân không cùng.). Thậm chí, khi ông
đang ngự trong long sàng chiếu trúc hay ngắm xuân tàn giữa cánh hoa tan tác rụng,
thơ của ông vẫn chất chứa sự an tịnh tâm hồn vừa siêu phóng vừa dân dã đầy sự
trải nghiệm tâm linh. Cuộc sống trần thế có khi mịt mờ, khuê cung lắm lúc ảm đạm,
tâm thế mùa xuân trong ông vẫn bình lặng an tĩnh: “Nhất thiên như thủy, nguyệt
như trú, Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.”[39] (Trời trong như nước,
trăng vằng vặc, Giấc mộng xuân dài dưới bóng hoa.); lúc lên núi Bảo
Đài mây núi ngập trùng, tâm thế của nhà thơ vút lên cao đồng điệu sự trực ngộ tâm
linh qua hình ảnh “Minh nguyệt mãn hung khâm”(Đăng Bảo Đài sơn) [40](Ánh trăng sáng chan hòa
trước ngực).
Cũng từ cảnh
thiên nhiên với núi - mây hữu tình, đức Phật từng khai pháp âm vi diệu Pháp
Hoa trên đỉnh núi Linh Thứu. Còn Thiền sư Vân Nham thì chứng đắc yếu chỉ
Thiền từ hình ảnh núi cao sông dài “Núi sông đất đai đều hiển lộ pháp thân” nhiệm
mầu. Như một lẽ tự nhiên, núi – mây khi đi vào thơ văn Thiền phái thì hình ảnh
mây núi trở thành hình ảnh biểu trưng của quá trình chuyển hoá tâm thức của người
học đạo. Mây núi tạo ra bức tranh thiên nhiên Phật hữu tình với những đường nét
chấm phá, dáng vẻ khác nhau. Có khi chúng như nhiên; lúc thì trầm lặng, u tịch
của cái đẹp “chân như”. Người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được thế nào là “thi -
Thiền hợp nhất”: “Sơn vân dã hữu xuất sơn thế, Giản thuỷ chung vô đầu giản
thanh” [41](Mây
ngàn vốn tự bay ra núi, Nước suối thường khi đổ xuống ghềnh.) (An định thời tiết).
Hay “Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá, Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ” [42](Núi
lặng, nước quang, âu trắng lượn, Tạnh mây, im gió, đỏ cây thưa) (Lạng Châu vãn
cảnh).
Rõ ràng, giữa
cái động của “mây trôi” và cái tĩnh của “núi uy nghiêm”, trong đôi mắt các thiền
gia – thi sĩ bao giờ cũng có sự dịch chuyển qua lại, hoà quyện vào nhau: trong
động có tĩnh và ngược lại, hay trong đời vẫn có đạo. Thật là xa, nhưng cũng thật
là gần, cõi Phật thiên nhiên hiện ra từ cái nhìn biện chứng giải thoát của thi
nhân “Vân sơn tương viễn cận, Hoa kính bán tình âm” [43]
(Núi mây như xa, như gần, Ngõ hoa bên nắng, bên râm) (Đăng Bảo Đài sơn).
Xét trong mối
tương quan, tương duyên của kinh điển Đại thừa và thơ văn Phật giáo thời Lý -
Trần thì vầng trăng của Trần Nhân Tông cũng được biểu tượng cho trí tuệ Bát nhã
của người đạt đạo. Trước đó, Lý Thái Tông mượn hình ảnh “Hạo hạo lăng già nguyệt”[44]
(Non già vầng nguyệt tĩnh) trong kinh Lăng Già để tán dương công đức
Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì thật hữu tình gợi cảm. Bảo Giám thì khắc họa cảnh
trí Phật như “Trí giả do như nguyệt chiếu thiên.” [45] (Phật
tựa vầng trăng ở giữa trời.). Đó cũng hình ảnh vầng trăng thật lung linh,
tĩnh lặng chiếu rọi qua đầm lạnh mà Trần Thánh Tông hướng đến để chứng đạt “năm
huyền nghĩa lý” nhà Phật (Như Lai, chính pháp, pháp thân, xuất thế, tự tính
thanh tịnh): “Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt lậu minh, Cú lý ngũ huyền thân thấu
đắc.”(Độc Phật sự đại minh lục hữu cảm)[46]. Còn Tuệ Trung tả cảnh
thiên nhiên Phật ở Tây phương trang nghiêm và pháp thân thì thể nhập bốn phương
Đông Tây Nam Bắc với vầng trăng đơn chiếc giữa bầu trời bao la “Trường không
chỉ kiến cô luân nguyệt, Sát hải trừng trừng dạ mạn thu.”(Bầu trời chỉ thấy vừng
trăng quạnh, Đêm lắng vào thu, biển Phật trong.) qua bài Thị tu Tây
phương bối [47]. Tâm thức và ngòi bút của
tác giả thật đồng điệu với thực tại thiên nhiên hữu tình.
Thực tế, việc
thiết lập mô hình “Đất vua - chùa làng - phong cảnh Bụt” được giới lãnh
đạo quốc gia và Phật giáo chú trọng là nhằm kiến thiết quốc gia, bảo vệ chủ quyền
đất nước, bảo tồn văn hóa dân tộc, cũng là cách để duy trì mạng mạch Phật pháp.
Ba thành tố đó thực chất là một, bởi vì khi nói đất là của vua tức là của dân;
trong đó mỗi làng đều có chùa, mà chùa do sư ở và trông coi đời sống vật chất –
tâm linh số đông quần chúng Phật tử thực thi đời sống đạo. Hóa ra, khắp cả nước
đâu cũng có chùa, mà nhiều chùa trở thành phong cảnh Bụt là nguyện vọng được
chung sống hòa bình của cả dân tộc từ xưa đến nay. Thể hiện rõ nét nhất là từ
khi nước nhà độc lập, mô hình này càng nhân rộng. Tiếp nối triều đại nhà Đinh,
Lê, Lý, đến các vị vua đời Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Minh
Tông, Anh Tông mà sách Thánh đăng ngữ lục ghi là những vị vua thực hiện
sứ mệnh đó trong việc cụ thể hóa việc xây dựng nhiều chùa, nhiều danh lam Thánh
tích Phật thiên nhiên hữu tình như Yên Tử, Quỳnh Lâm...
Chính những
ngôi chùa thân thương, thắng cảnh Phật quốc như thế là suối nguồn cảm hứng cho
các nhà văn, nhà thơ của Thiền phái Trúc Lâm khắc họa hình ảnh cõi Phật thiên
nhiên. Trần Thái Tông từng ca ngợi tâm cảnh Phật qua bài thơ Ký Thanh Phong
am tăng Đức Sơn với cảm xúc chân thật, nhưng thật đẹp làm sao: “Phong đả
tùng quan nguyệt chiếu đình, Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh.”[48] (Gió đập cửa thông trăng
lấp loáng, Lòng đây, cảnh đấy cùng thanh sảng.). Trong chiều hướng tìm cầu
giải thoát, Tuệ Trung trong bài Thị chúng đã khuyến cáo mọi người đừng
tìm cầu cõi Phật ở Thiếu Thất, Tào Khê mà ngay cõi thiên nhiên thực tại an bình
“Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc, Liên nhị hồng hương bất trước nê.” [49] (Thu trong, biếc hẳn tùy
duyên sắc, Sen ngát, hồng đâu bởi nước đâu.). Rõ ràng, có sự chuyển đổi
cách nhìn về thế giới tự nhiên để con người có thể tiếp cận cõi Phật ngay giữa
đời thường mà Sơ Tổ phác họa trong bài Đắc thú lâm tuyền đạo ca: “Cảnh tịch
an cư tự tại tâm, Lương phong xuy đệ nhập tùng âm. Thiền sàng thụ hạ nhất kinh
quyển, Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm”[50] (Sống
yên giữa cảnh lặng lòng không, Gió mát hiu hiu lọt bóng thông. Dưới gốc, giường
Thiền, kinh một quyển, Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng.).
Vẫn là thi liệu
mùa thu, ánh trăng, gió mát, mây núi, sông hồ dùng để mô tả thiên nhiên hữu
tình trong thơ văn Phật giáo Thiền tông nhằm biểu đạt thế giới thực tại tự chứng
tự nội của người đạt đạo. Điểm khác biệt giữa thơ Thiền đời Trần và đời Lý là
thi liệu đó được các tác giả Thiền phái mô tả trong một không gian thiên nhiên
Phật có khi cao rộng, khoáng đãng của trời đất với non xanh, nước biếc. Nhưng
có khi, nó chỉ là không gian nhỏ hẹp – nơi sinh hoạt tu tập của nhà thơ ở gốc
cây, Thiền sàng, quyển kinh nơi thảo am nhỏ, hay là nửa song cửa sổ có ánh đèn,
một giường đầy sách, một mảnh sân trước thư phòng… Tất cả khiến cho người đọc
có một cảm nhận về sự mênh mông vô hạn qua những giọt sương rơi trong đêm tĩnh
lặng như tạo ra chiều sâu thăm thẳm của sự tinh khiết hư không “Lộ trích thu
đình dạ khí hư” [51] mà Trúc Lâm tả trong
Nguyệt; hoặc chỉ là nén hương vừa tắt trong lều tranh, bên ngoài có mấy
khóm cây, vầng trăng chiếu sáng mà Huyền Quang hoạ trong Tảo thu: “Trúc
đường vong thích hương sơ tận, Nhất nhất túng chi võng nguyệt minh.” [52].
Tất cả các yếu
tố thi liệu đó tạo nên cõi thiên nhiên Phật sống động được chuyển hóa qua cái
nhìn tuệ giác mang đậm sắc màu, âm thanh giao hưởng đa chiều nhưng thật tĩnh lặng.
Nơi đó chính là cõi Phật Yên Tử, chẳng khác gì cõi Tây Trúc, Linh Thứu, Phi Lai
- xứ Phật ngày xưa mà Huyền Quang hướng đến. Con người hòa nhập với thiên nhiên
vũ trụ, an trú trong thế giới thanh bình, tùy duyên mà vui với đạo, ngập tràn cảm
hứng thi họa qua bài Vịnh Vân Yên tự phú: “Lạ những ôi! Tây
Trúc dường nào; Nam
châu có mấy. Non Linh Thứu ai đem về đây; Cảnh Phi Lai mặt đà thấy
đấy. Vào chưng cõi Thánh thênh thênh; Thoát rẽ lòng phàm phây phấy.
Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng.”[53].
Nhìn chung, việc
tiếp cận các tác phẩm Thiền phái Trúc Lâm là tiếp cận cái hay, cái đẹp từ điểm
nhìn mỹ học Thiền tông. Ở đó sự thật thế
giới được giải trình qua thi ca chữ Hán và Nôm của các tác giả Thiền phái Trúc
Lâm như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa,
Huyền Quang được bắt nguồn từ cảm hứng bản thể giải thoát nếu tự thân mỗi cá thể
nỗ lực tu trì và thăng chứng ngay giữa đời thường. Từ điểm nhìn này, thế giới
thực tại trở thành cõi Phật trong suối nguồn cảm hứng thiên nhiên Phật nhiệm mầu
qua từng tác phẩm mà chúng ta bắt gặp. Và như thế thơ ca của các tác giả Thiền
phái Trúc Lâm trở thành những giai điệu kết nối yêu thương của những tâm hồn
thăng chứng từ trong cuộc sống trần thế đầy những gam màu đa dạng. Tất cả không
ngoài mục đích chuyển hóa tâm thức con người để thiết lập một cuộc sống an
lành, giải thoát khổ đau ngay giữa đời thường này.
Sài gòn, mùa hạ,
ngày 12 tháng 6 năm 2008
[1] Võ
Gia Trị, Văn chương và nghệ sĩ, Nxb. Văn học, 2001, tr. 131.
[2] Lê
Văn Siêu, Văn học Việt Nam
thời Lý, Hướng Dương, SG, 1957, tr. 98.
[3]
Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb.
ĐHQG. TP. HCM, 2002, tr. 166.
[4]
Thích Thiện Siêu, Trung luận “dịch và tóm tắt”, Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
2001, tr. 327
[5]
Nguyễn Hữu Sơn, “Quan niệm về bản thể ở bộ phận “Tàng trữ giá trị thi ca” trong
Thiền uyển tập anh”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2, HN, tr.
25.
[6] Viện
Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr. 45.
[7] Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 337.
[8] Viện
Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb. KHXH, HN, 1977, tr. 482.
[9] Viện
Văn học, S đd, tập 2, tr. 269.
[10]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 282.
[11]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 711.
[12]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 456.
[13]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 460.
[14]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 244.
[15]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 684.
[16]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 256.
[17]
Nguyễn Lang, Việt Nam
Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, SG, 1974, tr. 126.
[18]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 228.
[19]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 230.
[20]
Viện Văn học, S đd, tr. tập 2, 246.
[21]
Viện Văn học, S đd, tr. tập 2, 406.
[22]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 406.
[23]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 405.
[24] Viện
Văn học, S đd, tập 2, tr. 272.
[25]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 272.
[26]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 415.
[27]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 415.
[28]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 487.
[29]
Trần Thị Băng Thanh, Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb KHXH, HN,
1999, tr. 78.
[30]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 682.
[31]
Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm, Nxb.
ĐHQG. TP. HCM, 2002, tr. 235.
[32]
Thích Tâm Thiện, Lý thuyết khoa giáo về con người qua tư tưởng Gandavyuha
(Hoa Nghiêm), Luận văn Tốt nghiệp Khóa Bồi dưỡng Giảng sư Ban Hoằng Pháp
TW- GHPGVN, 1996, tr. 1
[33]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 73
[34]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 63.
[35]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 134.
[36]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 104.
[37]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 453.
[38]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 454.
[39]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 460.
[40]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 456.
[41]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 246.
[42]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 468.
[43]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 456 .
[44]
Viện Văn học, S đd,, tập 1, tr. 243.
[45]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 482.
[46]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 409.
[47]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 242.
[48]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 21.
[49]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 265.
[50]
Viện Văn học, S đd, tập 2, tr. 535.
[51] Viện
Văn học, S đd, tập 2, tr. 465.
[52]
Viện Văn học, S đd, tr. 699.
[53]
Viện Văn học, S đd, tr. 712.