Chương 4.
Sa Di Thọ Giới Và Trì Phạm Oai Nghi
I.
THỨ LỚP CỦA SỰ THỌ GIỚI
Sa di xuất gia sau khi thay đổi
trang phục, cần phải bàn đến vấn đề thọ giới. Sa di giới tuy lấy thập giới làm
chủ yếu, nhưng trước tiên phải thọ tam quy ngũ giới rồi sau đó mới thọ thập
giới. Ngũ Phần Luật và Thập Tụng Luật đều
nói: “Trước truyền ngũ giới sau truyền thập giới”. Luận Tát Bà Đa
cũng nói: “Trước dùng ngũ giới điều phục thân tâm, lòng tin ưa dần dần tăng
thêm, mới truyền thập giới. Nếu không thọ ngũ giới mà lại thọ ngay thập giới,
vị tăng truyền giới đắc tiểu tội. Nhân vì thất chúng giới là tiệm thứ giới phải
thọ theo thứ tự, không được một phen tiến vào cửa Phật xuất gia liền thọ Sa di
thập giới; đây là e ở trên tâm lý, người thọ giới chuẩn bị không kịp. Nhưng
cũng có người mang ý kiến ngược lại, cho rằng ngũ giới là giới tại gia, đâu cần
sau khi xuất gia lại phải thọ ngũ giới này. Kỳ thật, thọ thêm một lần chẳng
phải là càng tốt sao? Trong luật đã có quy định như thế tại sao lại sợ phiền?
Lại nữa, giới luật của Phật giáo là y theo quan niệm luân lý của xã hội loài
người làm cơ sở xuất gia, giới có quan hệ đến luân lý và cũng là một thứ thăng
hoa của yêu cầu ấy, nếu trước tiên không bắt đầu từ việc thọ ngũ giới, ấy là
không có nền tảng. Căn cứ trong Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư
Hoằng Nhất nói: “Cạo tóc xong, trước thọ ngũ giới điều phục thân tâm, suốt sáu
tháng hầu hạ chúng tăng, lòng tin ưa dần dần tăng thêm… Đợi mãn hạn, Hòa thượng
cho thọ thập giới”. Đây là càng nghiêm khắc hơn, trước thọ ngũ giới, sau nửa
năm mới thọ Sa di thập giới.
Nhưng tại Trung Quốc, tiểu Hòa
thượng vào chùa tư xuất gia rất ít khi cử hành nghi thức xuất gia đúng như
luật, lại thiếu nghi thức thọ giới. Bất luận ngũ giới, thập giới, Tỳ kheo giới,
toàn bộ đều giao vào tay của đạo tràng truyền giới chăm lo. Đạo tràng truyền
giới của Trung Quốc cũng chỉ chiếu theo bộ sách “Truyền Giới Chánh Phạm” làm các việc xướng niệm,
quỳ lạy trong mấy mươi ngày giống như diễn kịch y theo kịch bản làm một tuồng,
kể là truyền giới đắc giới. Đạo tràng truyền giới chỉ chú ý sự quỳ lạy xướng
niệm chỉnh tề đẹp mắt của số đông giới tử, mà không chú ý xem các giới tử có
lãnh hội được ý nghĩa của sự thọ giới hay không? Có đắc giới hay không? Đến như
tư cách của Giới sư có hợp với yêu cầu thấp nhất ở trong luật hay không, đó lại
là điều không hỏi tới.
Nhân vì thầy thế độ của Trung
Quốc không lo việc truyền giới căn cứ theo giới luật, thầy thế độ không phải là
Thân giáo sư (Hòa thượng) mà chỉ đồng như Y chỉ sư hoặc Giáo thọ sư. Trên thực
tế, Sa di thọ ngũ giới, thập giới là đều việc rất giản đơn. Tại sao các thầy
thế độ của Trung Quốc lại bỏ một quyền lợi và nghĩa vụ thiêng liêng này?
II. NGHI THỨC THỌ GIỚI CỦA SA DI
THẬP GIỚI
Trong quyển Truyền Giới Chánh
Phạm của Đại sư Độc Thể biên đính, Sa di giới là trình tự của nghi thức sơ đàn.
Nhân vì muốn dùng để thích hợp với sự truyền giới tập thể, thế nên phô trương
hình thức rất lớn, nghi tiết cũng rất phiền phức. Kỳ thật, hình thức thọ Sa di
thập giới không cần phải lớn đến thế ấy. Theo trong luật, truyền thọ Sa di thập
giới chỉ cần một vị Hòa thượng, một vị Giáo thọ sư là đủ. Trong Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói: “Lúc thọ thập giới,
Hòa thượng vắng mặt, cũng đắc thập giới. Nếu lúc thọ giới Hòa
thượng chết, nếu nghe biết chết, giới thọ không đắc”. Đây là ý nói khi chúng ta
thọ thập giới, Hòa thượng có thể vắng mặt. Nếu Hòa thượng đã chết mà không biết
Ngài chết, người thọ thập giới vẫn được đắc giới. Lúc thọ thập giới Hòa thượng
ở trước mặt, cố nhiên là đúng như pháp; đặc biệt Hòa thượng đi vắng, chỉ cần có
một A xà lê cũng thọ được thập giới. Đây là một Phật sự cực kỳ giản đơn mà chư
Tăng Trung Quốc thời gần đây lại xem nó là Phật sự lớn, thật là việc nhỏ mà xem
thành việc lớn!
Trong thiên Sa di Biệt Hành của
Hành Sự Sao, Luật sư Đạo Tuyên đối với sự biên đính nghi thức thọ thập giới
cũng giản đơn như thế, phân ra làm ba môn:
1. Nhân duyên thọ giới: Như
thỉnh được hai thầy, người xuất gia trước thọ tam quy ngũ giới rồi hỏi giá nạn
(tội ác chướng giới).
2. Nói về giới thể: Dùng tam quy
nạp thọ giới thể.
3. Nói về giới tướng: Tuyên nói
điều văn của Sa di thập giới. Sau đó nói ngũ đức và thập số. Nghi thức thọ giới
bèn viên mãn.
Nếu y chuẩn thông lệ của Phật sự
Đại thừa, thêm phần phát nguyện hồi hướng là xong. Gần đây, Pháp sư Tục Minh
chiếu theo trình tự này biên đính một nghi quỹ thọ thập giới rất sáng sủa và
giản dị thiết yếu, hiện được in trên sách “Giới Học Thuật Yếu” do Pháp sư Tục
Minh trứ tác, tôi xin chép ra đây để cùng tham khảo:
Cạo tóc và thọ ngũ giới rồi,
người thọ giới ở trước Phật chí thành sám tội:
Trước
kia đã tạo các nghiệp ác
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý mà sinh ra
Nay đối trước Phật đều sám hối”.
(nói 3 lần, lạy 3 lạy)
Sau khi sám tội, người thọ giới
đến trước Hòa thượng Giới sư bái lễ, rồi quỳ gối chắp tay. Giới sư bèn hỏi giá
nạn:
- Thiện nam tử lắng nghe! Bây
giờ là lúc chí thành, lúc nói thật. Ta nay sẽ hỏi ông, ông phải đáp đúng sự
thật.
- Ông có phạm biên tội chăng?
Đáp: Không.
- Ông có ô Tỳ kheo ni (Ni thì ô
Tỳ kheo Tăng) chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải tặc trụ nhập đạo
chăng?
Đáp: Không.
- Ông có phải huỳnh môn chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết cha chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết mẹ chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải giết A la hán
chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải phá tăng chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải ác tâm làm thân
Phật ra máu chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là phi nhân
chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông không phải là súc sinh
chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải người hai hình
chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông tên gì?
Đáp: Con tên…
- Hòa thượng của ông là ai?
Đáp: Đại Hòa thượng, thượng…,
hạ…
- Ông bao nhiêu tuổi?
Đáp: Con… tuổi.
- Y bát của ông đầy đủ chăng?
Đáp: Đủ
- Cha mẹ (Ni thì thêm chồng) của
ông có cho xuất gia không?
Đáp: Cho.
- Ông không phải là kẻ thiếu nợ
người chăng?
Đáp: Không phải.
-Ông không phải là quân nhân,
quân công hiện chức chăng?
Đáp: Không phải.
- Ông là trượng phu có các bệnh
cùi, ung thư, tiểu đường, điên cuồng (Ni thêm vào hai đường tiểu tiện hợp
chung, âm đạo nhỏ, đại tiểu tiện thường rỉ chảy, nước mũi, nước miếng chảy)
chăng?
Đáp: Không.
Hỏi xong giá nạn, Giới sư bèn
nói với người thọ giới rằng:
- Lục đạo chúng sinh phần nhiều
bị giới chướng, con người tuy được thọ, nếu có giá nạn cũng không được thọ. Ông
không có giá nạn nhất định được thọ giới. Ông phải phát tâm tăng thượng thệ độ
tất cả chúng sinh. Giới là cội gốc của các thiện; hay làm chánh nhân của tam
thừa. Giới là của báu trong Phật pháp hay hộ trì thiện pháp khiến chánh pháp
trụ lâu ở đời ông nên nhất tâm lãnh thọ. Hãy bạch theo tôi:
- Con là… quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng. Con nay theo Phật xuất gia, Ngài… làm Hoà thượng. Như Lai chí
chân Đẳng giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy, bèn đắc giới).
Dưới đây là tam kết:
Con là… quy y Phật rồi, quy y
Pháp rồi, quy y Tăng rồi, Ngài… làm Hòa thượng. Như Lai chí chân Đẳng chánh
giác là Thế Tôn của con (nói 3 lần, lạy 3 lạy).
Đã phát giới rồi, tiếp theo là
nói giới tướng và vấn đáp:
- Suốt đời không sát sinh là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không trộm cướp là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không được dâm là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không vọng ngữ là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không uống rượu là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không đeo tràng hoa
thơm, không xoa dầu thơm vào thân là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ca múa và biểu
diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe là giới của Sa di (ni) có
trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không nằm giường lớn
cao rộng là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không ăn phi thời là
giới của Sa di (ni) có trì được không?
Đáp: Trì được.
- Suốt đời không cầm giữ vàng
bạc vật báu là giới của Sa di (ni) có trì được không?
Nói giới tướng xong, tiếp theo
nói ngũ đức của Sa di. Kinh Thỉnh Tăng
Phước Điền nói: Sa di phải biết ngũ đức:
1. Phát tâm xuất gia vì ôm lòng
mộ đạo.
2. Hủy bỏ hình thể đẹp đẽ ứng
hợp với pháp phục.
3. Cắt đứt vĩnh viễn sự thân ái
vì không có thân sơ.
4. Liều bỏ thân mạng vì tôn sùng
đạo.
5. Chí cầu đại thừa vì độ mọi
người.
Sa di phải biết thập số:
1. Tất cả chúng sinh đều y vào
thức ăn (phá ngoại đạo chủ trương tự nhịn đói)
2. Danh sắc (phá ngoại đạo tự
nhiên)
3. Tưởng đau nhức (phá ngoại đạo
chủ trương Phạm Thiên là nhân).
4. Tứ đế (phá vô nhân quả ngoại
đạo).
5. Ngũ ấm (phá thần ngã ngoại
đạo).
6. Lục nhập (phá nhất thức ngoại
đạo).
7. Thất giác ý (phá ngoại đạo
chủ trương không tu).
8. Bát chánh đạo (phá tà nhân
ngoại đạo).
9. Cửu chúng sinh cư (phá sắc,
vô sắc thiên chấp Niết bàn ngoại đạo).
10. Thập nhất thiết nhập (phá
sắc không ngoại đạo).
Mười điều này quan hệ đến danh
số pháp tướng, người sơ học không dễ gì hiểu nên tôi cũng lược bớt.
Sau cùng phát nguyện hồi hướng:
Thọ giới
công đức thù thắng hạnh
Vô biên
thắng phước đều hồi hướng
Nguyện
khắp các chúng sinh chìm đắm
Chúng
sinh mười phương tịnh độ Phật
Thập
phương tam thế tất cả Phật
Hết thảy
Bồ Tát Ma ha tát
Ma ha
Bát nhã Ba la mật.
Phật sự thọ giới hoàn tất, người
thọ giới lể tạ hai thầy và tiếp thọ sự đảnh lễ chúc mừng của thân bằng quyến
thuộc và các cư sĩ xem lễ.
Hiện tại cần phải giải thích nội
dung của giá nạn. Trong đó giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá tăng, làm thân
Phật chảy ra máu, là tội ngũ nghịch ở trong thiên ngũ giới đã nói qua, không
cần giảng lại.
Phi nhân là quỷ thần biến hóa.
Súc sinh là rồng súc biến hóa. Hai hình là gồm cả hai bộ phận sinh dục của nam
và nữ. Điều mười một từ “ông tên gì” trở xuống, văn nghĩa rõ ràng không cần
giải thích. Cần phải giải thích là năm điều đầu tiên:
- Biên tội: Là chỉ người thọ
Phật giới không xả giới mà lại phạm một trong bốn giới: Giết người, hành (tà)
dâm, trộm cướp (5 tiền trở lên), vọng ngữ (tự xưng là Thánh hiền); bị bỏ ra
ngoài biển lớn Phật pháp, không được thọ giới lại.
- Ô Tỳ kheo ni: Là chỉ cho người
đã từng phá hoại giới phạm hạnh của Tỳ kheo ni thanh tịnh. Điều này ở trong
Thiện Kiến Luật quyển 17 có nói kỹ càng: “Ở ba chỗ miệng, âm đạo, hậu môn” của
Tỳ kheo ni hành dâm, đều gọi là hoại Tỳ kheo ni, nếu vuốt ve, xúc chạm Tỳ kheo
ni thì không chướng xuất gia. Nếu đem y phục thế tục rồi ép Tỳ kheo ni mặc rồi
hành dâm cũng gọi là hoại Tỳ kheo ni, chẳng được xuất gia. Nếu Tỳ kheo ni thích
mặc y phục thế tục hành dâm thì không chướng xuất gia. Người đã ô hoại Tỳ kheo
thanh tịnh cũng thành giới chướng.
- Tặc trụ nhập đạo: Là chỉ cho
người lúc còn ở thế tục đã từng nghe trộm pháp yết ma của Tỳ kheo (hoặc Tỳ kheo
ni), gọi là tặc trụ, không cho xuất gia.
- Phá nội ngoại đạo: Chỉ cho
người vốn là ngoại đạo đến trong Phật pháp cầu độ xuất gia, sau trở lại làm
ngoại đạo, bây giờ lại đến trong Phật giáo cầu xuất gia nữa với mục đích là tìm
lấy khuyết điểm của Phật giáo, sưu tập tư liệu của Phật giáo để làm công tác
phá hoại Phật giáo, vì thế không cho xuất gia.
- Huỳnh môn: Vốn là chức vụ hoạn
quan trong cung cấm đời Đông Hán. Kinh Phật dùng danh từ này để chỉ cho người
lúc nam lúc nữ, người chẳng phải nam chẳng phải nữ, người vừa nam vừa nữ. Nếu
thu nhận họ xuất gia thì không thể xếp họ vào hàng ngũ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni
được; vì thế, hạng người này không được xuất gia.
Thọ trì Phật giới đều có chướng
giới, đều có điều kiện, nhưng điều kiện của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni rất nghiêm, yêu
cầu rất cao, giới chướng rất nặng, giá nạn rất nhiều. Sa di, Sa di ni là cơ sở
của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, vì thế trước khi thọ Sa di thập giới phải hỏi những
giá nạn của sự xuất gia này.
III.
PHẠM VI VÀ TRÌ PHẠM CỦA SA DI GIỚI
Đoạn trước đã nói qua, Sa di
giới tuy chỉ mười điều nhưng đối với Cụ túc giới của Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) cũng
được tùy tùng học tập và thủ trì. Ở chỗ này có một vấn đề là Sa di chưa thọ Cụ
túc giới do đâu mà học Tỳ kheo giới? Vấn đề này dường như từ trước đến nay chưa
có người hỏi tới. Tiểu chúng không được nghe thuyết giới và yết ma của đại
chúng, vì thế Cổ đức phần nhiều đều nhận định người chưa thọ Cụ túc giới cũng
không được duyệt học Đại giới, bằng không thì thành tặc trụ chướng thọ Đại
giới, đã không được nghe cũng không được đọc, thì do đâu mà học tập? Cũng có
người có thể từ trong sinh hoạt của Tăng đoàn thể nghiệm học hỏi, nhưng điều đó
rốt cuộc không thành.
Thường thường Tỳ kheo mỗi nửa
tháng nghe tụng giới một lần, cũng phải trải qua thời gian 5 năm mới có thể học
tốt về giới luật, hà huống là Sa di. Vì thế tôi nghĩ, nguyên nhân người chưa
thọ Cụ túc giới không được nghe giới, chủ yếu là phòng ngừa, nhân vì có Tỳ kheo
phạm giới trong lúc thuyết giới yết ma phát lồ sám hối xuất tội, bị tiểu chúng
hoặc người tục nghe rồi sinh ra tội khinh khi phỉ báng. Đến như điều văn giới
tướng của Đại giới ít nhất đối với Sa di là có thể đọc, ngoại đạo và người tục
không có chánh tín không nên cho họ đọc. Người thế tục ở các quốc gia Nam truyền có
thể nghiên cứu Đại Luật, nguyên nhân khai lệ có lẽ cũng là căn cứ vào một quan
niệm này.
Nhưng trong Tăng Kỳ Luật quy
định Tỳ kheo nếu nói tên của ngũ thiên thất tụ cho người chưa thọ Cụ túc giới
nghe, phạm tội Việt tỳ ni. Đây là một căn cứ có quyền lực, Tỳ kheo không nên cổ
động tiểu chúng và người thế tục xem Đại Luật.
Nhưng, Cụ túc giới đối với Tỳ
kheo, tỳ kheo ni phân làm ngũ thiên thất tụ, cũng là 7 loại tội hạnh của 5 thứ
tội danh; đối với Sa di, Sa di ni chỉ có một thứ tội danh gọi là Đột kiết la,
phạm tội Đột kiết la của Đại giới là Đột kiết la, phạm tội Ba la di của Đại
giới cũng là Đột kiết la. Duy phạm Đột kiết la của 4 giới căn bản đầu của thập
giới đáng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn gọi là Diệt tẩn. Nếu phạm giới “Khởi
ác kiến” (cho rằng Phật nói hành dâm không phải là pháp chướng đạo) trong tội
Ba dật đề của Đại giới, Tỳ kheo khuyên can Sa di ấy ba lần mà vẫn không bỏ ác
kiến, cũng bị trục xuất ra khỏi tăng đoàn. Nếu phạm các giới khác đều có thể
dùng Đột kiết la sám trừ.
Nhưng căn cứ vào Thiện Kiến Luật
quyển 17 nói: Sa di có 10 điều ác phải bị diệt tẩn. Những gì là mười? Sát sinh,
trộm cắp, dâm dục, dối trá, uống rượu, hủy báng Phật Pháp Tăng, tà kiến, hoại
Tỳ kheo ni. Duy phạm 9 điều ác trước, nếu chí thành sám hối, khẩn thiết sửa
lỗi, vẫn được thọ Tỳ kheo giới. Người “hoại Tỳ kheo ni” trong giá nạn là phạm 4
điều ác đầu trong 10 điều ác này, ở đây dường như nói: Phạm 4 biên tội, nếu chí
thành khẩn thiết sửa lỗi tuy phạm biên tội vẫn có thể thọ Tỳ kheo giới.
Tiểu chúng tuy học Đại giới,
nhưng cũng không phải là tùy học toàn bộ. Trong Thọ Giới Quy Tắc ghi ở Ký Quy Truyện quyển 3 của Tam Tạng Nghĩa Tịnh nói:
“Chỉ cần nơi Luật tạng không phạm 12 điều. Những gì là mười hai?
1. Không phân biệt y
2. Lìa y ngủ
3. Nhóm lửa
4. Túc thực
5. Hại sanh chủng
6. Bỏ đồ bất tịnh trên cỏ tươi
7. Tự leo lên cây
8. Cầm nắm vật báu
9. Ăn đồ ăn dư cách đêm
10. Đào đất
11. Không thọ thực
12. Nhổ cỏ chặt cây”.
Lại nói: “12 điều này hai chúng
Sa di, Sa di ni không trì không lỗi, còn chánh học nữ không trì 5 điều sau thì
phạm”.
Ở đây cần phải giải thích thêm:
1. Tỳ kheo có 3 y, Tỳ kheo ni có
5 y, vì thế có phận biệt trong trường hợp nào nên mặc đắp y nào. Sa di chỉ có 2
mạn điều; một là y trên, hai là y dưới, không có phân biệt.
2. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni không
được lìa 3 y ngủ, chủ yếu tại đại y. Sa di không có đại y vì thế không phạm.
3. Tỳ kheo không được nhóm lửa
nấu ăn, Sa di có thể nhóm lửa nấu cháo cho Tỳ kheo bệnh ăn cho đến nấu cơm cho
đại chúng dùng.
4. Tỳ kheo giả sử sau khi đã ăn
bữa ăn chính từ sớm rồi, vẫn chưa đến chính ngọ, thí chủ có đem đồ ngon đến
cúng dường, trong bụng có thể ăn thêm cũng không được ăn nữa, đây gọi là “Túc
thực”. Nếu như nhất định muốn ăn phải nhờ một Tỳ kheo khác chưa ăn no làm pháp
dư thực bằng cách nhờ Tỳ kheo kia ăn trước một miếng rồi sau đó mình mới được
ăn. Sa di tuổi nhỏ không chịu đói nổi vì thế không bị sự hạn chế của túc thực.
5. Sanh chủng là hạt giống và
ngũ cốc, Tỳ kheo không được làm tổn hại, Sa di có thể thay đại chúng xử lý.
6. Bất tịnh là chỉ cho các vật
nhơ bẩn như đại tiểu tiện và đàm dãi.
7. Leo cây cao làm mất oai nghi.
Hai điều trên được chế định là
phòng ngừa người tục chê bai.
8. Tỳ kheo chẳng được cầm nắm
vật báu, Sa di có thể thay đại chúng cầm giữ.
9. Đồ ăn còn thừa để cách đêm
gọi là tàn thực. Tỳ kheo chẳng được ăn lại, Sa di có thể ăn lại.
10. Tỳ kheo không được đào đất
và sai người đào đất. Sa di có thể vì đại chúng, vì Tam bảo đào đất.
11. Các vật thực không do người
khác đưa cho, Tỳ kheo không được ăn. Sa di không bị sự hạn chế này và làm người
dâng vật thực cho Tỳ kheo.
12. Mầm cây là loại cỏ cây, cỏ
cây là chỗ quỷ thần nương ở, vì thế, Tỳ kheo không nhổ cỏ, không chặt cây. Sa
di không bị sự hạn chế này.
Chánh học nữ là dịch ý của Thức
xoa ma ni, ở trong 12 điều này, 7 điều trước không trì không phạm, đây là chỗ
bất đồng với Sa di và Sa di ni.
IV.
OAI NGHI CỦA SA DI VÀ SA DI NI
Quan hệ đến Sa di và Sa di ni,
trong Đại Chánh Tạng có 5 bộ sách sau đây có thể dùng nghiên cứu tham khảo:
1. Sa Di Thập Giới Tinh Oai Nghi
(1 quyển)
2. Sa Di Oai Nghi (1 quyển)
3. Kinh Phật Thuyết Sa Di Thập
Giới Nghi Tắc (1 quyển)
4. Sa Di Ni Giới Kinh (1 quyển)
5. Sa Di Ni Ly Giới Văn (1
quyển)
Nhưng vì nội dung của năm bộ
sách này trước sau trùng lặp, không có cương lãnh thống nhất, người sơ học rất
khó nắm được đầu mối, vì thế cuối đời nhà Minh có Đại sư Liên Trì chỉnh lý và
biên tập thành một quyển Sa Di Luật Nghi Yếu Lược, về sau lại có Ngài Hoằng Tán
làm chú thích thêm. Cuối đời nhà Minh còn có Đại sư Ngẫu Ích biên tập thành
quyển Sa Di Thập Giới Oai Nghi Lục Yếu.
Quyển trước kỷ càng,quyển sau giản dị sáng sủa, mỗi quyển đều có
chỗ hay, đều có giá trị, đáng cho chúng ta tham khảo duyệt học. Hiện nay Đài
Loan Ấn Kinh Xứ có bản đơn hành lưu động.
Trong Sa Di Thập Giới Tinh Oai
Nghi nói: “Sa di 72 oai nghi gồm có 14 việc”. Trong Sa Di Ni Ly Giới Văn nói:
“Oai nghi 70 sự kiện”. Trừ những oai nghi có quan hệ riêng cho nam nữ bất đồng
ra, oai nghi của Sa di, Sa di ni phần nhiều tương đồng. Nay tôi xin đem một,
vài oai nghi được xem là trọng yếu phân làm hai tổ nam nữ trích lục như sau:
A.
Oai nghi của Sa di
1. Pháp thầy dạy Sa di: Phải
kính Đại Sa môn, không được kêu tên của Đại Sa môn. Lúc Đại Sa môn thuyết
giới kinh không được lén nghe. Không được tìm điều hay dở của Đại Sa môn. Đại
Sa môn có lỗi lầm không được nói với người khác. Không được nói xấu Đại Sa môn
khi vắng mặt. Không được khinh dễ cợt cười cợt trước Đại Sa môn và nhái theo
ngôn ngữ hình tướng của Ngài. Thấy Đại Sa môn phải lập tức đứng dậy, trừ khi
đọc kinh, ăn cơm, công tác. Giữa đường gặp Đại Sa môn, phải đứng nép qua một
bên. Nếu lúc chơi đùa thấy Đại Sa môn liền phải ngưng ngay.
2. Pháp Sa di thờ thầy: Phải xem
thầy như cha, phải dậy sớm. Muốn vào cửa phòng thầy trước phải búng
ngón tay ba lần. Phải chuẩn bị đồ súc miệng rửa mặt cho thầy. Phải rải nước khi
quét đất. Phải xếp y phục, dọn dẹp lau quét giường chiếu cho thầy. Thầy đi chưa
về, không được bỏ phòng ra đi. Nếu có lỗi thầy răn dạy không được cãi lại, phải
cúi đầu lắng nghe lời thầy và nghĩ nhớ để vâng làm. Đi ra phải đóng cửa lại cẩn
thận.
3. Pháp Sa di bạch thầy: Ngoại
trừ 5 việc: Súc miệng, uống nước, đại tiện, tiểu tiện và lễ kính tháp
Phật trong vòng 49 tầm (mỗi tầm 8 thước tàu) của phạm vi kiết giới, có làm việc
gì đều phải bạch với thầy.
4. Pháp Sa di nhập chúng: Phải
học cho rõ, phải tập làm việc. Phải vì chúng phục vụ. Phải vì Đại Sa
môn mà đưa vật dụng. Phải lễ Phật. Phải lễ Tỳ kheo Tăng. Phải chào hỏi bậc
Thượng tọa, Hạ toạ. Phải nhường chỗ ngồi cho bậc Thượng tọa, không được tranh
dành chỗ ngồi, không được ở trên tòa ngồi kêu gọi cười giỡn. Không được luôn
luôn đứng dậy đi ra ngoài. Nếu trong chúng có gọi đến tên mình thì liền dạ. Tỳ
kheo chấp sự có sai làm việc gì trước phải bạch thầy.
5. Pháp Sa di làm trị nhật: Phải
tiếc vật của chúng Tăng. Chẳng được ở giữa đường làm việc. Làm việc
chưa xong chẳng được giữa chừng bỏ đi. Đang lúc làm việc, nếu bị thầy gọi phải
thưa cho Tỳ kheo chấp sự biết. Phải phục tùng sự chỉ đạo và giáo lệnh của thầy
Tỳ kheo chấp sự, chẳng được trái nghịch.
6. Pháp Sa di vào phòng tắm:
Phải cúi đầu vào nhà tắm. Trong nhà tắm phải tránh chỗ của bậc Thượng
toạ. Không được đùa giỡn tạt nước lên nhau. Không được tạt nước cho lửa tắt.
Không được cười giỡn. Không được làm hư hại vật dụng trong nhà tắm. Không được
dùng nước quá phí. Không được để nước và xà bông đổ vào hồ tắm.
7. Pháp Sa di vào cầu xí: Muốn
đại tiểu tiện phải đi liền. Lúc đi, không được liếc ngó hai bên. Đến cửa
cầu xí trước hết phải búng tay ba lần cho người bên trong biết, chẳng được hối
thúc người trong cầu ra. Bước lên cầu tiêu rồi lại búng ngón tay ba lần nữa để
cho quỷ thần ăn phẩn biết mà tránh. Không được cúi đầu nhìn xuống bộ phận sinh
dục. Không được rặn lớn tiếng. Không được nhổ nước miếng đàm dãi làm dơ vách.
Không được vẽ lên vách hoặc dưới đất. Không được ngồi lâu trong cầu xí. Trong
lúc đi cầu xí gặp người không làm lễ, phải lánh đường đi. Lúc ra khỏi cầu xí
phải rửa tay, không được cầm đồ vật. Phải lấy nước rửa đường đại tiểu tiện, gọi
là tẩy tịnh. Không tẩy tịnh không được lễ Phật. Phải dùng nước trong súc miệng,
không súc miệng chẳng được tụng kinh.
8. Pháp Sa di lễ thầy: Thầy tọa
thiền không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy đang ăn
không nên làm lễ, gặp bên tay trái thầy không nên làm lễ, không nên làm lễ thầy
nằm bệnh, đất nhơ không nên làm lễ.
9. Pháp Sa di vào nhà cư sĩ: Đến
cửa nhà, phải tự xét oai nghi của mình, cũng không được thấy người mà
làm oai nghi. Nhà không có người nam không được vào cửa. Nhà có thờ Phật, lúc
bước vào, trước tiên phải lễ Phật. Vào nhà, nếu ngồi, trước phải xem: Chỗ có
binh khí không nên ngồi, chỗ có vật báu không nên ngồi, chỗ có y phục trang sức
phụ nữ không nên ngồi. Không được ngồi nói chuyện một mình với người nữ ở chỗ
có ngăn che. Không được cố đùa giỡn với trẻ con. Không được nói nhiều, không
được đùa cợt. Phải ngồi yên lặng, phải ngồi ngay thẳng. Không được kết thân với
cư sĩ làm cha mẹ chị em.
10. Pháp Sa di vào chợ: Phải cúi
đầu đi thẳng đến nơi và đi thẳng về. Không được cùng người nữ trước sau
đi theo nhau. Không được đi ngó qua ngó lại. Không được cố nhìn người nữ. Không
được đến xem chỗ náo nhiệt. Mua đồ không được tranh dành đắt rẻ, không được
ngồi trong cửa hàng của người nữ. Nếu bị người dành phải khéo lánh đi, đừng
theo trả giá. Nếu đã mua vật ở chỗ A đắt, chỗ B tuy rẻ cũng không được bỏ chỗ A
mà mua chỗ B, làm cho chỗ A sinh giận.
11. Pháp Sa di vào chùa Ni: phải
có đông bạn vào chùa Ni. Vào chùa trước phải lễ Phật. Nếu không có
chỗ dành riêng cho khách thì không được ngồi. Không được thuyết pháp không hợp
thời. Nếu từ chùa Ni trở về, không được nói sự đẹp xấu của chùa Ni. Không được
thư từ qua lại với Ni. Không được nhờ may vá và giặt giũ quần áo.
B.
Oai nghi của Sa di ni
1. Pháp Sa di ni đi ra ngoài: đi
ra ngoài không được đi một mình, phải cùng với Đại Ni hoặc 2, 3 Ni cùng
đi. Nếu không có Ni phải cùng với thân tín Ưu bà di đồng đi. Phải nhìn thẳng 6
thước (2m) phía trước nà đi. Không được đi cùng người nam hoặc theo sau đi
chung đường.
2. Pháp Sa di ni ngủ: Không được
nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng bên trái; phải nằm kiết tường nghiêng
bên phải. Không được để lộ vai, ở trần. Không được đặt tay ở chỗ âm hộ.
3. Pháp Sa di ni vào nhà cư sĩ:
Không được vào phòng của phụ nữ nói cười. Không được ngồi ăn dưới bếp.
Không được cùng người giúp việc nói chuyện riêng. Không được đi một mình đến
cầu xí. Không được lên chỗ cầu xí của người nam. Không được lấy tay trao đồ vật
cho người nam, phải để ở trên đất (hoặc chỗ thích đáng) để người đó tự lấy.
Không được đùa giỡn với trẻ con.
4. Pháp sa di ni vào nhà tắm:
Không được lõa lồ tắm chung với Ưu bà di. Không được bàn luận về việc
tắm rửa. Không được cùng Ưu bà di kỳ cọ lẫn nhau. Không được tắm chung với trẻ
con. Không được dùng nước rửa của người khác đã rửa. Không được tự nhìn chỗ kín
của thân thể.
5. Pháp Sa di ni vào chùa tăng:
Phải theo Đại ni hoặc 2, 3 người cùng đi. Vào chùa trước phải bạch Trị
sự tăng. Không được cùng Tỳ kheo ngồi chung một nhà. Không được cùng Tỳ kheo
ngồi chung một tòa. Không được cùng Tỳ kheo cười đùa. Không được ngồi nằm trong
mền nệm của Sa di. Không được cùng Tỳ kheo ăn chung bát. Không được mặc lầm y
Tỳ kheo.
Trên đây là tóm lược oai nghi
của Sa di, Sa di ni, thật ra cũng là toát yếu oai nghi của Tỳ kheo và Tỳ kheo
ni. Sa di ni cũng phải đồng học những phần chung của oai nghi Sa di. Ngày lục
trai, cư sĩ cũng nên học trì oai nghi Sa di. Đây là điều cần phải biết.