Chương 2.
Nội Dung Và Phân Biệt Của Bồ Tát Giới
I.
BỒ TÁT GIỚI LÀ GÌ?
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ ý
nghĩa về Bồ tát tiếp theo dây cần phải thảo luận về vấn đề Bồ tát giới, bởi vì
lý do của Bồ tát xưng là Bồ tát chẳng phải vô cớ, cũng không tự mình cho mình
là Bồ tát, người khác là Bồ tát. Danh từ Bồ tát xuất phát từ Phật pháp, như
muốn thành Bồ tát tự nhiên phải cầu điều ấy nơi Phật pháp. Nói một cách giản
đơn Bồ tát là do thọ Bồ tát giới mà ra. Lại, vì thế, Bồ tát giới là cái nôi
dưỡng dục tam thế chư Phật.
Vậy Bồ tát giới là gì? Giới của
Bồ tát thọ, gọi là Bồ tát giới. Muốn làm Bồ tát trước tiên phải thọ Bồ tát
giới, như trong Kinh Phạm Võng nói: “Bồ tát giới là bản nguyên của chư Phật, là
căn bản của Bồ tát, là căn bản của đại chúng Phật tử”. Người không hành Bồ tát
đạo tuy tìm Phật nhưng vĩnh viễn không thể thành Phật. Muốn hành Bồ tát đạo
phải thọ Bồ tát giới. Vì thế, Bồ tát giới là nguyên nhân căn bản của tất cả chư
Phật thành Phật, cũng là chỗ căn bản của Bồ tát để thành Bồ tát. Một từ “Phật
tử” trong các kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa giải thích rất nhiều, căn cứ vào
kinh luận Đại thừa cho rằng phải là Bồ tát mới có thể nhân vì có chủng tử thành
Phật mới xưng là Phật tử. Tỷ như Kinh Lăng Già gọi Bồ tát Đệ bát địa là Tối
thắng tử, Luận Phật Tánh gọi Bồ tát Sơ địa là Phật tử. Kinh Phạm Võng nói người phát bồ đề tâm thọ Bồ tát
giới đều được gọi là Phật tử. Căn cứ vào quan điểm của Tiểu thừa
như Tứ Phần Luật cho rằng: Người tiếp nhận vào biển lớn Phật pháp, dù là Tiểu
thừa, cho đến chỉ thọ tam quy ngũ giới của Tiểu thứa, đều là Phật tử. Chúng ta
có thể thấy, Đại thừa lấy chủng tử thành Phật làm Phật tử. Nay giảng Đại thừa
Bồ tát giới, chỗ gọi là “Căn bản của Phật tử” đương nhiên là chỉ căn bản của
chủng tử thành Phật.
Trong Kinh Phạm Võng lại nói:
“Tất cả người có tâm đều nên thọ Phật giới, tức nhập vào địa vị chư Phật, vì
đồng bậc Đại giác, chân thật là Phật tử”. Bồ tát giới là nguyên nhân căn bản
của tất cả chư Phật thành Phật. Vì thế, từ trên nhân vị nói, gọi là Bồ tát
giới; từ trên quả vị nói, gọi là Phật giới. Cho nên, trong điều thứ 41 của Kinh
Phạm Võng còn gọi: “Bồ tát giới là Đại giới của ngàn Phật”, ý muốn nói ngàn
Phật ở trong kiếp Trang Nghiêm thời quá khứ do thọ trì Bồ tát giới mà thành
Phật, ngàn Phật ở trong kiếp Tinh Tú thời vị lai cũng thọ trì Bồ tát giới mới
được thành Phật, cho đến suy ra ngàn Phật của quá khứ tam thế tam kiếp, ngàn
Phật của vị lai tam thế tam kiếp, ngàn Phật của quá khứ vô lượng tam thế tam
kiếp. Tóm lại, tất cả chúng sinh, tất cả Bồ tát, tất cả chư Phật, không một ai
không do thọ trì Bồ tát giới mà được thành Phật. Do đây đủ biết sự lớn lao của
công năng Bồ tát giới không thể nghĩ bàn.
II.
NỘI DUNG CỦA BỒ TÁT GIỚI
Bồ tát giới đáng tôn đáng quý là
do vì nó bao hàm và còn vượt hơn tất cả giới. Bồ tát giới là Ba la đề mộc xoa
(Biệt giải thoát giới), ngoài giới của 7 chúng Ưu bà tắc, Ưu bà di, Sa di, Sa
di ni, Thức xoa ma na ni, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni. Thân phận của Bồ tát có thể
trong 7 chúng, cũng có thể ở ngoài 7 chúng. Ưu bà tắc, Ưu bà di được thọ Bồ tát
giới, cho đến Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cũng được thọ Bồ tát giới, đây là trong 7
chúng thọ thêm Bồ tát giới. Theo Kinh Phạm Võng nói: “Chỉ cần hiểu được lời nói
của Pháp sư đều được thọ giới”. Vì thế, súc sinh cho đến người biến hoá như quỷ
thần đều có tư cách thọ Bồ tát giới và được gọi là Bồ tát, đây là đơn thọ Bồ
tát giới ngoài 7 chúng. Những Bồ tát đơn thọ này, trên trình độ phát tâm mà
nói, tuy vượt qua 7 chúng của Tiểu thừa, nhưng những người ấy không có địa vị
trong 7 chúng, nên cũng không được đặt trước 7 chúng. Bởi vì thứ tự của Phật
chế, lấy 7 chúng làm chuẩn chứ không lấy Bồ tát làm chuẩn.
Nội dung của Bồ tát giới là Tam
tụ tịnh giới, cộng chung chỉ có ba câu nhưng lại bao quát hết pháp môn tự độ,
độ tha, trên cầu thành Phật, dưới hoá độ chúng sinh. Ba câu này là:
1. Trì tất cả tịnh giới, không
một tịnh giới nào chẳng trì.
2. Tu tất cả thiện pháp, không
một thiện pháp nào chẳng tu.
3. Độ tất cả chúng sinh, không
một chúng sinh nào chẳng độ.
Trong kinh, Phật gọi Tam tụ tịnh
giới này là Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiều ích hữu tình
giới. Tam tụ tịnh giới nghĩa là tập hợp tất cả Phật pháp vào ba môn lớn: Trì
luật nghi, Tu thiện pháp, Độ chúng sinh làm cấm giới để thọ trì. Trong 7 chúng
của Tiểu thừa thì làm ác là có tội, không tích cực tu thiện không có tội, sát
sinh là có tội, không tích cực cứu hộ sinh mạng cũng không có tội. Vì thế, Tiểu
thừa chỉ tích cực bỏ ác, tiêu cực làm thiện, tích cực giới sát, tiêu cực cứu hộ
sinh mạng. Bồ tát giới thì phải tích cực bỏ ác làm thiện, cũng phải tích cực
giới sát, cứu hộ sinh mạng, đem không tu thiện và không cứu hộ sinh mạng liệt
vào phạm vi của cấm giới, nhân đây Bồ tát giới không những bao hàm thất chúng
giới mà còn vượt hơn thất chúng giới.
Nội dung của Tam tụ tịnh giới có
thể nói là bao hàm hết thảy: Nhiếp luật nghi giới hàm dung tất cả giới luật và
oai nghi của Đại thừa, Tiểu thừa; Nhiếp thiện pháp giới bao hàm 8 vạn 4 ngàn
pháp môn xuất ly; Nhiêu ích hữu tình giới bao quát từ bi hỷ xả hoằng nguyện và
tinh thần rộng độ tất cả chúng sinh.
Vì thế, Tam tụ tịnh giới cũng
bao quát cả tinh thần của Tứ hoằng thệ nguyện.
Nội dung của Bồ tát giới là Tam
tụ tịnh giới. Tinh thần của Tam tụ tịnh giới là pháp môn học Phật tích cực, làm
tất cả điều thiện, đầy đủ các đức, bao hàm muôn pháp thảy đều không sót, không
công đức nào không thành tựu.
III.
CHỦNG LOẠI CỦA BỒ TÁT GIỚI
Bồ tát giới là Biệt giải thoát
giới ngoài thất chủng giới, vì thế người thọ thất chúng giới rồi cố nhiên được
thọ thêm Bồ tát giới, người chưa từng thọ thất chúng giới cho đến người không
đủ tư cách thọ thất chúng giới cũng được thọ Bồ tát giới. Cho nên, tính chất
của Bồ tát giới cũng tương tự như Bát giới. Bát giới cũng là một thứ Biệt giải
thoát giới ngoài thất chúng giới, điều này trong thiên Bát Quan Giới Trai đã có
nói đến.
Nhưng, trong Bồ tát giới có điểm
tương tợ với Bát giới là Đốn lập giới, lại có điểm bất đồng với Bát giới mà
tương tợ với Tiệm thứ giới của thất chúng giới. Do đó, chủng loại của Bồ tát
đại thể phân ra làm hai tính chất: Một loại là Bồ tát giới đốn lập có thể đơn
thọ, một loại là Bồ tát giới tiệm thứ, thọ thêm sau khi đã thọ tam quy ngũ
giới.
Từ xưa đến nay, trong Tạng Kinh
đã thu tập Bồ tát Giới Bổn hoặc Bồ tát
Giới Kinh dịch thành Hán văn, gồm có 6 loại:
1. Kinh Bồ tát Anh Lạc Bổn
Nghiệp.
2. Phạm Võng Kinh Bồ tát Giới
Bổn.
3. Du Già Luận Bồ tát Giới Bổn.
4. Bồ tát Địa Trì Kinh Giới Bổn.
5. Bồ tát Thiện Giới Kinh Giới
Bổn.
6. Ưu bà tắc Giới Kinh Giới Bổn.
Nếu phân loại theo Đốn, Tiệm,
thì Kinh Anh Lạc, Phạm Võng thuộc loại
Đốn lập. Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Người mới hành đạo Bồ tát,
hoặc trong tín nam, tín nữ các căn không đủ, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, nô tỳ,
người tiến hóa đều thọ đắc giới”. Đủ thấy chẳng hạn cuộc nơi loài người đều
được thọ Bồ tát giới. Kinh Phạm Võng quyển hạ cũng có nói: “Người thọ Phật
giới, không kể là Quốc vương, Vương tử, bá quan, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,
18 cõi phạm Thiên, Thiên tử 6 tầng trời cõi Dục, thứ dân, huỳnh môn, dâm nam,
dâm nữ, nô tỳ, bát bộ quỷ thần, thần kim cang, súc sinh, cho đến người biến
hóa, hễ hiểu được lời của Pháp sư đều thọ đắc giới”, mà không nói chẳng thọ
thất chúng giới thì không được thọ Bồ tát giới, chỉ cần nghe hiểu lời của Pháp
sư giảng về nội dung của giới pháp Bồ tát, giả sử người chưa từng tiếp xúc với
Phật pháp cũng có thể thọ giới, đắc giới. Vì thế nói đây là Đốn lập.
Còn 4 loại Giới Kinh: Du già,
Địa Trì, Thiện Giới, Ưu bà tắc là thuộc
về Tiệm thứ giới. Kỳ thật nguyên bản chữ Phạn của 4 bộ này chỉ có 2
thứ, vì Du già, Địa Trì, Thiện Giới đều
thuộc đồng bổn dị dịch của phẩm Bồ tát Địa trong Luận Du già sư
địa, vì thế đồng một hình thức, chỉ cần nêu ra một loại là gồm cả ba.
Như trong Thiện Giới Kinh nói:
“Bồ tát Ma ha tát nếu muốn thọ trì Bồ tát giới, trước tiên phải tịnh tâm thọ
thất chúng giới”. Điều này nói rõ ràng: Bồ tát giới không được đơn thọ hoặc đốn
thọ, trước tiên phải thọ toàn bộ hay thiểu bộ của thất chúng giới, hoặc một
phần của một chúng giới rồi sau đó mới được thọ Bồ tát giới.
Bồ tát giới của Ưu bà tắc Giới
Kinh vốn là Đại thừa giới của người tại gia chứ chẳng phải là Bồ tát giới. Đây
cũng là một loại Tiệm thứ giới rất khó được thọ của Đại thừa giới. Trước khi
thọ giới phải theo thứ tự lớp cúng dường cha mẹ, sư trưởng, vợ con, hiện tại
tri thức, nô tỳ, đạo nhân xuất gia, và hỏi chín thú giá nạn: Gia thuộc không
cho, thiếu nợ người khác, thân tâm có bệnh, ô tịnh phạm hạnh, làm tội ngũ
nghịch, trộm pháp tặc trụ, khó phân biệt phái nam hay phái nữ, giết người có
tâm đạo, vọng ngữ trước chúng. Nếu phạm một điều thì không được thọ giới. Trước
khi thọ Bồ tát giới 6 trọng, 28 khinh, phải thực hành tam quy ngũ giới. Tuy đã
thọ ngũ giới, cũng phải trải qua 6 tháng xem xét, rồi ở trong 20 Tỳ kheo tăng
làm pháp yết mà thọ giới. Đủ thấy ở đây không phải không phân phẩm loại mà thọ
được Bồ tát giới. Tại sao phải nghiêm khắc như thế? Trong phẩm Thọ Giới của
Kinh này quyển ba nói: “Giới Ưu bà tắc này làm căn bản của Sa di thập giới, Đại
Tỳ kheo giới, Bồ tát giới, cho đến A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chí tâm thọ
trì Ưu bà tắc giới sẽ được vô lượng lợi ích của các giới ấy”. Đây là nói bản
thân của Ưu bà tắc giới là căn bản của Sa di giới, Tỳ kheo giới, Bồ tát giới;
thọ Ưu bà tắc giới rồi mới được vô lượng lợi ích của Sa di giới, Tỳ kheo giới,
Bồ tát giới.
Nói đến vấn đề giới tại gia và
giới xuất gia, chúng ta cần phải phân biệt nói thêm. Căn cứ vào tinh thần của
Bồ tát giới mà nói, đã là Bồ tát đều phải đoạn trừ dâm dục, hoặc vì phương tiện
độ chúng sinh mà có hành vi dâm dục, song không được có niệm dâm. Tiểu thừa
trọng giới hạnh, Bồ tát trọng giới tâm, Bồ tát tại gia của Thánh vị vì bi tâm
độ chúng sinh mà không ngại hành dâm, tuyệt không đồng với phàm phu vì tham
luyến khoái lạc dâm dục nên hành dâm. Vì thế, tinh thần căn bản của Bồ tát giới
là đoạn dâm, đã đoạn dâm thì sự phân biệt tại gia, xuất gia cũng chỉ là hình
tướng hóa hiện bất đồng mà thôi. Nhưng trong 6 loại Bồ tát Giới Bổn do nơi đối
với cơ nghi bất đồng nên có sự phân biệt tại gia, xuất gia và thiên khinh,
thiên trọng.
Sự phân biệt tại gia và xuất gia
là lấy giới dâm làm tiêu chuẩn. Giới dâm của Kinh Anh Lạc là “không được cố
dâm”. Du già Giới Bổn nói: “Bồ tát xuất gia không được hành phi phạm hạnh”. Bồ
tát tại gia “thấy có nữ sắc, lúc đó tâm không dính mắc, dù làm pháp dâm dục mà
tâm của Bồ tát vẫn tiếp tục không dính mắc”, “nếu thỏa mãn dâm dục của người nữ
kia một cách tự tại rồi thì khéo dùng phương tiện dẫn dắt khiến cho người nữ
kia vun trồng thiện căn”, “Bồ tát trụ tâm từ mẫn hành phi phạm hạnh”.
Giới khinh của Địa Trì Kinh Giới
Bổn tuy giới mục đồng với Du già Giới Bổn, chỉ riêng chưa liệt kê điều văn tánh
giới nói về phương tiện khai phạm 7 chi của thân miệng (sát sinh, trộm cướp,
dâm dục, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ), vì thế xem đồng như chỉ có giá
mà không có khai. Trong giới khinh của Thiện Giới Kinh Giới Bổn có nêu ra: Giới vào nhà bạch y chẳng được
thuyết pháp, giới đồng đi một đường với Tỳ kheo ni, giới chứa đồ vật của bạch
y, giới giường cao quá tám ngón tay, đều thuộc giới hạnh của người xuất gia.
Giới trọng của Ưu bà tắc Giới Kinh là giới Tà dâm, giới khinh là giới Phi thời
phi xứ hành dâm.
Từ những điều văn đã nêu ra ở
trên, chúng ta có thể phân biệt một cách đại khái: Anh Lạc và Phạm Võng là đoạn
dâm mà chẳng phải tuyệt không dâm hạnh, lấy người xuất gia làm chủ và kiêm cả
tâm hạnh tại gia; Du già thì gồm ca tại gia và xuất gia; Địa Trì và Thiện Giới thì xuất gia; Ưu bà tắc Giới Kinh thì
tại gia.
Nay đem tính chất của 6 loại
giới bổn này lấy đốn lập và tiệm thứ, xuất gia và tại gia liệt kê theo biểu đồ
như sau:
Ở đây chúng tôi cần phải nói
thêm: Tinh thần căn bản của Bồ tát giới là tuyệt đối ly dục, song không ngại gì
thị hiện có vợ con mà hành phạm hạnh, vì thế, có thể hiện hình tướng tại gia;
Ưu bà tắc giới là căn bản của Bồ tát giới, nhưng không phải là Bồ tát giới, chỉ
thuộc về Đại thừa giới, người đã thọ Đại thừa giới, thực hành lục độ, cho nên
cũng có thể gọi là Bồ tát tại gia. Đây là điều cần phải biết rõ.
Căn cứ theo sự phân loại của
Luật sư Linh Chi: “Bồ tát giới có hai tông, một là tông Hoa Nghiêm bộ, hai là
Pháp Hoa bộ” (Chi Uyển Di Biên, quyển 2). Ngài cho rằng Phạm Võng gồm cả hai
môn đốn tiệm, thuộc Hoa Nghiêm bộ; Thiện Giới Kinh tiệm thứ thọ, thuộc Pháp Hoa
bộ. Biểu đồ bút giả liệt kê ở trên cũng chỉ là phân biệt đại thể mà thôi.
IV.
NGUYÊN DO CỦA BỒ TÁT GIỚI
Nói đến nguyên do của Bồ tát
Giới có thể phân biệt làm ba loại: Anh Lạc và Phạm Võng là một loại; Du Già, Địa Trì, Thiện Giới là một loại; Ưu bà tắc Giới
Kinh riêng thành một loại. Nay phân ra thuật như sau:
1. Loại Anh Lạc, Phạm võng
Có người cho rằng Kinh Phạm Võng
thuộc Hoa Nghiêm bộ: Phật mới thành Chánh giác ở Diệu Quang Đường tụng ra Phạm
Võng. Thái Hiền Cổ Tích Ký nói:
“Diệu Quang Đường, Kinh Hoa
Nghiêm gọi là Phổ Quang Đường, nhân Phật phóng quang mà đặt tên, tại nước Ma
Già Đà nơi đạo tràng tịch diệt, cách cây bồ đề 3 dặm”. Đủ biết Phạm Võng Giới,
Phật thuyết trong nước Ma Già Đà dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La, cách
cây bồ đề của Phật thành đạo chỉ có 3 dặm.
Duyên khởi thuyết pháp của Kinh
Anh Lạc cũng là: “Một thuở nọ, Đức Phật trở lại nước của vua Bình Sa tức là Tần
Bà Sa La, nơi thành Chánh giác dưới cội Bồ đề Ngài ngồi lại chỗ cũ, lại phóng
ra 42 tia sáng”. Sau khi phóng quang, Ngài nói cảnh giới 52 ngôi vị Bồ tát,
tiếp theo ở quyển hạ, Ngài nói về phương pháp thọ giới của Thập Vô Tận Tạng
Giới. Thời gian nói Kinh Phạm Võng tuy
sớm hơn Kinh Anh Lạc, nhưng địa điểm phóng quang trước khi nói kinh
thì giống nhau. Kinh Phạm Võng cũng trước
phóng quang minh, kế nói về ngôi vị của Bồ tát, rồi đến quyển hạ
nói điều văn giới tướng của 10 trọng, 48 khinh. Chỗ không đồng nhau là Kinh Anh
Lạc không có phương pháp thọ giới, nhưng Anh Lạc và Phạm Võng vẫn còn nhiều chỗ
đồng nhau.
Phạm Võng Giới Kinh là một loại
Bồ tát Giới Kinh được lưu thông rộng rãi ở Trung Quốc hơn hết.
Nhưng đối với vấn đề chân ngụy của Phạm Võng là việc đã có từ xưa, các nhà kinh
lục cựu thời đã đem Phạm Võng liệt vào
loại nghi phẩm. Theo bài tựa Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới nói: “Kinh này gồm có
112 quyển, 61 phẩm”. Trong Bồ Tát Giới Bổn Sớ quyển 1 của Đại sư
Pháp Tạng nói: “Nếu luận về bản đầy đủ, Ngài La Thập tương truyền, nói Tây Vức
có 61 phẩm 10 vạn bài tụng, dịch đủ thành 300 quyển”. Vì Đại Bộ của Kinh Phạm Võng 2 quyển thượng, hạ của
Trung Quốc là do Ngài Tam Tạng La Thập miệng tụng phẩm thứ 10 là phẩm Bồ Tát
Tâm Địa Pháp Môn của toàn bộ Kinh Phạm Võng. Nhưng văn tự của quyển thượng rất
khó giải thích, văn của bài tựa và hậu ký cũng có khả nghi, điều văn giới tướng
cũng rất khó hiểu, đến nỗi bị các học giả cho là người Trung Quốc ngụy tạo. Tuy
nhiên đây là một bộ Bồ Tát Giới Kinh rất được hoan nghinh, vì thế trải qua
nhiều thời đại có nhiều sự tranh luận. Thời gần đây, Đại sư Thái Hư cũng có một
bài “Phạm Võng Kinh và Thiên Bát Kinh
Quyết Ẩn”, Ngài cho rằng: “Văn tự của Kinh Phạm Võng quyển thượng nói về Thập phát
thú, Thập địa cùng với nửa quyển thứ 7 đến quyển thứ 9 của Kinh Đại thừa Kim Cương Tánh Hải Mạn Thù Thất Lỵ
Thiên Tý Thiên Bát Đại Giáo Vương nói về 40 tâm vị thập phát thú
v.v… văn tự rõ ràng hơn và ý nghĩa đồng với phẩm Tâm Địa của Kinh Phạm Võng quyển
thượng”, và Ngài nói: “Chỗ nói Kinh Phạm Võng 112 quyển hoặc Kinh Thiên Bát để
chứng minh có Phạn văn căn cứ, thì có thể bỏ được cái ý kiến nghi nó là ngụy
tạo”. Đây là kiến giải chủ trương Kinh
Phạm Võng là chân thật chứ không phải ngụy. Nhưng theo ý kiến của
Pháp sư Tục Minh lại có một lối nhìn riêng, Ngài nói:”Do nơi văn của bài tựa và
hậu ký có nhiều dấu tích giống nhau, dường như không phải của Ngài Tăng Triệu
viết, cho nên có người nghi kinh này không phải do Ngài La Thập dịch, lại nghi
bài tựa không phải do Ngài Tăng Triệu viết, do nghi bài tựa nên càng nghi
kinh!”. Lại nói: “Kinh Phạm Võng quyển thượng, xét về văn tự cùng với các kinh
sách do Ngài La Thập phiên dịch không hợp, tra cứu lại thì thấy có một đoạn văn
nghĩa tương đồng với Kinh Thiên Bát Đại
Giáo Vương dịch vào đời Đường. Nhưng vì ngoài hai kinh ấy ra còn
thiếu những chứng cứ khác, nên khó luận đoán như thế nào” (xem Giới Học Thuật
Yếu). Căn cứ vào sự khảo chứng của Pháp sư Tục Minh, Ngài nhận rằng văn bài tựa
và hậu ký của Kinh Phạm Võng là có vấn
đề. Kinh văn quyển thượng cũng chẳng phải là của Ngài La Thập dịch,
và suy đoán theo hình thức, Ngài cho rằng Kinh Phạm Võng chắc chắn cũng có căn
cứ của Đại Bổn, đồng thời Ngài cũng nói: “10 trọng 48 khinh của Phạm Võng giới
không phải như tương truyền nói là một phần của phẩm Tâm Địa Pháp Môn, mà từ trong các phẩm của Đại Bổn trích ra”. Một
phát minh này rất đáng quý!
Tôi cũng muốn bổ sung vào một
chút ý kiến: Đoạn trước đã nói, chỗ tương đồng của Phạm Võng và Anh Lạc rất
nhiều, cả hai đều là đốn lập giới, đều ở tại nước Ma Già Đà gần Bồ đề đạo
tràng, một lúc nói ra đồng là nói 10 điều giới trọng như nhau. Vậy chúng ta có
thể tin rằng Kinh Phạm Võng của bản dịch hai quyển là do chịu ảnh hưởng hình
thức của Kinh Anh Lạc và phụ thêm vào quyển thượng của bản một quyển. Lại, nhân
trong quyển hạ Kinh Phạm Võng đối với tên gọi chung có 42 vị Hiền thánh Bồ tát
là Thập phát thú, Thập trưởng dưỡng, Thập kim cương, Thập địa, là dùng một bộ
phận của Kinh Thiên Bát làm quyển thượng của Kinh Phạm Võng. Nhưng ở đây cũng
có vấn đề là Kinh Phạm Võng của bản hai quyển Lịch Đại Tam Bảo Kỷ của Phí Trường Phòng (Đời Tuỳ, niên
hiệu Khai Hoàng năm thứ 17) đã có rồi. Kinh
Thiên Bát do Tam Tạng Bất Không đời Đường dịch ra, điều này trên
thời gian bị đảo ngược, cũng có thể cho rằng Kinh Thiên Bát hoặc đồng một tính
chất của bản chữ Phạn đã đến Trung Quốc sớm hơn.
Ngoài ra, Pháp sư Tục Minh còn
cho rằng Phạm Võng giới có thể do từ trong tác phẩm của Đại Bổn trích ra, đây
là thường lệ của giới Thanh văn. Như tôi thấy trong Ưu bà tắc Giới Kinh của Đại
thừa giới: Sáu giới trọng và 28 giới khinh đều tập trung vào một phần của phẩm
Thọ Giới, đủ thấy hình thức của luật Đại thừa và luật Thanh văn có chỗ bất
đồng, vì thế đây là vấn đề còn đợi nghiên cứu. Đồng thời, 10 điều giới trọng
của Kinh Anh Lạc cũng là nói một cách tập trung chứ không phải giải thích.
Nhưng mặc dầu như thế nào, tính
tồn tại và tính chân thật của Bồ Tát giới là điều không thể phủ nhận. Bồ Tát
giới tại Tây Vức cũng đã sớm lưu hành, nhưng trong Bồ Tát Giới Bổn Sớ của Pháp
Tạng nói: “Lại nghe ở Tây Vức, các chùa Tiểu thừa lấy Ngài Tân Đầu Lô làm
Thượng tọa, các chùa Đại thừa lấy Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng tọa, khiến đại
chúng đều trì Bồ Tát giới, yết ma thuyết giới đều tác Bồ Tát pháp sư, Luật tạng
thường tụng không dứt”.
2. Loại Du
già
Trong loại Du già bao quát ba
loại: Du già, Địa Trì, Thiện Giới. Ba
loại giới bổn này đều là cùng một phẩm của Luận Du Già Sư Địa,
nhưng có nhiều bản dịch khác nhau, cùng có thể do lối nhìn của dịch giả bất
đồng hoặc do bản Phạn các Ngài thấy bất đồng, vì thế mà có tường tận hay giản
lược, hoặc thiên trọng hay thiên khinh bất đồng. Tuy nhiên, lai lịch loại Du già này không thể hoài nghi, chỗ bất đồng lớn
nhất của loại Du già và loại Anh Lạc, Phạm Võng là duyên khởi và sự
tổ thành của Giới Kinh. Anh Lạc, Phạm Võng là do chính miệng Phật nói ra, còn
cuối Du già Giới Bổn có nói về loại Du
già như sau: “Các việc khởi ra như thế này: Bồ tát học xứ (giới)
trong các Kinh Phật đã tùy cơ rải rác tuyên nói, đó là y luật nghi giới, Thiện
pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới, nay nói Luận Bồ Tát này là nói tổng hợp”.
Nói một cách khác, loại Du già là do Bồ Tát Di Lặc căn cứ vào các kinh Phật nói
rải rác những gì quan hệ đến bộ phận của giới luật góp nhặt biên tập thành. Vì
thế, đồng là Bồ Tát giới của Phật nói, loại trước trực tiếp hình thành, loại
sau gián tiếp biên thành. Đây chỗ không đồng nhau ở trên nguyên nhân thành lập,
nhưng vẫn đều là Bồ Tát giới Phật nói.
3. Loại Ưu bà tắc Giới
Đây là do trưởng giả Thiện Sanh
cầu Phật, hỏi pháp, rồi do chính miệng Phật nói ra, gồm có 7 quyển 28 phẩm, rất
hợp với căn khí của người tại gia cho đến ngoại đạo đương thời. Đây là một bộ
kinh điển rất hay, lịch trình từ một người tục mới phát tâm tin Phật thẳng đến
thành Phật đều được chỉ dẫn kỹ càng. Nhưng từ trên nhân duyên thọ giới, đắc
giới mà nói, thì đây là một thứ Đại thừa giới rất khó thọ, khó đắc.