Chương
5. Pháp Yết Ma Và Pháp Sám Hối
I.
PHÁP YẾT MA LÀ GÌ?
Yết ma là dịch âm chữ Phạn:
Karma, dịch ý là “Nghiệp”, nghĩa là thọ giới, thuyết giới, sám tội, và các thứ
xử lý của Tăng sự; vì thế còn được giải là “Biện sự” hoặc “Tác sự”. Đây thuộc
về giới tác trì.
Hành Sự Sao quyển I, thượng,
nói: “Minh Liễu Luận Sớ phiên dịch Sở tác là nghiệp, cũng phiên
dịch là tác sự. Bách Luận gọi là sự, nếu tìm theo nghĩa, phiên dịch là “Biện sự”.
Huyền Ưng Âm Nghĩa quyển 14 nói:
“Yết ma Trung Hoa dịch là Tác pháp biện sự”.
Nếu giải thích theo thuật ngữ
hiện đại, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự hoặc pháp hội nghị
riêng của Phật giáo. Tính trọng yếu của pháp yết ma trong Phật giáo tương tự
như tính trọng yếu của dân quyền được kiến thiết ở bước đầu của chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Trung Sơn. Không có pháp nghị sự kiện tòan chắc chắn sẽ khó sinh ra
chế độ dân chủ lý tưởng, tăng đoàn Phật giáo hoàn toàn hợp được với tinh thần
dân chủ là do công hiệu của pháp yết ma.Nội dung của chế độ dân chủ hiện đại là
dân trị, dân hữu, dân hưởng. Mục đích của pháp yết ma trong Phật giáo là tạo
thành lục chủng hòa kính: Thân hòa ở chung, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa
đồng vui, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng chia đều. Từ trên
nguyên tắc mà nói: Lục hòa kính của Phật giáo là sinh hoạt dân chủ của dân chủ
tuyệt đối. Sự duy trì và bảo hộ một tinh thần dân chủ này là trách nhiệm và
công năng của pháp yết ma. Thông thường nói: “Tăng sự, tăng đoán” cũng là lấy ý
kiến và lực lượng của đại chúng trong tăng đoàn để giải quyết các việc trong
đại chúng tăng đoàn, đoàn kết được đại chúng trong tăng đoàn là nhờ pháp yết
ma, trừ khử ác nghiệp cũng phải nhờ pháp yết ma. Chủ tể của sự thành thiện khử
ác tuy là đại chúng trong tăng đoàn, nhưng đại chúng trong Tăng đoàn thành
thiện khử ác được là nhờ pháp yết ma mà thành. Vì thế, một đoàn thể không có
hội nghị quyết chắc không phải là đoàn thể của dân chủ, một Tăng đoàn không cử
hành pháp yết ma không thể là Tăng đoàn của lục hòa kính. Tòng lâm của Trung
Quốc, thanh chúng có thể bình dầu ngã không cần đỡ dậy, mọi việc đều có các vị
chấp sự của thường trụ phụ trách. Nhìn ở mặt thô, thì đây là vì thành tựu sự
chuyên tâm tu hành của thanh chúng, thanh chúng của tòng lâm là người an ổn, là
người có phước. Song nhìn ở một góc độ khác, tất cả sự vụ của Tăng đoàn, hoàn
toàn do một thiểu số chấp sự bao biện mà không cho thanh chúng tham dự, thậm
chí chỉ do trung ương tập quyền của phương trượng giám viện, đó là điều không
phù hợp với tinh thần lục hòa kính.
II.
PHÁP YẾT MA CÓ MẤY THỨ?
Chủng loại của pháp yết ma, phân
ra có 101 thứ của 3 loại lớn:
1. Đơn bạch yết ma: Hoặc gọi là
Bạch nhất yết ma, nghĩa là “Xướng ngôn”, đây là đối với việc không cần trưng
cầu đồng ý, hướng về đại chúng tuyên cáo việc thường làm, quen làm và cần phải
làm, nói lên một lần là thành. Gồm có 24 thứ.
2. Bạch nhị yết ma: Đây là tuyên
cáo một lần, rồi nói lại một lần nửa để trưng cầu sự đồng ý của đại chúng. Gồm
có 47 thứ.
3. Bạch tứ yết ma: Đây là trước
tiên tuyên cáo một lần, ba lần trưng cầu đồng ý. Nếu như nhất bạch tam yết ma
xong, trong đại chúng im lặng là biểu thị không có dị nghị mà tuyên bố yết ma
đúng như pháp, nghị án thành lập nhất trí thông qua. Gồm có 30 thứ (chủng số
danh mục xin tự tham duyệt yết ma của Luật Bộ).
Tinh thần của pháp yết ma so với
trình tự nghị hội của hiện đại thì trang nghiêm và thiêng liêng hơn. Đề án nghị
hội của hiện đại thông thường là 2 phần 3 số phiếu tán thành thì được thông
qua, có khi chỉ cần có quá phân nữa là chuẩn, có khi chỉ cần hơn 3 phần 4 là
chuẩn, nhưng rất ít khi nào yêu cầu nhất trí thông qua. Trong Tăng, chỉ cần có
một người dị nghị là tăng không hòa hợp thì yết ma không thành. Chỉ có pháp yết
ma Diệt tránh là đầu phiếu (bỏ thăm) lấy đa số biểu quyết.
Nhưng trong pháp yết ma cũng có
quy định: Phàm, pháp yết ma đúng như pháp, như luật, không cho phép vô lý kình
chống mà phá hoại. Nếu một người vô lý kình chống, phá hoại yết ma đúng như
pháp, như luật, thì Tăng đoàn có thể làm pháp yết ma đối với một người ấy. Như
có một tập đoàn nhỏ 4 người trở lên kình chống làm yết ma riêng thì phạm tội
phá yết ma tăng. Vì thế, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ pháp nghị sự cực
kỳ thiêng liêng và lại rất chu đáo tỏ tường. Tăng già Trung Quốc ngày nay không
cử hành pháp yết ma, thật là một điều đáng than tiếc.
Sự quy định của pháp yết ma là
dùng để phán đoán pháp yết ma có hợp với sự yêu cầu hay không. Sự quy định ấy
phải đủ bốn điều kiện yết ma mới thành lập được. Bốn điều kiện ấy là:
1. Pháp: Tức là bản thân của
pháp yết ma phải là xuất từ trong chủng loại của pháp yết ma. Pháp có ba loại:
Tâm niệm pháp, đối thú pháp, chúng pháp.
2. Sự: Hoặc sự của phạm tội,
hoặc sự của sám hối, hoặc sự của thọ giới, đó là những điều cần phải cử hành
pháp yết ma. Sự có ba loại: Hữu tình sự, phi tình sự, tình phi tình hợp sự.
3. Nhân: Nhân số tham sự phải
được quy định trong khi cử hành pháp yết ma nào đó, tức là số người. Người có 6
đại loại: Một người, 2 người, 4 người, 5 người, 10 người, 20 người.
4. Xứ: Cử hành yết ma cần phải
có xứ sở, một xứ sở này gọi là giới. Giới có phân làm hai đại loại: Tác pháp
giới và Tự nhiên giới. Tác pháp giới lại phân ra ba thứ: Đại giới, giới tràng,
tiểu giới. Tự nhiên giới cũng phân ra có bốn thứ: Tụ lạc (xóm làng), lan nhã,
đạo hành, thủy giới. Làm một chủng loại yết ma nào cũng điều có giới riêng dùng
để quy định.
Bốn điều kiện này tôi hợp lại
đưa ra một thí dụ. Tỷ như thọ giới: Bản thân của thọ giới là sự, nghi thức
truyền giới là pháp, Hòa thượng là A xà lê, tham dự là nhân (người), giới tràng
thọ giới là xứ. Nói về số người tham gia yết ma gồm có 6 loại:
1. Một người: Đây là Tâm niệm
pháp, tỷ như Tỳ kheo tâm niệm tự trách, sám trừ lở phạm tội Đột kiết la. Thật
ra, trường hợp này chưa nhập vào pháp yết ma.
2. Hai người: Đây là Đối thú pháp,
một Tỳ kheo đối với một Tỳ kheo thanh tịnh khác nhau làm, như sám trừ tội Ba
dật đề. Nói một cách nghiêm khắc thì trường hợp này cũng chưa nhập vào pháp yết
ma.
3. Bốn người: Trừ không thể xuất
tội tăng tàn thọ giới, biên địa thọ giới tự tứ ra, tất cả yết ma đều có thể bốn
người thành tựu.
4. Năm người: Đây là số người
tối thiểu của tự tứ yết ma và biên địa thọ giới yết ma. Trừ không thể xuất tội
Tăng tàn và thọ giới ra, tất cả yết ma đều có năm người thành tựu.
5. Mười người: Trừ không thể
xuất tội Tăng tàn ra, tất cả yết ma đều có thể thành tựu, chủ yếu là số người
cần thiết để truyền giới Cụ túc.
6. Hai mươi người: Đây là số
người tối thiểu để xuất tội Tăng tàn, và là số người có thể thành tựu tất cả
yết ma.
Nhưng, phần tử được tham gia yết
ma, trong Tỳ kheo tăng phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo phạm mà chưa sám
trừ, không đủ số cũng không được tham dự. Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni,Sa di
ni, cho đến tất cả người tục, dù không đủ số, cũng không được tham gia. Yết ma
của Tỳ kheo ni, Tỳ kheo cũng không được tham dự.
Nhưng hai bộ Tăng Ni đều riêng
có ba thứ yết ma tương đối thực hành:
1. Tỳ kheo có thể vì Ni chúng
làm thọ giới yết ma, Ma na đỏa (Ni phạm tội Tăng tàn, làm 35 điều Tùy chúng ý)
yết ma, xuất tội (Tăng tàn) yết ma.
2. Tỳ kheo ni có thể làm ba pháp
yết ma đối với Tỳ kheo là không lễ bái, không cùng nói chuyện, không kính sợ.
Giả như Tỳ kheo vô lý xúc não Tỳ kheo ni, Tỳ kheo ni có thể dùng ba pháp yết ma
này đối phó Tỳ kheo.
Chỗ bất đồng là: Tỳ kheo vì Tỳ
kheo ni làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo ni phải hiện diện trước Tỳ kheo; Tỳ kheo ni
vì Tỳ kheo làm ba thứ yết ma, Tỳ kheo không cần phải hiện diện trước Tỳ kheo
ni.
III.
PHÁP SÁM HỐI
Đại thừa giới chưa đến Phật quả,
không thể tuyệt đối không phạm, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Tiểu thừa giới
chưa đến quả A la hán, không thể tuyệt đối thanh tịnh. Vì thế, phàm là Phật
giới, trừ tội trọng ra, đều có phương pháp hối tội. Đây là phương tiện từ bi
của Phật, nếu như tất cả giới chỉ có pháp phạm mà không có pháp hối thì không
có một chúng sinh nào có khả năng học Phật, thành Phật.
Hai chữ Sám hối, Thiên Thai Chỉ
Quán quyển 7 giải thích: “Sám là trình bày tội ác đã làm, hối là sửa đổi lỗi
trước, từ nay về sau không làm nữa”. Trên thực tế, bốn ý của Sám hối cùng với
sự giải thích trên có chút thêm bớt. Vì hai chữ Sám hối là hợp dịch âm nghĩa
của Phạn ngữ: Ksamayati, dịch âm là Sám ma, dịch nghĩa là Hối quá, hợp thành
Sám hối. Đã giữ âm lại thêm vào nghĩa.
Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Ký
quển 3: hai chữ Sám hối là cùng nêu lên hai âm. Phạn ngữ Sám ma, Trung Hoa gọi
là Hối quá”.
Nam Sơn Giới Sớ quyển 1, hạ:
“Sám hối, hối là tiếng Trung Hoa, sám là nói tắt của tiếng Ấn Độ, như tiếng
Phạn vốn nói là Sám ma”.
Nam Hải Ký Quy Truyện quyển 2:
“Cựu dịch là Sám hối, không quan hệ đến thuyết tội. Vì sao? Sám ma là âm tiếng
Ấn Độ, nghĩa là tự phải nhẫn; Hối là chữ Trung Hoa nghĩa là truy hối; không có
can hệ gì với nhau”.
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
Tỳ Nại Da quyển 15, chú thích: “Nói sám ma, Trung Hoa định nghĩa là: Xin tha
thứ, xin cho sửa lỗi, đối diện xin lỗi. Nếu lỡ phạm người hiện diện, muốn xin
người hoan hỷ, đều nói sám; bất luận lớn nhỏ đều đồng như thế. Nếu hối tội gọi
là A bát đề xá na (Apati-désanà), A bát để là tội, đề xá na là thuyết, đáng lẽ
dịch là thuyết tội. Nói sám hối, sám là tiếng Ấn Độ, hối là Tiếng Trung hoa,
chẳng phải xin tha thứ tội, cũng chẳng phải là thuyết tội, thật là khó phân
biệt rõ”.
Nói theo nguyên ý, sám ma (xin
dung thứ) cùng A bát để đề xá na (thuyết tội) không thể hỗn hợp giải thích,
cũng không thể hỗn hợp ứng dụng, nhưng ở Trung Quốc đã đem giới hạn của hai thứ
này hỗn hợp lại một khối. Vì thế, nói đến sám tội cũng hàm có hối tội, nói đến
hối tội cũng hàm có sám tội. Như tác pháp sám, thủ tướng sám, vô sanh sám đã
được gọi là ba thứ hối pháp, cũng có thể gọi là ba thứ sám pháp.
Nhưng trong luật phần nhiều dùng
pháp hối tội đại biểu cho hai chữ sám hối.
Pháp sám tội, trên thực tế cũng
là một pháp yết ma. Pháp yết ma 101 thứ, địa phận thiết yếu không ra ngoài hai
loại lớn là thành thiện và khử ác: Tỷ như thọ giới, thuyết giới, tự tứ, kiết
tịnh địa, thọ y ca hy na, phân tọa cụv.v… đều là yết ma thành thiện. Lại như
Khổ thiết, Khu tẩn, Biệt trụ, Ma na đỏa, hướng bạch y sám hối (Tỳ kheo vô lý
xúc não bạch y phải ở trong Tăng bạch nhị yết ma, do một Tỳ kheo khác làm bạn
đồng đi qua chỗ của bạch y sám hối), cử tội Tỳ kheo…, đều là yết ma khử ác.
Pháp sám hối gồm có ba thứ và có
thể hợp thành hai loại theo biểu đồ như sau:
Tác pháp sám diệt được giới tội
mà không diệt được phiền não tánh tội. Thủ tướng sám diệt được phiền não tánh
tội nhưng không diệt được vô minh chướng ngại trung đạo quán. Vô sanh sám diệt
được vô thỉ vô minh. Tác pháp sám là pháp hối tội của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni mà
chương này cần phải giới thiệu, là tác pháp y theo sự quy định mà thuyết tội,
hối tội. Thủ tướng sám tức là như trong Phạm Võng Bồ tát Giới Bổn nói: “Phải
dạy sám hối, ở trước hình tượng Phật, Bồt tát ngày đêm sáu thời tụng 10 giới
trọng, 48 giới khinh, khẩn thiết lễ tam thế ngàn Phật, được thấy hảo tướng”.
“Hảo tướng là thấy Phật đến xoa đảnh, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các thứ
tướng lạ, liền được diệt tội”. Hai pháp hối tội này đều là dùng sự thông đạt
thành mục đích hối tội, vì thế gọi là sự sám. Vô sanh sám là chánh tâm ngồi
ngay thẳng, thầm quán vạn pháp “Không, Như” mà lại tức tục, trung đạo hiện
tiền, mở Phật nhãn, phá vô minh. Một sám pháp này nếu tu hành tối thiểu là từ
cảnh giới Sơ địa trở lên. Vì thế, Thủ tướng sám đã khó quán thành công, Vô sanh
sám càng khó quán thành công hơn. Thủ tướng sám và Vô sanh sám là pháp sám phổ
thông của Hóa giáo, là thông dụng của Đại thừa, Tiểu thừa, cũng thông dụng cho
cả hai chúng tăng tục. Tác pháp là sám pháp của thế giáo, là hạn cuộc nơi Tiểu
thừa, chủ yếu đối với Tăng Ni, phụ đối với người tục. Nếu chỉ y theo sám pháp
tội của Hóa giáo, tuy diệt tánh tội mà giới tội vẫn còn. Nếu chỉ y theo sám
pháp sám tội của thế giáo, giới tội hiện tiền tuy diệt nhưng nghiệp đạo tánh
tội từ vô thỉ đến nay vẫn còn. Vì thế, tốt nhất là hỗ tương ứng dụng cả ba thứ
sám pháp: Thủ tướng, Tác pháp, Vô sanh; hiện tại chúng tôi muốn nói chính là
Tác pháp sám, đây cũng là một pháp sám tội dễ được thành công nhất. Nay xin
giới thiệu về Tác pháp sám.
Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới gồm
có 6 thứ tội danh. Bởi vì tội Ba la di không thể dùng Tác pháp sám để hối trừ,
vì thế tội danh năng hối chỉ có 5 thứ. Nhưng lại không phải là phương thức một
thứ tội danh đối với một thứ hối tội, mà trong đó có một thứ tội danh phải dùng
2 thứ cho đến 5 thứ phương thức hối trừ. Hiện tại liệt kê theo biểu đồ như sau:
Tội Ba la di, vốn chỉ có pháp
phạm mà không có pháp hối, nhưng người lần thứ nhất phạm căn bản giới dâm, lập
tức phát lồ, hướng Tăng đoàn lập tức tự thú tự bạch thống thiết cải hối, tuy
mất giới Tỳ kheo và cũng mất thân phận Tỳ kheo mà không bị diệt tẩn. Sau khi ở
trong 20 vị Tăng cầu hối, phải thọ trì 35 việc, thành Dự học Tỳ kheo (Thập Tụng
Luật gọi là Dự học Sa di), suốt đời ở dưới Tỳ kheo thanh tịnh và trên tất cả Sa
di, suốt đời mất hết tất cả Tăng quyền, không được tham gia bất cứ pháp yết ma
nào, suốt đời hầu hạ phục dịch đại chúng Tỳ kheo.
Tội Tăng tàn có thể hối trừ,
song cần phải ở trong 20 vị Tỳ kheo thanh tịnh xuất tội. Tỳ kheo Ni phải ở
trong hai bộ Tăng và Ni tăng và Tỳ kheo tăng mỗi bộ 20 người xuất tội. Tỳ kheo
phạm Tăng tàn nếu phú tàng (che dấu) một ngày, phải làm yết ma 6 đêm Ma na đỏa,
hành pháp Biệt trụ, trong thời gian này bị tước đoạt tất cả Tăng quyền, tùy
thuận đại chúng, phục dịch đại chúng, hành 35 việc. Sáu đêm hoàn tất, được ở
trong 20 vị Tỳ kheo tăng thanh tịnh xuất tội Tăng tàn rồi trở lại thành Tỳ kheo
thanh tịnh. Tỳ kheo ni phạm Tăng tàn, trước tiên làm nửa tháng Ma na đỏa, sau
đó mới hướng vào trong hai bộ Tăng mỗi bộ 20 người để xuất tội. Đây là vì sự
tiện lợi của mỗi nửa tháng Bồ tát, không đến nửa tháng, bất tiện qua trong Tỳ
kheo tăng cầu hối xuất tội, vì thế cần phải nửa tháng Ma na đỏa.
Theo sự quy định này, hiện thời
ở Trung Quốc đã không cử hành yết ma, phạm tội Tăng tàn cũng không làm sao sám
trừ. Về sám hối tội Tăng tàn, không thể nói một cách đại khái như nhau được.
Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp quyển 4 nói: “Có sáu loại người phạm tội chúng
giáo (tức Tăng tàn) đối trước một Bí sô thuyết trừ tội ấy được gọi là thanh
tịnh.
1. Người trì khắpKinh tạng.
2. Người trì khắp Luật tạng.
3. Người trì khắp Luận tạng.
4. Người tánh rất hổ thẹn, nếu
nói lỗi của người ấy, người ấy ôm lòng hổ thẹn đến chết.
5. Bậc Thượng tọa già nhất trong
chúng.
6. Người có đại phước đức”.
Hành Sự Sao quyển 4 nói: “Có 6
loại người phạm tội Tăng tàn được tâm niệm hối:
1. Thượng tọa phạm Tăng tàn, e
bị mọi người sinh khinh mạn. Phật dạy: Nếu nhất tâm sinh niệm: Từ nay về sau
không làm nửa, liền được thanh tịnh.
2. Bậc đại đức được nhiều người
quen biết.
3. Người nhiều hổ thẹn, nếu bắt
làm pháp ở trong 20 vị tăng xuất tội, người ấy thà xả giới.
4. Bệnh nặng không thể quỳ,
không có sức lực để sám.
5. Trụ xứ không đủ 20 vị Tỳ kheo
thanh tịnh, lúc đi qua nơi khác cầu hối tội, dọc đường bị giặc hại mà chết.
6. Chúng không thanh tịnh, qua
nơi khác cầu chúng thanh tịnh hối tội, dọc đường gặp giặc hại mà chết.
Sáu loại người này, Phật nói:
“Nhất tâm sinh niệm, sám hối đúng như pháp là người được sinh lên trời”.
Người xuất gia ở Trung Quốc ngày
nay, nếu đoàn thể sinh hoạt trên 20 người, tốt nhất là dùng pháp yết ma để hối
trừ tội Tăng tàn. Nếu như số người không đủ, không có cách nào cử hành pháp yết
ma đúng như luật, thì cũng nên theo pháp đối một người sám hối hoặc dùng pháp
tâm niệm, hối trừ tội Tăng tàn. Trên thực tế, Tăng Ni Trung Quốc đã không biết
dùng pháp yết ma để hối tội.
Thâu lan giá là một thứ tội phức
tạp hơn hết. Hành Sự Sao quyển 1, trung, nói: “Một tụ Thâu lan giá, tội thông
cả chánh và tòng, thể gồm cả khinh trọng. Luật nêu 7 tụ mà 6 tụ đều hàm Thâu
lan giá”. Đây là nói Thâu lan giá chia làm hai môn chánh và tòng: Chánh gọi là
Độc đầu Thâu lan giá, Tòng gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Độc đầu là đơn độc
thành lập. Tòng sinh là phụ thuộc vào 6 tụ kia mà thành lập, tội chưa thành của
6 tụ kia đều gọi là Tòng sinh Thâu lan giá. Trong 7 tụ, trừ 2 pháp Bất định
không định phạm tội nên không có Thâu lan giá, 6 tụ kia đều có Thâu lan giá.
Nhưng chánh có trọng cũng có khinh, tòng sinh cũng có trọng có khinh. Tòng sinh
Thâu lan giá tuy trùm khắp 6 tụ, nhưng vẫn chủ yếu là Ba la di của thiên đầu và
Tăng tàn của thiên thứ hai. Nhưng bất luận chánh tòng đều có thể phân làm ba
phẩm: thượng, trung, hạ. Hiện tại đem số người đối hối của ba phẩm chánh tòng
liệt kê biểu đồ như sau:
Biểu đồ này là do tham khảo từ
các luật bổn nêu ra, chính xác hay không chờ hỏi bậc cao minh, vì trong các bộ
luật đối với vấn đề này đều có ý kiến khác nhau, thật khó tìm sự hoàn hảo nhất
trí.
Phẩm vị phân pháp của Tòng sinh
Thâu lan giá là căn cứ vào trình độ của tội chưa tội mà định: Tỷ như hành dâm
là phải hai thân giao hợp với nhau mới thành tội Ba la di của thiên đầu; nếu
khởi thân chuẩn bị hành dâm liền đình chỉ, là viễn phương tiện của thiên đầu,
thành hạ phẩm tội. Nếu đã dùng tay vuốt ve đối phương chuẩn bị cởi y phục hành
dâm rồi đình chỉ, là thứ phương tiện của thiên đầu, thành trung phẩm tội. Nếu
đã cỡi áo trong hai thân chạm nhau, nam căn sắp nhập vào nữ căn, lúc chưa nhập
liền đình chỉ, là cận phương tiện của thiên đầu, thành thượng phẩm tội. Ba phẩm
thượng, trung, hạ của tội Tăng tàn chưa tội có thể so với trên mà biết được, ở
đây không cần nêu ra.
Đến Thâu lan giá của tự tánh
chánh tội, hoặc Độc đầu Thâu lan giá cũng phân làm ba phẩm: thượng, trung, hạ;
nội dung như sau:
- Thượng phẩm độc đầu: Trộm 4
tiền, giết phi nhân (quỷ thân biến hóa thành người), trộm đồ vật của phi nhân
trị giá 5 tiền trở lên, ở phi đạo (trừ âm đạo, đại tiện đạo và miệng ra, các bộ
phận khác trên thân thể) hành dâm.
- Trung phẩm độc đầu: phá yết ma
tăng, trộm 3 tiền trở lên, chạm xúc người hai hình và huỳnh môn; cùng với tóc,
móng của người nữ chạm xúc; cùng với người nữ, một người có y phục, một người
không y phục chạm xúc; làm cho người khác chảy đồ bất tịnh (thủ dâm).
- Hạ phẩm độc đầu: Chứa lược
dùng chảy tóc, cạo lông ba chỗ (nách và đại tiểu tiện), dùng dầu tô thoa láng
âm hộ, trần truồng đi, chứa bát bằng gỗ, mặc y ngoại đạo.
Sám tội Ba dật đề thông thường
đối với một vị Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) thanh tịnh thuyết tội, hối lỗi, tùy phạm có
thể tùy hối. Nếu không có phương tiện nên đợi lúc nửa tháng thuyết giới sám
hối.
Pháp hối quá là tùy phạm tùy
hối, đối trước một người nói một lần liền được hối quá.
Pháp hối tội là Đột kiết la và
Ba dật đề giống nhau. Nếu lỡ phạm tội Đột kiết la, tự trách tâm thống thiết,
hối cải tội liền trừ diệt.
Còn có một điều quy định rất
quan trọng là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni không được nói tội ác của mình đã phạm với
nhau đế sám hối. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật Tạp Sự quyển 32: “Phật
nói Bí sô không được nói tội của mình với Bí sô ni, phải đối trước bí sô thanh
tịnh đồng kiến giải phát lồ thuyết đối”.
Lại nói: “Bí sô ni không nên đến
bên Bí sô phát lồ phải ở bên Bí sô ni thuyết tội”. Đến như Tỳ kheo ni phạm tội
Tăng tàn phải ở trong hai bộ tăng xuất tội; ở trước Tỳ kheo Tăng, chỉ xuất tội
mà không phải phát lồ thuyết tội”.
Các pháp yết ma và các pháp sám
tội đều có nghi thức nhất định và lời tác bạch nhất định, vì giới hạn của tạp
sách nên không thể biên chép lại đầy đủ.
Ở đây đem các loại địa ngục và
số năm bị đọa do tội phạm giới ghi lại như sau:
1. Tội Ba la di: Đọa địa ngục
Diệm Nhiệt 92 vạn 1 ngàn 6 trăm vạn năm.
2. Tội Tăng tàn: Đọa địa ngục
Đại Hào Khiếu 23 vạn lẻ 4 trăm vạn năm.
3. Tội Thâu lan giá: Đọa địa
ngục Hào Khiếu 5 vạn 7 ngàn 6 trăm vạn năm.
4. Tội Ba dật đề: Đọa địa ngục
Chúng Hợp 1 vạn 4 ngàn 4 trăm vạn năm.
5. Tội Đề xá ni (Hối quá pháp):
Đọa địa ngục Hắc Thằng 3 ngàn 6 trăm vạn năm.
6. Tội Đột kiết la: Đọa địa ngục
Đẳng Hoạt 9 trăm vạn năm.
Đương nhiên các loại địa ngục
này là nhất định, song số năm đọa địa ngục không nhất định, số năm ghi ra ở đây
cũng chỉ là đại khái mà thôi. Nhân vì đồng là một thứ tội danh lại có rất nhiều
cấp bậc của tội nghiệp, tỷ như Thâu lan giá phân có ba phẩm thượng, trung, hạ;
pháp hối tội có 5 phương thức, nếu như không hối thì số năm cảm thọ tội báo
đương nhiên cũng không nhất định.
Thiên này đến đây đã xong, đọc
giả nếu muốn hiểu sâu xin mời tự nghiên cứu các bộ Quảng Luật. Nếu không nghiên
cứu Quảng Luật, tôi xin giới thiệu 4 bộ sách luật: Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập
Yếu của Đại sư Ngẫu Ích, Tứ Phần Luật Tỳ kheo Giới Tướng Biểu Ký của Đại sư
Hoằng Nhất, Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni Giới Tướng Biểu Ký của Tỳ kheo ni Thắng Vũ,
Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh. Tỳ kheo tốt nhất
nên xem cả bốn bộ; Tỳ kheo ni nên xem 2 bộ sau, ít nhất cũng xem 1 bộ sau chót,
vì Ni sư Phật Oánh là bác si y khoa nên đối với phương diện vệ sinh về sinh lý
của Ni chúng có sự hướng dẫn tận tường. Chị em Ni chúng của Phật giáo, nếu như
đồng trinh xuất gia, đối với vấn đề vệ sinh sinh lý phần nhiều không hiểu, có
người bệnh, mắc cỡ không đến y sĩ điều trị. Vì thế, tôi chủ trương người xuất
gia nam nữ đều phải hiểu về vệ sinh sinh lý học. Vấn đề sinh lý không phải là
bí mật, chỉ có người cho rằng cấu tạo của sinh lý là bí mật, nên đối với vấn đề
sinh lý mới càng cảm thấy quyến rũ làm mê người mà đến nỗi thành bệnh cho đến
tạo thành tội ác. Do đó, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cần xem bộ Tứ Phần Luật Tỳ kheo ni
Giới Bổn Chú Giải của Tỳ kheo ni Phật Oánh biên soạn.