Chương 2.
Ngày Lục Trai Và Giới Trai Thanh Tịnh
I.
NGÀY LỤC TRAI LÀ GÌ?
Đoạn trước đã nói, các ngày mùng
8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng âm lịch là ngày lục trai. Trong 6 ngày này,
người thế tục nên thọ trì Bát quan giới trai.
Không ăn phi thời là điều Phật
giáo và ngoại đạo cùng thực hành, ngày lục trai cũng là điều Phật giáo và ngoại
đạo cùng thủ trì. Ở đây chúng ta cần phải hiểu rõ Phật pháp và ngoại đạo trong
nhiều quan niệm về pháp nhân thiên có thể tương đồng. Ngoại đạo tuy không sâu
rộng bằng Phật pháp, nhưng nhận thức của ngoại đạo trong pháp nhân thiên có
nhiều điểm Phật giáo có thể thừa nhận. Chỉ cần là đúng chánh pháp, thì dù ngoại
đạo nói vẫn phải được tôn trọng. Nếu như không đúng, tuy là Phật tử nói cũng
không thể tin. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo.
Ngày lục trai, Phạn ngữ gọi là
Bô sa tha (Posadha), cùng với Bố tát của Phật giáo (mỗi nửa tháng Bố tát thuyết
giới) đồng một nghĩa là trưởng tịnh, nghĩa là trưởng dưỡng thiện pháp, thanh
tịnh phạm hạnh. Kỳ thật, Tỳ kheo nửa tháng Bố tát thuyết giới cùng với 6 ngày
trai có quan hệ rất sâu xa, như Tát Bà Đa
Bộ Tỳ Ni Ma Đắc Lặc Già quyển 6: “Các ngoại đạo ở thành Vương Xá
ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng Kinh được nhiều lợi dưỡng, quyến
thuộc thêm đông. Bình Sa Vương tin Phật pháp Tăng đi đến chỗ Phật… Phật nói cho
các Tỳ kheo ngày mùng 8, 14, 15, tập họp một chỗ tụng kinh thuyết pháp”. (Ấn Độ
đương thời đem một tháng chia làm 2 tháng gọi là bạch nguyệt và hắc nguyệt, mỗi
tháng chỉ có 15 ngày từ 1 đến 15, không có 16 đến 30). Đến việc Bố tát, nguyên
nhân cũng vì “các ngoại đạo Phạm chí ở thành Vương Xá mỗi tháng 3 lần tập họp,
những người quen biết quây quần cúng dường thức ăn uống. Phật khuyên Bình Sa
Vương đặt pháp chế, có Tỳ kheo thuyết pháp cho bạch y, bạch y thí thực cho Tỳ
kheo, nguyên mỗi tháng 2 lần, dần dần tăng lên 6 ngày trai, 8 ngày trai (xem
Phật học Đại Từ điển, trang 862 của Đinh Phúc Bảo) cho đến tăng lên 10 ngày
trai.
Đủ thấy việc nửa tháng Tỳ kheo
Bố tát 1 lần và nửa tháng 3 lần thọ bát của Bát giới đồng phát xuất từ một
nguyên nhân.
Vậy vì sao phải chọn 6 ngày này
làm ngày trai?
Kinh Đại Bát Nhã quyển 14: “Sáu
ngày trai trong tháng là mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30, chư thiên hội họp”. Kinh
Tứ Thiên Vương ghi: “Ngày trai chư Thiên xem xét người thiện ác: Tu Di Thiên
Vương tức là đệ nhị thiên, Thiên đế tên Thích Đề Hoàn Nhân phước đức vòi vọi,
Điển chủ tứ thiên, Tứ thiên Thần vương, tức là Nhân Tứ Trấn Vương mỗi người
quản một phương, thường thường mỗi tháng vào ngày mùng 8 sai sứ giả xuống đi
khắp thiên hạ dò xét đế vương, thần dân, long quy, các loài côn trùng, tâm nghĩ
miệng nói thân làm thiện ác. Ngày 14, sai Thái tử xuống; ngày 15, Tứ Vương
xuống; ngày 23, Sứ giả xuống; ngày 29, Thái tử lại xuống; ngày 30, Tứ vương tự
xuống”.
Luận Đại Trí Độ quyển 13, hỏi:
“Vì sao ngày lục trai phải nên thọ giới, tu phước đức?”
Đáp: “Những ngày ấy ác quỷ theo
người muốn đoạt mạng người, tật bệnh hung suy khiên người không an, cho nên từ
kiếp sơ, Thánh nhân dạy người trì trai tu phước để tránh hung suy”.
Về nguyên do của 6 ngày trai có
nhiều truyền thuyết, trong các bộ kinh phần nhiều nói giống nhau, Luận Đại Trí Độ
nêu ra rõ ràng nhất; nếu thích, bạn có thể tham duyệt Đại Chánh Tạng tập 25
trang 60.
Luận Tỳ Bà Sa quyển 41: “Thường
thường vào ngày 14, hoặc ngày 15 của bạch nguyệt, hắc nguyệt mỗi tháng, Tam
thập tam thiên tập họp ở Thiện Pháp đường đánh giá thế gian thiện ác nhiều ít.
Thấy người làm thiện ủng hộ, thấy người ác làm thì cùng nhau ghét bỏ”.
Chúng ta không cần nêu ra thêm
nữa, thật ra mục đích ta trì giới trai chẳng phải sợ thiên thần đến dò xét
thiện ác, chẳng phải sợ bệnh tật hung suy, cũng chẳng sợ thiên thần ghét bỏ, mà
là vì gieo trồng cái nhân xuất thế. Nhưng trong mỗi tháng đã có 6 ngày này là
trọng yếu hơn các ngày khác, vì thế Đức Phật cũng chọn 6 ngày này làm ngày trai
của Bát quan trai giới. Tuyệt chẳng phải nói chỉ có 6 ngày này mới có thể làm
ngày trai. Và cũng chẳng phải nói: chỉ có 6 ngày trai này phải nên trì giới
trai, các ngày khác chẳng nên làm ngày giới trai.
Nhân vì thọ trì giới trai, mỗi
ngày thọ trì, mỗi ngày đều có công đức. Sáu ngày trai chỉ trì một ngày cũng có
công đức một ngày. Nếu chẳng trì giới trai, lại tạo ác nghiệp, bình thường làm
ác còn phải chịu khổ báo, huống chi 6 ngày trai làm ác, cố nhiên đắc tội. Đức
Phật cũng dùng 6 ngày như ngoại đạo Ấn Độ, nhưng lại khuyên đệ tử tại gia thọ
trì giới trai. Đây cũng là một thứ phương tiện khéo léo.
II.
THẾ NÀO LÀ GIỚI TRAI THANH TỊNH?
Bát quan trai giới chỉ có 8
điều, song muốn thọ trì thanh tịnh thật cũng chẳng phải dễ. Thân chẳng làm ác:
Không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không đeo tràng hoa thơm, không
xoa dầu thơm, không ca múa và biểu diễn các môn nghệ thuật cũng không cố đến
xem nghe, không nằm giường lớn cao rộng. Miệng chẳng làm ác: Không vọng ngữ,
không uống rượu, không ăn phi thời. Những điều này chỉ cần quyết tâm làm thì
cũng có thể làm được. Đến như muốn cho ý không nghĩ ác mới rất là khó. Rất khó
khống chế vọng niệm cuồn cuộn nổi dậy bất duyệt, tâm chí lơi lỏng một chút
không tập trung, vọng niệm liền thừa kẽ hở xen vào. Trong vọng niệm có thiện,
có ác, có vô ký; thiện thì không hại, vô ký cũng không tổn bao nhiêu, chỉ có ác
niệm như niệm sát sinh, niệm trộm cướp, niệm dâm dục, niệm vọng ngữ, niệm uống
rượu, cho đến niệm ăn phi thời, chỉ cần một niệm khởi, bất luận quá khứ, niệm
vị lai đều là trai không thanh tịnh, chỉ vì chưa phát ra hai nghiệp thân miệng
nên chưa phải là phá giới.
Nếu có người chuẩn bị ngày mai
thọ trì Bát quan trai giới cho rằng ngày mai chẳng thể làm các việc sát sinh,
trộm cướp, dâm dục cho đến chẳng thể ăn phi thời, nên hôm nay cố ý phóng túng
một phen. Người như thế, ngày mai tuy có thể thọ trì giới trai thanh tịnh cũng
không kể là thanh tịnh. Hoặc có người hôm nay thọ trì Bát quan trai giới thanh
tịnh lại có ý ngày mai làm các việc sát sinh, trộm cướp, dâm dục cho đến chuẩn
bị ăn phi thời, cũng không kể là thanh tịnh. Người trì giới trai quý ở tâm là
niệm xuất ly thế gian, quý ở sự buông bỏ ràng buộc của ngũ dục. Nếu tâm không
thanh tịnh, trai sẽ không thanh tịnh, đâu có thể ôm tâm tham đắm ngũ dục thọ
trì giới trai!
Do đó, Phật ở trong kinh Ưu bà
Tắc giới quyển 5 có nói: “ Nếu muốn thọ trai, trước hết phải dạy ngăn các điều
ác mới được thành tựu. Nếu trước chẳng ngăn điều ác mà thọ trai thì không gọi
là đắc trai”. Đủ thấy trước khi thọ trai, chẳng những phải chuẩn bị thân tâm
thanh tịnh, lại còn phải chính miệng mình nói với người khác để cho người khác
cũng biết mình thọ trì giới trai.
Làm thế nào để được giới trai
thanh tịnh?
Đại sư Ngẫu Ích ở cuối quyển Ưu
bà tắc Ngũ Giới Tướng Kinh Tiên Yếu nói: “Ngày trai giới không được đánh chúng
sinh, không được thân miệng làm việc mất oai nghi, không được khởi các phiền
não tham dục, sân nhuế, tà ác, lại cần phải tu lục niệm. Bốn điều cấm kể trên
nếu phạm, tuy không phá trai nhưng trai giới cũng không thanh tịnh”.
Sáu ngày trai thọ Bát quan giới
trai vì đề phòng vọng niệm sinh tử, vì tăng công đức giới trai, phương pháp tốt
nhất là chuyên trì lục niệm.
1. Niệm Phật: Phật là đấng Đạo
sư từ bi, pháp môn niệm Phật trừ được ngu si. Niệm thật tướng Phật trừ được ác
ý. Niệm tướng hảo Phật trừ được thói quen giận hờn.
2. Niệm Pháp: Pháp là mẹ của chư
Phật, pháp của Phật nói ra vô lượng vô biên, dùng 37 đạo phẩm có thể tuần tự
tiến lên hòan thành sự tu chứng, vì thế nên niệm 37 đạo phẩm, nội dung như sau:
- Tứ niệm xứ: Quán thân bất
tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
- Tứ chánh cần: Ác chưa sinh
không cho sinh, ác đã sinh phải diệt, thiện chưa sinh phải làm cho sinh, thiện
đã sinh phải làm cho tăng trưởng.
- Tứ như ý túc: Dục (hâm mộ pháp
tu trì), niệm (nhất tâm chánh trụ niệm sở quán), tinh tấn (tu tập không biếng
nhác), huệ (tư duy tâm không tán loạn).
- Ngũ căn: Tín (tin vào chánh
đạo), tinh tấn (siêng năng cầu đạo không dừng), niệm (nhất tâm quán tưởng),
định (nhất tâm tịch định), huệ (tánh bên trong tự chiếu soi)
- Ngũ lực: Do ngũ căn mà phát
sinh ra 5 thứ lực lượng phá trừ năm chướng: Tín lực phá từ phiền não, tấn lực
phá trừ biếng nhác, niệm lực phá trừ tà tưởng, định lực phá trừ vọng tưởng, huệ
lực phá trừ tất cả tà ngoại.
- Thất giác chi: Niệm (suy niệm
tu các đạo pháp để cho định huệ quân bình), trạch pháp (dùng trí giản trạch sự
chân ngụy của pháp), tinh tấn (dùng tâm dõng mãnh lìa tà hạnh, hành chánh
pháp), hỷ (tâm được pháp thiện liền sinh hoan hỷ), khinh an (đoạn trừ sự thô
trọng của thân tâm, thân tâm nhẹ nhàng thơ thới), định (tâm trụ một cảnh), hành
xả (xả bỏ các sai lầm, xả bỏ tất cả pháp).
- Bát chánh đạo: Chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định, chánh niệm,
chánh mạng.
3. Niệm tăng: Căn cứ vào Kinh
Phật Thuyết Trai, Tăng là phước điền của Trời, người, ở nay nói niệm Tăng là
niệm Chân thật Tăng hoặc Thắng nghĩa Tăng là Thánh Tăng tứ song bát bối chứng
đắc được tứ quả và Tứ hướng quả. Nhưng đối với Tỳ kheo phàm phu Tăng, cũng phải
cung kính cúng dường. Ở đây nói niệm là niệm công đức của Tăng. Vì thế, muốn
niệm Thắng nghĩa chân thật Tăng, ngày thường y chỉ học tập vẫn phải lấy thế tục
Tăng trì giới biết hổ thẹn làm chủ. Nhân vì Phạn ngữ: Tăng già (Sangha) nghĩa
là Hòa hợp chúng, hoặc dịch là chúng. Ở Ấn Độ, 4 người trở lên gọi là chúng; vì
thế, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni từ 4 người trở lên có thể gọi là Tăng già. Người thế
tục, từ 4 người trở lên cũng có thể gọi là Tăng già, do đó đệ tử Phật nói chung
phân ra làm 7 chúng cho đến 9 chúng. Vì thế Kinh A Hàm có đem “quy y Tăng” dịch
thành “quy y chúng”. Nhân đây có người cho rằng: Đã gọi là quy y chúng đâu cần
quyết định quy y người xuất gia? Thật ra, đây là một lập luận sai lầm, mang tội
rất lớn. Vì Đức Phật chưa từng nói quy y Tăng tức là quy y chúng tại gia, mà
lúc nào cũng nói: “Quy y Tỳ kheo Tăng”. Khi mới thành đạo, Phật chưa độ Tỳ kheo
Tăng, nhưng khi độ đệ tử tại gia, Ngài cũng dạy cho họ quy y Tỳ kheo Tăng vị
lai. Đây chính là điều chứng minh quan trọng hơn hết. Vì có nơi hiểu lầm định
nghĩa của chữ Tăng, nên ở đây tôi nói thêm cho rõ.
4. Niệm thiên: trên cõi trời
sống lâu an lạc, nhân vì thọ trì công đức ấy cảm được thọ báo sinh lên đệ lục
thiên của Dục giới, nếu nhất tâm niệm, được quả báo sinh lên trời sống lâu an
lạc.
5. Niệm giới: Trì giới ba nghiệp
được thanh tịnh. Bát quan trai tuy chỉ 8 điều, nhưng phạm vi của sức giới có
thể lớn đến vô cùng vô cực, trì một giới sát là có thể ở trên một phần tất cả
chúng sinh được công đức không sát sinh; ngoài ra, các giới khác cũng có thể
theo đây đoán biết. Cứu cánh của Bát giới cũng gồm đủ Định cộng giới (do Định
khai phát nên gọi là Thiền giới, do định lực tự nhiên không phạm gọi là Định
cộng giới), Đạo cộng giới (chứng được thánh quả lên thánh vị, tuy không thọ
giới, trì giới cũng có thể cùng giới tương ưng là luôn luôn thanh tịnh, cho nên
gọi là đạo cộng giới). Nhân vì ngũ giới là nền tảng của tất cả giới cho nên
công đức lớn nhỏ tùy theo sự phát tâm mà được, nếu dùng tâm Bồ tát trì ngũ
giới; ngũ giới tức thành đại thừa giới, còn nếu cầu phước báo nhân thiên mà trì
Bồ tát giới thì Bồ tát giới cũng đồng như ngũ giới.
6. Niệm thí: Cứu giúp tất cả người
nghèo. Nghèo nàn có 3 thứ: Nghèo nàn về của cải, nghèo nàn về phương pháp tu
phước tu đạo, nghèo nàn về kiến thức làm người xuất thế. Vì thế, Bố thí cũng có
3 thứ: Bố thí tài vật, bố thí pháp, bố thí vô úy. Tài vật làm cho sinh hoạt vật
chất chúng sinh cải thiện. Phật pháp làm cho sinh hoạt tinh thần của chúng sinh
sung mãn. Vô úy làm cho chúng sinh kê vai gánh vác đạo nghĩa, chọn thiện mà
theo, dõng mãnh tiến tới. Căn cứ vào sự giải thích của Luận Trì Độ: “Người trì
giới không phạm tài vật của người còn đem tài vật của mình thí cho người khác
gọi là Tài thí; hay vì người khác thuyết pháp khiến họ khai ngộ đắc đạo gọi là
Pháp thí; tất cả chúng sinh đều có tâm sợ chết, người trì giới không có tâm sát
hại, hay khiến cho chúng sinh không sợ hãi gọi là Vô úy thí”.
Đoạn văn trên giới thiệu nhiều
danh tướng khô khan vô vị, đối với người mới vào cửa Phật mà nói, thì thật là
khó khăn. Chỉ đem nội dung của lục niệm phân biệt rành rẽ đã chẳng phải dễ, lại
thêm cần phải nhất tâm nhất ý niệm pháp lục niệm này lại càng khó hơn. Nhưng
đây là một thứ quy định của pháp môn tu Bát quan trai giới, nếu có thể làm đúng
như pháp thì tốt lắm. Nếu như dụng công phu lục niệm không nổi thì nên dùng
phương pháp trì danh niệm thánh hiệu Phật trong kinh Tiểu thừa, tức là niệm công
đức tướng hảo của Phật; hay là niệm Phật trong tông Tịnh độ, đó là chuyên tâm
trì niệm thánh hiệu Phật A Di Đà. Nếu có phương tiện khác, tỷ như trì chú, tụng
kinh, lễ sám cũng được. Như trong Kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện nói: “Nếu
chúng sinh đời vị lại, mỗi tháng vào ngày mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28,
29, 30, trong 10 ngày trai này đối trước tượng Phật, Bồ tát, chư Hiền Thánh đọc
Kinh Địa Tạng này một lần thì Đông, Tây, Nam, Bắc trong trăm do tuần không có
tai nạn, ngay trong gia đình hoặc lớn hoặc nhỏ, hiện tại, vị lai trong trăm
ngàn năm hằng lìa đường ác!”. Chúng ta thấy 10 ngày trai là ngoài 6 ngày trai
ra còn thêm 4 ngày mùng 1, 18, 24, 28. Mười ngày này nên đọc tụng Kinh Địa Tạng
thì 6 ngày trai cũng nên đọc tụng Kinh Địa Tạng.
Trong Kinh Dược Sư cũng nói:
“Thọ bát phần trai giới lại phải nên niệm công đức bổn nguyện của đức Như lai
(Dược Sư), đọc tụng kinh (Dược Sư) này, tư duy nghĩa lý, diễn nói khai thị”. Do
đây chứng minh ngày thọ trì bát giới có thể tụng kinh. Nguyên do của 6 ngày
trai là Bình Sa Vương thỉnh Phật thuyết pháp trong 6 ngày này để thấy trưng dẫn
ở trên.